Chương 6 CÁC LỰC LƯỢNG VŨ TRANG
Kim Joo-hong
Các lực lượng vũ trang Hàn Quốc bắt đầu liên quan trực tiếp tới chính trị từ cuộc đảo chính quân sự của Park Chung Hee vào tháng 5 năm 1961. Sự kiện chuyển giao “chính quyền dân sự” vào tháng 10 năm 1963 làm tan rã chính quyền quân sự nhưng không khiến các lực lượng vũ trang chấm dứt vai trò trong hoạt động chính trị của đất nước này. Park sau này sẽ điều hành Hàn Quốc trong vai trò một người-lính-chuyển-sang-chính-trị-gia-dân-sự, các lực lượng vũ trang phục vụ cho ông trong vai trò lực lượng đảm bảo trật tự chính trị tối cao vào những thời điểm khủng hoảng và là một nguồn cung cấp ổn định các nhân sự trung thành và ủng hộ làm việc trong các cơ quan chủ chốt ở chế độ chính trị của ông. Quân đội Hàn Quốc thuộc về cái mà Samuel P. Hungtington từng gọi là một “cận vệ cấp cao”, đặt những lợi ích chính trị của Park trước tất cả những thứ khác với niềm tin rằng lợi ích của ông cũng là lợi ích nội bộ của tổ chức này cũng như lợi ích quốc gia của Hàn Quốc.
Theo quan điểm của Park, các lực lượng vũ trang quá quan trọng để không bị chính trị hóa. Thứ nhất, để duy trì được triều đại của mình, Park phải vận động các lực lượng vũ trang, cơ sở quyền lực đáng tin cậy nhất của ông, để kiểm tra, kiểm soát và trấn áp phe đối lập với chế độ độc tài của ông và ngăn không cho xã hội phát triển một nền tảng quyền lực độc lập. Trong suốt thời gian 18 năm, Park tuyên bố về thiết quân luật năm lần và ba lần sử dụng các sắc lệnh quân đồn trú để dập tắt thách thức đang gia tăng từ những nhà bất đồng chính kiến chaeya, các chính trị gia chống đối và các lực lượng xã hội mới nổi. Để khiến quân đội nhất trí chống lại phe đối lập vào những thời điểm khủng hoảng, Park buộc phải chính trị hóa nó, biến nó trở thành công cụ của cá nhân ông. Thứ hai, đã từng là nạn nhân nhưng cuối cùng chính là người hưởng lợi từ nạn bè phái trong các lực lượng vũ trang, Park biết rằng ông phải lợi dụng sự cạnh tranh giữa các bè phái quân đội cho lợi ích của riêng mình nếu ông cần áp đặt sự kiểm soát chặt chẽ lên các lực lượng này. Bằng cách đó, ông đã chính trị hóa các lực lượng vũ trang Hàn Quốc nhiều hơn nữa. Ông trở thành bậc thầy của tranh chấp bè phái và các âm mưu “cung đình”.
Tuy nhiên, cần phải nhấn mạnh rằng việc chính trị hóa quân đội không nhất thiết làm tổn hại đến quá trình hiện đại hóa đất nước. Thật ra, đã từ lâu trước cuộc đảo chính quân sự của Park, sự bùng nổ Chiến tranh Triều Tiên (1950-1953) đã chuyển hóa một đội quân vốn hỗn tạp, gồm các cựu sĩ quan cấp tá và những người chiến đấu độc lập từ tất cả các luồng ý thức hệ bị chia rẽ với vô số bè phái, thành một quân đội chuyên nghiệp với tiềm năng lãnh đạo đất nước đi đến hiện đại. Khi Hàn Quốc hậu chiến trở thành mặt trận phòng thủ chống lại sự lan truyền chủ nghĩa cộng sản ở Đông Á, Hoa Kỳ ồ ạt đổ các khoản viện trợ quân sự khổng lồ để tiếp tục nâng cấp năng lực chiến đấu của nước đồng minh. Bao gồm trong viện trợ này là hoạt động đào tạo các lực lượng sĩ quan Hàn Quốc mà sau này tỏ rõ tầm quan trọng trong quá trình mở rộng vai trò của quân đội thành các hoạt động xây dựng đất nước phi quân sự vào những năm 1960. Trước khi Park khởi động cuộc đảo chính của ông, các lực lượng vũ trang đã trở thành hệ thống tổ chức chặt chẽ và hiện đại nhất ở Hàn Quốc. Trên thực tế, các thành viên của liên minh đảo chính đã thành công khi củng cố quyền lực của họ chủ yếu bởi họ có thể kiểm soát, quản lý và tận dụng được mọi đặc tính phức tạp của các tổ chức quân đội vào mục đích xây dựng quốc gia. Bên cạnh đó, những người này cũng tận dụng được các ưu thế tổ chức bắt nguồn từ thẩm quyền của các tổ chức quân đội nhằm làm suy yếu các lực lượng xã hội và tổ chức quá trình hiện đại hóa.
Không thể kết luận rằng quá trình chính trị hóa các lực lượng vũ trang và việc mở rộng vai trò của lực lượng này sang các lĩnh vực phi quân sự đã cản trở quá trình chuyên nghiệp hóa của quân đội. Trái lại, trong suốt giai đoạn cầm quyền dài của Park, quân đội thậm chí đã trở thành một lực lượng chiến đấu hiện đại chuyên nghiệp hơn và hùng mạnh hơn. Các nhân tố an ninh bên ngoài đã thúc đẩy Park củng cố tinh thần đồng đội của tổ chức này. Đầu tiên, ngay cả sau khi hủy hoại nền kinh tế và xã hội Bắc Triều Tiên trong chiến tranh Triều Tiên, lãnh tụ của nước này, Kim Il Sung, vẫn giữ tham vọng “giải phóng” miền Nam khỏi đế quốc Mỹ, phân bổ đến 25% tổng sản phẩm quốc dân của Bắc Triều Tiên để xây dựng những đại đội pháo hùng hậu dọc theo khu vực phi quân sự hóa (DMZ) và để xúc tiến việc dàn quân phần lớn các lực lượng vũ trang của nước này. Để ngăn cản Kim Il Sung phát động một cuộc Chiến tranh Triều Tiên thứ hai, Park buộc phải đầu tư mạnh vào đào tạo chuyên môn cho các lực lượng sĩ quan, nâng cấp hệ thống vũ khí và xây dựng một ngành công nghiệp quốc phòng. Thứ hai, vào năm 1965 Park đã gửi quân chiến đấu đến miền Nam Việt Nam như một phần trong nỗ lực xây dựng mối quan hệ liên minh gắn bó với nước đồng minh có vẻ thiếu kiên định - Hoa Kỳ, nước ngày càng mong muốn tự giải thoát khỏi các cam kết an ninh châu Á. Trong quá trình này, chiến tranh ở Việt Nam cũng trở thành một cơ hội để thử nghiệm và nâng cấp năng lực quân sự của Hàn Quốc. Sau khi quân chiến đấu được gửi đến Việt Nam, cuộc chiến này đã tự nó trở thành một lý do căn bản để duy trì tốc độ chuyên nghiệp hóa.
Vậy, câu hỏi đặt ra là làm thế nào mà những hình ảnh khác biệt đến thế của các lực lượng vũ trang Hàn Quốc khi họ vừa là một quân đội bị chính trị hóa vừa là một đội quân chuyên nghiệp lại có thể cùng tồn tại. Chương 6 lập luận rằng cả hai hình ảnh này đều tạo nên thực trạng của Hàn Quốc, tuy nhiên chúng không đối lập như vẻ ngoài bởi Park, ý thức được về các tác động đối lập về mặt tổ chức đang còn tiềm ẩn của hai xu hướng này, đã sử dụng một chiến lược chi phối hai cấp độ, chiến lược này cân bằng được những yêu cầu bảo vệ cho một tổ chức quân đội trung thành về mặt chính trị nhưng cũng chuyên nghiệp về mặt tổ chức. Bộ nguyên tắc chi phối thứ nhất là cách ly và độc chiếm. Cả hai đều là biện pháp để ngăn ngừa những thế lực khác không vận động đấu tranh bè phái trong quân đội vì mục đích riêng của họ và là cách để xây dựng một lực lượng chiến đấu chuyên nghiệp có khả năng đáp ứng các thách thức an ninh từ bên ngoài, Park đã cách ly quân đội Hàn Quốc khỏi tất cả các lực lượng chính trị và xã hội ngoại trừ chính ông. Đối với Park, việc cách ly là một bước để tiến tới độc chiếm lòng trung thành của các lực lượng vũ trang cũng như để bảo vệ tinh thần đồng đội và tiềm lực về tổ chức của quân đội. Dưới sự kiểm soát chặt chẽ của ông, quân đội sẽ được sử dụng chỉ như một phương tiện cho chính quyền trong các cuộc đấu tranh chính trị trong nước và như một công cụ phòng vệ quân sự trong mối quan hệ xuyên bán đảo Triều Tiên. Chiến lược nước đôi giữa cách ly và độc chiếm này được thúc đẩy đáng kể bởi chiến thắng của ông trong các cuộc đấu tranh giai đoạn 1961-1963 giữa các thành viên của chính quyền quân sự để kiểm soát quân đội. Khi phát hiện khoảng 11 hoặc hơn “âm mưu phản cách mạng” bị cáo buộc được lên kế hoạch bởi các tướng lĩnh đối thủ trong chính quyền quân sự, Park đã thanh trừng khỏi các lực lượng vũ trang tất cả những kẻ thách thức tiềm năng cho vị trí lãnh đạo của ông trước khi ông thắng trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1963. Sau đó, nhiệm vụ của ông là phải duy trì được quyền kiểm soát khó khăn lắm mới giành được này bất chấp quá trình dân chủ hóa chính trị và bất chấp sự già đi của ông, điều này đã khởi phát cuộc cạnh tranh quyền kế nhiệm giữa các lãnh đạo chính trị cấp cao cấp hai.
Thứ hai, Park đã sử dụng một hệ thống thăng bậc kép mà ở đó các cận vệ cấp cao sẽ chỉ huy các đơn vị tình báo quân sự chiến lược và những quân nhân chuyên nghiệp sẽ đi lên từ tập đoàn quân. Hai lộ trình này hiếm khi gặp nhau, chúng ngăn không cho quá trình chuyên nghiệp hóa bị cản trở bởi việc Park sử dụng các lực lượng vũ trang làm cận vệ cá nhân cấp cao vào các thời điểm khủng hoảng và cũng không để cho quá trình chính trị hóa làm suy yếu quá trình biến đổi không ngừng các lực lượng vũ trang Hàn Quốc thành một tổ chức chuyên nghiệp. Khi một cựu học viên của Học viện Quân sự Hàn Quốc bước chân vào con đường chỉ huy chiến đấu hay một vị trí an ninh chống lật đổ, anh ta thường ở nguyên trong con đường lựa chọn ban đầu và hưởng những đặc quyền dành cho con đường sự nghiệp đó. Những người chọn con đường an ninh chống lật đổ được Park tin tưởng cho tham gia vào các nhóm trung tâm ra quyết định về các vấn đề chính trị tối quan trọng. Họ nắm giữ quyền lực lớn hơn nhiều so với các tư lệnh chiến trường, tuy nhiên họ hiếm khi được thăng bậc lên cấp tướng bốn sao. Theo một cách nào đó, các sĩ quan trong lực lượng an ninh đánh đổi danh dự và uy tín vì quyền lực. Ngược lại, các sĩ quan theo con đường chỉ huy chiến trận sẽ lên đến những vị trí cao nhất và uy tín nhất trong các lực lượng vũ trang, trong đó có cả vị trí tổng tham mưu trưởng bốn sao của quân đội. Nhiệm vụ của tập đoàn quân là duy trì khả năng phòng vệ quân sự chống lại Bình Nhưỡng.
Ngoài ra, Park cũng sử dụng chiến lược chia để trị đối với các sĩ quan an ninh để ngăn cản sự hình thành các đối thủ thách thức vị trí lãnh đạo của ông trong quân đội. Tổng cục An ninh Quân đội (ASC) bị giám sát chặt chẽ bởi Sở chỉ huy Quân đồn trú Thủ đô (CGC), rồi hai cơ quan này lại bị kiểm soát bởi Cơ quan Tình báo Trung ương Hàn Quốc (KCIA) cùng Văn phòng An ninh Tổng thống (PSS), hai cơ quan cốt lõi khác trong bộ máy an ninh của Park. Cho dù như vậy, Park vẫn ý thức được rằng mình cần phải ra quyết định cá nhân về việc thăng cấp cho các sĩ quan quân đội cấp cao để giữ cho những vị phó tướng tin cẩn nhất của ông chuyên tâm vào nhiệm vụ của họ.
Các thách thức an ninh và quá trình chuyên nghiệp hóa
Quân đội là phương tiện cho chính sách đối ngoại, 1963-1967
Park Chung Hee nhận thấy phát triển kinh tế và an ninh quốc gia có mối liên kết không thể tách rời; xây dựng một quân đội hùng hậu cần một nền kinh tế công nghiệp mạnh mẽ và ngược lại. Tập trung vào tăng trưởng kinh tế với niềm tin rằng quá trình này sẽ dẫn đến tích lũy quân sự trong dài hạn không thể là chiến lược hiện đại hóa ông chọn, vì trong suốt giai đoạn cầm quyền của ông mối đe dọa quân sự từ Triều Tiên là có thật và rất cận kể. Tập trung vào tăng trưởng kinh tế chỉ khả thi khi Hàn Quốc có được những sức mạnh quân sự hùng hậu để ngăn cản Kim Il Sung không phát động chiến tranh. Bắc Triều Tiên đã vượt qua đối thủ phương nam về GNP bình quân đầu người trước năm 1958. Để làm tăng thêm hơn nữa các mối quan ngại, khoảng cách Bắc-Nam tiếp tục mở rộng trong suốt những năm 1960 với việc hoàn tất thành công Kế hoạch Khôi phục 3 năm (1954-1956) và Kế hoạch 5 năm đầu tiên (1957-1961) của Kim Il Sung. Khoảng cách kinh tế gia tăng cũng biến thành khoảng cách quân sự khi nó cho phép Bình Nhưỡng gây dựng lại các lực lượng vũ trang của nước này. Với khoảng 25-30% GNP chi tiêu cho quốc phòng, Bắc Triều Tiên có thể duy trì được một quân đội thường trực đến hơn 400.000 lính, với dân số chỉ bằng một nửa của Hàn Quốc.
Bắt kịp và cuối cùng là vượt qua Bắc Triều Tiên ở cả sức mạnh kinh tế và quân sự là những nhiệm vụ cực kỳ khó khăn. Nền kinh tế Hàn Quốc quá nhỏ, quá nghèo và quá mỏng manh trước các mối đe dọa an ninh để có thể thu hút được vốn đầu tư nước ngoài. Do đó Park đã sử dụng sức mạnh nhà nước và thương lượng chính trị để làm được những điều thị trường không thể làm. Không chỉ củng cố liên minh với Hoa Kỳ — trụ cột phòng vệ quân sự và an ninh cuối cùng của Hàn Quốc - mà còn có được vốn đầu tư, công nghệ và thị trường xuất khẩu thông qua chính sách đối ngoại, vào giữa những năm 1960 Park đã tiến hành hai chính sách đối ngoại đầy tranh cãi và quân đội đều đóng vai trò quan trọng trong hai chính sách này. Một là để thu được khác nguồn quỹ bồi thường thiệt hại thông qua quá trình bình thường hóa quan hệ ngoại giao với chính quyền thực dân từng chiếm đóng đất nước, Nhật Bản, chính sách này đã khiến xã hội rơi vào hỗn loạn đến mức chỉ quân đội mới có thể kiểm soát được. Chính sách thứ hai là việc gửi quân chiến đấu sang miền Nam Việt Nam với tư cách là một đồng minh của Hoa Kỳ nhằm phục vụ cho mục đích hiện đại hóa quân đội, phát triển kinh tế và củng cố liên minh. Việc gửi quân chiến đấu đã giúp Park kiếm được một khoản viện trợ ổn định từ Mỹ (xem Chương 14 và 15).
Trong trường hợp bình thường hóa quan hệ với Nhật Bản, quân đội giữ vai trò của một người bảo vệ trung thành che chắn cho Park cùng với chế độ khỏi những đợt biểu tình rộng khắp nổ ra vào tháng 6 năm 1964. Vì các trường đại học nổi loạn, Park đã phải đình chỉ các cuộc đàm phán với Nhật Bản, tuy nhiên bên cạnh đó ông cũng ban bố thiết quân luật để trấn áp phe đối lập hòng dọn đường cho việc nối lại các cuộc thương thảo. Do đó bắt đầu từ “Sự kiện ngày 3 tháng 6”, lần đầu tiên kể từ khi chuyển đổi sang chế độ dân sự, Park phải huy động bốn sư đoàn bộ binh để bảo vệ vị trí tổng thống của mình. Sau khi quân đội đã tái lập lại trật tự, Park điều động cảnh sát bắt giữ các lãnh đạo sinh viên và yêu cầu lệnh bắt giữ từ tòa án. Khi tòa án từ chối, 12 thành viên có vũ trang thuộc đơn vị không quân dưới quyền Sở chỉ huy Quân đồn trú Thủ đô đã xông vào tòa án và buộc các vị thẩm phán phải đưa ra lệnh bắt. Những người lính không quân cũng xông vào văn phòng tòa soạn Dong-A Ilbo đe dọa các phóng viên và biên tập viên vì những báo cáo quan trọng của họ về vụ đàn áp. Tổng cục Phản gián (CIC), cơ quan tiền thân của Tổng cục An ninh Quân đội, cũng phải dùng đến bạo lực để đe dọa các nhà báo ở Dong-A Ilbo và Hệ thống Phát sóng Dong-A.
Cuối cùng, chính quân đội — đặc biệt là CGC và CIC — đã bảo vệ chế độ cầm quyền của Park khỏi các nhà hoạt động sinh viên và các chính trị gia đối lập suốt những ngày tồi tệ nhất của Sự kiện ngày 3 tháng 6. Cả hai lực lượng an ninh này và các lãnh đạo quân đội khác cùng với binh lính của họ đã loại bỏ những trở ngại chính trị đối với quá trình bình thường hóa quan hệ Hàn Quốc-Nhật Bản, mối giao bang mà Park tin là điều kiện tiên quyết không chỉ cho phát triển kinh tế mà còn thắt chặt hơn nữa mối quan hệ liên minh của Hàn Quốc với Hoa Kỳ. Ngoài ra, bằng cách cho phép quân đội lên tiếng phản ánh những quan ngại về các nỗ lực của Kim Jong-pil nhằm củng cố vị thế dẫn đầu trong cuộc đua kế vị tổng thống, Park không chỉ tìm được một bia đỡ đạn tốt để bảo vệ bản thân khỏi quần chúng đang phẫn nộ mà còn có thể loại bỏ một kẻ có tiềm năng thách thức quyền lực của ông. Kim từng là cánh tay phải của Park và cũng là một nhà đàm phán bí mật trong thỏa thuận bình thường hóa. Khủng hoảng hiệp ước 1964 cho thấy các lực lượng vũ trang đã bảo vệ cho chế độ chính trị của Park, với việc trừng trị lực lượng chống đối chính trị, xây dựng môi trường an ninh vị phát triển và loại bỏ những người thách thức tiềm năng bằng cách tham gia vào trò chơi chia để trị của Park.
Ngược lại, việc gửi quân chiến đấu đến miền Nam Việt Nam lại gây ra ít tranh cãi hơn nhiều. Không có bất cứ lực lượng chính trị quan trọng nào có thể mạnh miệng thách thức lời kêu gọi của Park để giúp đỡ nỗ lực chiến tranh của Mỹ ở miền Nam Việt Nam như một cách để trả các món nợ của Hàn Quốc với Hoa Kỳ vì đã tham gia chiến đấu bảo vệ Hàn Quốc vào tháng 6 năm 1950. Bên cạnh đó, việc gửi lính đi được xác định là một cơ hội để có được vốn đầu tư và thị trường xuất khẩu cho các dự án hiện đại hóa kinh tế. Các lợi ích quân sự cũng trở nên quan trọng khi chiến tranh tại Việt Nam được đánh giá là sẽ tạo cho các lực lượng vũ trang Hàn Quốc một cơ hội để có được kinh nghiệm chiến đấu vô giá và hiện đại hóa các lực lượng này với hệ thống vũ khí tối tân của Mỹ. Hơn nữa, sự can thiệp quân sự của Hàn Quốc thuyết phục được Hoa Kỳ không tái phân bổ một số đơn vị quân đội Mỹ đóng ở Hàn Quốc sang các chiến trường ở miền Nam Việt Nam. Do vậy, sau khi Tổng thống Lyndon B. Johnson chính thức đề nghị vào tháng 5 năm 1964 rằng Hàn Quốc cần hỗ trợ cho các nỗ lực của Mỹ ở miền Nam Việt Nam, đến tháng 9 Park đã gửi đi 1.954 sĩ quan quân đội, các đơn vị Bệnh viện Phẫu thuật Quân đội Di động (MASH), và 10 võ sư nghệ thuật đối kháng Taekwondo, tất cả đều cho những mục đích phi chiến đấu.
Việc gửi quân chiến đấu có khó khăn hơn, nhưng tâm lý phản chiến vẫn còn quá yếu để có thể ngăn cản được việc này. Để chuẩn bị cho hoạt động này, Park cử Chae Myeong Shin, tư lệnh tác chiến quân đội, cho nhiệm vụ tìm hiểu thực tế để đánh giá bối cảnh quân sự ở miền Nam Việt Nam, tuy nhiên việc này chỉ khiến Ch’ae đưa ra đề nghị không nên can thiệp quân sự. Đảng Dân chủ Cộng hòa (DRP) cầm quyền vốn đã có sự rạn nứt nội bộ vào năm 1964 khi Quyền Chủ tịch Jeong Ku-young công khai chống đối việc gửi quân chiến đấu vì sợ làm xấu đi hình ảnh của các lực lượng vũ trang Hàn Quốc, đội quân này vốn đã bị một số người xem như lính đánh thuê. Kể cả thành viên Nghị viện Quốc gia Cha Ji-cheol - một trong những phó tướng tin cẩn nhất kể từ khi làm vệ sĩ cho Park trong cuộc đảo chính năm 1961 — cũng đã kết hợp với khoảng 20 nhà lập pháp DRP để chuẩn bị cho một đề xuất hủy bỏ quyết định gửi quân chiến đấu. Đảng Dân chủ Quốc gia (NDP) đối lập, các sinh viên đại học và các trí thức tiến bộ cũng phản đối việc gửi quân, nhưng dĩ nhiên không bằng với quy mô họ đã thể hiện khi chống lại lộ trình bình thường hóa quan hệ với Nhật Bản của Park. Tiếng nói của lực lượng chống đối yếu và phân tán. Vào tháng 1 năm 1965, tám tháng sau lời đề nghị can thiệp quân sự chính thức của Johnson và bốn tháng sau khi gửi quân phi chiến đấu, 2.000 binh sĩ chiến đấu Hàn Quốc đã lên tàu đến miền Nam Việt Nam.
Vì những rủi ro và mối nguy hiểm chính trị trong việc gửi quân chiến đấu đến miền Nam Việt Nam vào giữa giai đoạn căng thẳng xã hội bắt nguồn từ quá trình bình thường hóa quan hệ Hàn Quốc-Nhật Bản, Park có ý định giành được càng nhiều sự nhượng bộ kinh tế và an ninh từ Hoa Kỳ càng tốt. Trước khi gửi bổ sung quân chiến đấu để biến việc can thiệp quân sự của Hàn Quốc trở thành toàn diện vào tháng 10 năm 1965, Park yêu cầu một lời hứa từ Hoa Kỳ về việc gia tăng viện trợ kinh tế song phương, hỗ trợ công tác tăng cường khả năng sẵn sàng chiến đấu của các lực lượng vũ trang Hàn Quốc và duy trì mức độ hiện diện quân sự hiện tại của Mỹ ở Hàn Quốc bất chấp việc leo thang nhanh chóng những đòi hỏi về binh lính của Mỹ ở miền Nam Việt Nam. Các cuộc đàm phán được chính thức hóa trong Bản ghi nhớ Brown vào ngày 4 tháng 3 năm 1966, trong văn bản này Hoa Kỳ đồng ý tài trợ cho chi phí gửi quân của Hàn Quốc đến miền Nam Việt Nam và hỗ trợ quá trình hiện đại hóa các lực lượng vũ trang của nước này với mục đích xóa bỏ khoảng cách về tiềm lực quân sự so với Triều Tiên. Người ta ước tính rằng thông qua thỏa thuận này, khoản viện trợ kinh tế và quân đội trị giá 1 tỷ đô-la Mỹ đã được chuyển đến Hàn Quốc suốt giai đoạn 1965-1970, chiếm đến khoảng 19% tổng thu ngoại tệ.
Những đe dọa từ Triều Tiên, 1968-1971
Năm 1968 bắt đầu một giai đoạn chuyển giao về an ninh. Vào ngày 21 tháng 1, 31 lính biệt kích Triều Tiên đã đột nhập thành công mặt trận phía tây khu vực phi quân sự hóa nằm dưới quyền kiểm soát của Sư đoàn Bộ binh 2 của Quân đội Hoa Kỳ, và đã tiến sát vào, chỉ còn cách Nhà Xanh 1 kilômét, để chuẩn bị một đòn tấn công bất ngờ nhằm vào Park. Một cuộc đấu súng ác liệt đã nổ ra ngay tại trung tâm Seoul, làm tử vong Choi Kyu-sik của Sở Cảnh sát Chongno và một số hành khách trên một xe buýt bị lính biệt kích phá hủy. “Sự kiện ngày 21 tháng 1” đã gây rúng động quân đội Hàn Quốc, cho thấy sự mỏng manh của Hàn Quốc trước cuộc đột nhập và phơi bày sự thiếu chuẩn bị của Hàn Quốc trước những xung đột quân sự phi chính thống mặc cho kinh nghiệm chiến đấu ở miền Nam Việt Nam và quá trình hiện đại hóa hệ thống vũ khí của nước này. Khả năng tác chiến và quyết tâm mang tính ý thức hệ của những người lính biệt kích nhằm tiến hành một sứ mệnh cảm tử cũng đáng ngạc nhiên. Trong số 31 lính biệt kích, chỉ một người bị bắt sống. Số còn lại đã chiến đấu đến người cuối cùng, thể hiện tinh thần chiến đấu của các đơn vị đặc nhiệm Triều Tiên. Thông tin về việc lính biệt kích đã tiến được 40 kilômét dọc theo sườn núi của mặt trận phía tây để tiếp cận được Seoul chỉ trong một ngày đã làm tăng thêm cảm giác dễ bị tấn công của Hàn Quốc.
Vào ngày 23 tháng 1, hai ngày sau cuộc tấn công biệt kích thất bại của Triều Tiên xuất hiện tin tức về việc Triều Tiên bắt giữ USS Pueblo, một tàu tình báo Mỹ đang truyền tin báo cáo trong vùng biển cả [93] phía đông Wonsan, Triều Tiên. Trong lúc bị giam giữ, các thành viên trên tàu đã bị ép phải công khai xin lỗi vì xâm nhập vào vùng lãnh hải của Triều Tiên với mục đích gián điệp. Câu hỏi làm thế nào để đối phó với những hành động khiêu khích của Triều Tiên đã tạo nên một vết nứt trong liên minh Hàn-Mỹ. Mặc dù Park yêu cầu Hoa Kỳ trước tiên phải giải quyết cuộc tấn công đột kích của Triều Tiên vào Nhà Xanh, Johnson lại tập trung vào việc giải thoát thủy thủ đoàn Pueblo. Hơn nữa, trái ngược với sự sẵn sàng trả đũa quân sự của Park, Johnson chọn cách tìm kiếm một thỏa thuận thông qua đàm phán; ông ta không thể có khả năng chịu đựng rủi ro chiến tranh ở một phần khác của châu Á khi mà tình hình ở miền Nam Việt Nam đang tiếp tục xấu đi. Park cảm thấy bị Hoa Kỳ bỏ rơi khi Johnson đơn phương đàm phán về việc phóng thích thủy thủ đoàn Pueblo mà không hề hành động gì để ngăn cản việc tái xảy ra những cuộc tấn công đột kích của Triều Tiên vào Hàn Quốc. Cảm giác bị phản bội trở nên đặc biệt nghiêm trọng bởi Park nghĩ rằng mình đã đánh cược vị trí tổng thống để sát cánh với Johnson trong Chiến tranh tại Việt Nam. Tuy nhiên ông cũng đủ thực dụng để không leo thang xung đột với Hoa Kỳ.
Trái lại, Park đã chuyển hóa vết rạn nứt này thành một cơ hội khác để tăng cường tiềm lực quốc phòng của Hàn Quốc. Nhằm xoa dịu Park, phái viên của tổng thống Mỹ Cyrus Vance đã viếng thăm Seoul để công bố một thông cáo chung trong đó Mỹ cam kết tăng cường viện trợ quân sự. Thêm nữa, Vance đồng ý về việc trang bị các lực lượng dự bị mới thành lập với nhiệm vụ bảo vệ hậu phương khỏi các mối đe dọa phi chính thống; tổ chức một cuộc họp cấp Bộ trưởng Bộ Quốc phòng song phương đều đặn để nâng cấp liên minh và tái xác định chính sách sử dụng binh lính của Lực lượng Hoa Kỳ đóng ở Hàn Quốc (USFK) là làm “dây bẫy” bằng người chống lại sự xâm lược của các lực lượng vũ trang Triều Tiên bằng cách duy trì việc triển khai quân đội gần DMZ. [94] Việc triển khai quân đội là để đảm bảo sự tham gia quân sự tự động của Hoa Kỳ trong trường hợp chiến tranh nổ ra ở Bán đảo Triều Tiên, vì quân lính xâm lược Triều Tiên chỉ có thể tiến đến được Seoul sau khi đã vượt qua binh sĩ USFK đóng giữa DMZ và Seoul trên mặt trận phía tây bằng phẳng.
Bất chấp những hoạt động chứng tỏ cam kết của Mỹ với nền quốc phòng Hàn Quốc, khiêu khích quân sự của Triều Tiên vẫn tiếp diễn suốt cuối những năm 1960. Vào ngày 30 tháng 10 năm 1968, hơn 100 quân biệt kích đã đổ bộ lên bờ biển phía đông của Uljin và Samcheok để quấy rối quân đội Hàn Quốc từ phía hậu phương. Vào ngày 15 tháng 5 năm 1969, Triều Tiên bắn hạ một máy bay do thám EC-121 của Mỹ để thăm dò ý định và tiềm lực của các đồng minh. Vào ngày 11 tháng 12 cùng năm đó, Triều Tiên tổ chức cướp một chuyến bay nội địa của Korean Air. Có lẽ, Kim Il Sung đã tiến hành những hành động khiêu khích quân sự vì tin rằng người dân Hàn Quốc sẽ nổi dậy lật đổ Park khi có những dấu hiệu nhỏ nhất cho thấy điểm yếu của ông. Thành công của miền Bắc Việt Nam với chiến tranh du kích cũng cổ vũ Kim thử nghiệm các hoạt động quân sự phi chính thống. Tuy vậy, ông này đã phải thất vọng cay đắng khi người dân Hàn Quốc tập hợp lực lượng ủng hộ các nỗ lực của Park để tăng cường tiềm lực quân sự. Các lực lượng dự bị mới tham gia cùng quân sĩ thường trực trong các hoạt động chống du kích ở Uljin và Samcheok. Park cũng thành lập Học viện Quân sự Đệ Tam để đào tạo các sĩ quan quân đội trẻ ở quy mô lớn hơn nhiều so với Học viện Quân sự Hàn Quốc (KMA); thành lập nhiều đơn vị lực lượng đặc nhiệm cho các hoạt động chống nổi dậy và phản gián; tạo ra các vị trí chỉ huy mới ở vùng hậu phương; sử dụng các hệ thống vũ khí mới; và kéo dài thời gian phục vụ của những người lính nhập ngũ từ hai thành ba năm.
Tuy nhiên, tình hình an ninh tiếp tục tồi tệ thêm. Với Học thuyết Guam, được công bố vào tháng 7 năm 1969, tổng thống Mỹ mới đắc cử Richard M. Nixon bắt đầu chuẩn bị một lối thoát “danh dự” khỏi Chiến tranh Việt Nam. Mặc dù học thuyết này cam kết duy trì sự hỗ trợ của Mỹ cho các nước đồng minh ở châu Á trong khuôn khổ các thỏa thuận quốc phòng hiện có, Park đã hiểu rằng đó là một dấu hiệu cho thấy cam kết của Mỹ với Hàn Quốc và khu vực Đông A đang suy yếu. Với GNP bình quân đầu người và tổng chi tiêu cho quân sự tiếp tục thấp hơn so với của Triều Tiên, Học thuyết Guam khiến Hàn Quốc trở nên bất ổn sâu sắc. Càng gia tăng các mối quan ngại hơn nữa, nỗ lực tìm kiếm lối thoát khỏi Chiến tranh Việt Nam của Mỹ lên đến đỉnh điểm với cuộc viếng thăm bí mật của cố vấn an ninh quốc gia Henry A. Kissinger đến Bắc Kinh vào tháng 7 năm 1971 để chuẩn bị cho một hội nghị thượng đỉnh Trung-Mỹ cũng như việc Trung Quốc gia nhập vào Liên Hợp Quốc với vai trò thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an. Mặc dù vậy, sự xuất hiện của hành động xoa dịu trong mối quan hệ giữa các siêu cường đã diễn ra cùng lúc với xu hướng gia tăng căng thẳng trái ngược trên Bán đảo Triều Tiên. Bình Nhưỡng tuyên bố Bốn Nguyên tắc Quân sự để gia tăng áp lực quân sự lên Seoul trong năm 1962. [95] Vào tháng 1 năm 1969, nước này đồng thuận việc tiến thành đồng thời chiến tranh chính thống và phi chính thống nếu có phát động tấn công bất ngờ vào Hàn Quốc.
Với sự thay đổi các mục tiêu quân sự của Mỹ ở Chiến tranh Việt Nam, Park đã mất đi nguồn lực tạo ưu thế đối với những chính sách của Mỹ. Trong những năm 1960, Park đã tận dụng nhu cầu của Johnson đối với sự hỗ trợ của Hàn Quốc cho các nỗ lực chiến tranh không chỉ vì mục đích có được viện trợ của Mỹ trong quá trình hiện đại hóa quân đội và phát triển kinh tế quốc gia mà còn để giành được sự nhượng bộ của Mỹ khi ông xử lý ngày càng mạnh tay với phe đối lập chính trị trong nước. Khi Học thuyết Guam làm yếu đi vị thế của Park, ông điên cuồng cố gắng kiểm soát thiệt hại. Mục tiêu là khiến Hoa Kỳ phải rút lại hoặc thu hẹp quy mô của kế hoạch giảm, rút quân khỏi Hàn Quốc đang hình thành nhanh chóng. Nếu mục tiêu này không thể đạt được, mục tiêu kế tiếp sẽ là gia tăng viện trợ quân sự của Mỹ như một sự đền bù cho bất kỳ binh sĩ Mỹ nào bị rút đi. Bên cạnh đó, Park biết rằng ông đang hoạt động chống lại các thế lực thay đổi nằm ngoài tầm kiểm soát của mình, ông bắt đầu chuẩn bị cho điều tồi tệ nhất khi dấn thân vào một kế hoạch tham vọng khiến Hàn Quốc có thể tự cung tự cấp về quân lực quốc phòng thông qua quá trình công nghiệp hóa ngành công nghiệp nặng và hóa chất.
Hoạt động cắt giảm và di chuyển của quân đội USFK diễn ra mạnh mẽ vào đầu những năm 1970. 24.000 binh sĩ thuộc Sư đoàn Bộ binh 7 của Mỹ cùng 3 tiểu đoàn không quân chiến đấu đã rời khỏi Hàn Quốc trước tháng 3 năm 1971, trong khi đó Sư đoàn Bộ binh 2 của Mỹ với 20.000 binh sĩ đã rút về Tongducheon, khu vực phía nam các căn cứ quân sự tiền phương ban đầu của đơn vị này, việc này buộc Sư đoàn Bộ binh 1 của Quân đội Hàn Quốc phải chính thức tiếp quản hoạt động phòng ngự mặt trận phía tây từ Tập đoàn quân 8 của Mỹ. Còn lại 46.000 quân USFK đóng ở Bán đảo Triều Tiên, đủ để duy trì phòng vệ chống lại Triều Tiên. Tuy vậy, Học thuyết Guam đã giúp Park nhận ra rằng Hàn Quốc phải tự chịu trách nhiệm một phần lớn trong công tác phòng ngự của nước mình và điều đó đồng nghĩa với việc hiện đại hóa quân đội nhiều hơn nữa.
Vào giai đoạn 1971-1975, Bộ Quốc phòng (MoND) thúc đẩy một dự án hiện đại hóa quân sự quyết liệt với một chương trình viện trợ quân sự của Mỹ trị giá 1,5 tỷ đô-la Mỹ mà Bộ trưởng Bộ Ngoại giao đã giành được từ những cuộc đàm phán với đại sứ Mỹ William J. Porter kết thúc vào tháng 2 năm 1971, để đổi lại việc chấp thuận cho hoạt động rút về một trong hai sư đoàn mặt đất của Mỹ. [96] Bộ Thương mại và Công nghiệp hỗ trợ MoND bằng cách tiến hành xây dựng một khu phức hợp công nghiệp khổng lồ ở Changwon vào tháng 4 năm 1974 nhằm mục đích xây dựng một cơ sở hạ tầng công nghiệp cho hoạt động sản xuất vũ khí quân sự. Bộ Khoa học và Công nghệ cũng tham gia vào nỗ lực này với việc thành lập Cơ quan Phát triển Phòng thủ [97] để chịu trách nhiệm tuyệt đối về sản xuất các hệ thống vũ khí mới cũng như tiếp quản trang thiết bị chiến tranh được quân đội Mỹ chuyển giao khi rời Hàn Quốc như là một phần của thỏa thuận song phương được ký vào tháng 9 năm 1973. Theo cách này, Park bắt đầu tiến hành kế hoạch tham vọng của ông nhằm phát triển các ngành công nghiệp nặng và hóa chất như là nền móng tự cung tự cấp để hiện đại hóa những tiềm lực quân sự của Hàn Quốc đến mức đủ để ngăn chặn những cuộc tấn công từ Triều Tiên. Trong khi Hàn Quốc đã đồng ý với Hoa Kỳ vào tháng 2 năm 1971 về việc tổ chức một Cuộc họp Cố vấn An ninh song phương giữa các Bộ trưởng Bộ quốc phòng và Bộ Ngoại giao của hai nước như là một nỗ lực xây dựng liên minh, Park tiếp tục tập trung vào tính tự cường, do tính thiếu chắc chắn trong các mục tiêu, ý định và chiến lược của Mỹ.
Bắt kịp về quân sự, 1972-1979
Để hỗ trợ quá trình phát triển ngành công nghiệp quốc phòng một cách có tổ chức, Park đã chỉ định Oh Won-chul làm Thư ký Cấp cao Thứ hai chịu trách nhiệm các sự vụ kinh tế vào năm 1971 và giao phó cho ông này nhiệm vụ điều phối quá trình công nghiệp hóa ngành công nghiệp nặng và hóa chất (HCI). Theo khuyến nghị của Oh Won-chul, Park đã thành lập một Cục Công nghiệp Quốc phòng thuộc Bộ Quốc Phòng và tổ chức ra Hội đồng Hậu cần do thủ tướng chỉ đạo, để phối hợp mối hợp tác liên bộ vào trong chính sách ngành công nghiệp quốc phòng vào tháng 3 năm 1973. Ba tuần trước đó, Park đã thông qua Luật Thu mua Hậu cần Đặc biệt để hỗ trợ cho các tập đoàn chaebol tham gia vào các dự án HCI chiến lược với mục tiêu chuyển hóa các tập đoàn này thành các doanh nghiệp quốc phòng. MoND nhiệt thành phản hồi lại kế hoạch của Park và cuối cùng đã đặt ra vị trí Vụ trưởng Công nghiệp Quốc phòng vào tháng 9 năm 1977 và tách Cục Công nghiệp Quốc phòng thành ba cục riêng biệt vào tháng 12 cùng năm đó. Thậm chí, Park đã phát triển, hoặc cố gắng tỏ ra đang phát triển, một chương trình vũ khí hạt nhân với mục tiêu xoay chuyển lời hứa lúc tranh cử của Tổng thống Jimmy Carter về rút lui quân sự và nhằm tạo được phương tiện phòng vệ riêng của Hàn Quốc (xem Chương l6). [98]
Cán cân quyền lực giữa hai nước trên bán đảo Triều Tiên bắt đầu chuyển dịch về phía có lợi cho Hàn Quốc một cách rõ nét vào giữa những năm 1970. Nền kinh tế Hàn Quốc tiếp tục tăng trưởng với tốc độ quá nhanh, vượt qua Triều Tiên về GNP bình quân đầu người vào năm 1974 và nới rộng khoảng cách này lên đến 50% GNP bình quân đầu người của Triều Tiên vào năm 1977. Về chi phí cho quốc phòng, thay đổi cũng diễn ra đậm nét. Năm 1969, Hàn Quốc cung cấp chỉ 50% tổng nhu cầu quốc phòng bằng nguồn lực trong nước, đến trước năm 1975, tỷ lệ tự cung cấp trong chi phí quốc phòng đã vượt qua 90%. Viện trợ quân sự gián tiếp của Mỹ kết thúc vào năm 1974 và viện trợ quân sự trực tiếp chấm dứt vào năm 1978, tuy nhiên điều này không hề đe dọa những tiềm lực của Hàn Quốc. Sau khi có được chương trình viện trợ quân sự 1,5 tỷ đô-la Mỹ từ Hoa Kỳ vào năm 1971, Park đã cố gắng hơn để bòn rút từ những nguồn lực trong nước nhằm duy trì các lực lượng vũ trang ở mức 600.000 cho đến 650.000 binh lính. Vào tháng 7 năm 1975, ông áp dụng thuế quốc phòng để hỗ trợ một khoản gia tăng trong ngân sách quốc phòng từ 4% lên 5% GNP cả nước bắt đầu từ năm 1976.
Chương trình nâng cấp vũ khí cũng có tiến triển trong suốt kỳ nguyên yushin (xem Chương 8). Giai đoạn 1971-1976 chứng kiến khu phức hợp công nghiệp quốc phòng Hàn Quốc thiết lập được một nền móng vững chắc trong hoạt động nghiên cứu và phát triển cũng như trong khả năng sản xuất hàng loạt đạn dược và vũ khí hạng nhẹ như súng trường M-16, súng cối và lựu đạn cầm tay thông qua một hệ thống các chương trình nội địa hóa và các thỏa thuận cấp phép công nghệ phức tạp. Vào năm 1974, Park tiến hành Chương trình Yulgok, chương trình này vận hành đến năm 1981, với mục tiêu tiến nhanh đến giai đoạn nâng cấp tiềm lực quân sự tiếp theo. Hoạt động sản xuất hàng loạt các vũ khí hạng nhẹ cơ bản và đạn dược được thể chế hóa trong giai đoạn đầu tiên của Yulgok. Tháng 9 năm 1978, với sự hiện diện của Park Chung Hee, các lực lượng vũ trang Hàn Quốc ăn mừng cuộc phóng thành công tên lửa thử nghiệm mang tên Paekkom (Gấu Trắng), một tên lửa Nike-Hercules được thiết kế lại với tầm bắn 180 kilômét. [99] Tuy nhiên, không phải tất cả các chương trình công nghiệp quốc phòng đều đóng góp cho lợi ích quốc gia của Hàn Quốc cũng như cho các mục tiêu chính trị của Park theo cách tích cực. Chương trình hạt nhân bí mật tiêu tốn nhiều chi phí hơn là mang lại lợi ích khi chương trình này làm tăng cao nỗi lo ngại của Mỹ về hoạt động phổ biến vũ khí hạt nhân cấp khu vực và làm tổn hại đến mối quan hệ của Park với Jimmy Carter đến mức không thể khắc phục được. Để ngăn cản Park không tiến hành giai đoạn phát triển vũ khí hạt nhân tiếp theo, Hoa Kỳ đã đề nghị triển khai các tên lửa tầm xa ở Hàn Quốc.
Mặc cho Hàn Quốc bắt kịp thành công về mặt quân sự, những đe dọa từ Triều Tiên tiếp tục diễn ra vào những năm 1970. Trong suốt giai đoạn 1974-1978, quân đội Hàn Quốc đã phát hiện những đường hầm dưới lòng đất do Triều Tiên đào để đưa lính của nước này đột nhập vào giữa vùng hậu phương của Hàn Quốc. Đường hầm dưới lòng đất đầu tiên được phát hiện ở Korangpo thuộc mặt trận phía tây giáp với DMZ vào tháng 11 năm 1974; cái thứ hai được tìm thấy ở Cheolwon, trong mặt trận trung tâm vào tháng 3 năm 1975; và hầm thứ ba ở gần Panmunjeom vào tháng 10 năm 1978. Các đường hầm thứ hai và thứ ba lớn đến mức có thể chứa được những xe tải 5 tấn và các khẩu pháo 155mm. Các lực lượng vũ trang Hàn Quốc ước tính có đến khoảng bốn hàng lính bộ binh có thể hành quân xuống mỗi một trong hai đường hầm này để tấn công quân đội Hàn Quốc từ hậu phương. Vào ngày 18 tháng 8 năm 1976, hai sĩ quan Mỹ đã bị lính Triều Tiên giết một cách dã man bằng rìu ngay trong Khu vực An ninh Chung ở Panmunjeom. Những hoạt động khiêu khích này của Triều Tiên chỉ làm tồi tệ thêm cảm giác yếu ớt của Hàn Quốc. Triều Tiên gây áp lực quân sự lên Hàn Quốc vào đúng chiến dịch tranh cử tổng thống của Carter, chiến dịch tranh cử này đã khiến vai trò tương lai của quân đội Mỹ ở Bán đảo Triều Tiên không còn chắc chắn. Các đường hầm và những kẻ giết người dùng rìu chỉ càng làm tăng thêm quyết tâm của Park nhằm chống lại Triều Tiên với sự thống nhất chính trị nội bộ và nhằm phát triển các tiềm lực quân sự.
Tại Cuộc họp Cố vấn An Ninh Hàn-Mỹ lần thứ 10 tổ chức ở Seoul vào tháng 7 năm 1977, các đại diện của quân đội hai nước đồng minh đồng ý kết hợp cơ quan chỉ huy tác chiến của binh lính Hàn Quốc với của binh lính USFK và thành lập một Bộ chỉ huy Lực lượng Kết hợp (CFC) vào năm 1978 để cho phép các đồng minh chiến đấu hiệu quả như một lực lượng chung và để Hàn Quốc đóng một vai trò lớn hơn trong bộ chỉ huy tác chiến và gánh chịu phần chi phí phòng vệ lớn hơn. Hai bên tiếp tục theo đuổi trong một Cuộc họp Cố vấn An ninh khác vào tháng 7 năm 1978 để thành lập một Ủy ban Quân sự chung với sứ mệnh ra quyết định tập thể về những vấn đề chiến lược. Với việc Ủy ban Quân sự ban hành Chỉ thị Chiến lược số 1, việc xây dựng CFC bắt đầu diễn ra vào tháng 7 năm 1978 và hoàn thành trong vòng ba tháng rưỡi.
Trong CFC mới được tổ chức, quân đội Hàn Quốc đảm nhận các vị trí phó tư lệnh và tham mưu phó cũng như chiếm các vị trí nhân sự, tình báo, hậu cần, liên lạc và công binh điện tử, ngược lại Hoa Kỳ giữ các vị trí tư lệnh và tham mưu trưởng đồng thời cũng cử người đảm nhận vai trò tác chiến và lên kế hoạch. Như vậy, cách tổ chức bên trong CFC phản ảnh bản chất chuyển giao của liên minh an ninh Mỹ - Hàn, cho Hàn Quốc một tiếng nói lớn hơn khi kiểm soát tác chiến, nhưng không tiến xa đến mức giao cho nước này vị trí tối cao trong quyền chỉ huy thời chiến. Quyền chỉ huy thời chiến chỉ thuộc về tư lệnh USFK, người này cũng giữ luôn chức tư lệnh CFC. Kể cả trong thời bình, phần quan trọng nhất của hoạt động kiểm soát tác chiến - hoạch định chiến lược - cũng bị điều khiển bởi bộ phận tham mưu tác chiến và kế hoạch của CFC do Mỹ chi phối. Tư lệnh của USFK với vai trò là chỉ huy của CFC cũng như UNC, chịu trách nhiệm giám sát hiệp định đình chiến ký với Triều Tiên vào tháng 7 năm 1953, đảm bảo rằng Hoa Kỳ sẽ tiếp tục có ảnh hưởng mang tính quyết định lên nguyên tắc và các lựa chọn chiến lược của quân đội Hàn Quốc.
An ninh chế độ và các cận vệ cấp cao
Chế ngự Kim Jong-pil, 1961-1969
Song song với các nỗ lực hướng đến chuyên nghiệp hóa, Park làm việc không ngơi nghỉ để độc chiếm lòng trung thành của các lực lượng vũ trang Hàn Quốc nhằm ngăn cản những thế lực khác sử dụng quân đội chống lại ông và nhằm bảo vệ chế độ chính trị của mình. Cơ chế trung tâm mà Park đã phát triển để biến các lực lượng vũ trang thành công cụ kiểm soát, trấn áp và phòng vệ chính trị là một hệ thống kiểm soát và cân bằng nhiều tầng mà ông đã thiết lập giữa các đơn vị tình báo quân đội. Kỳ lạ là trong những năm 1960, đối tượng cô lập chính trị chính của Park lại là Kim Jong-pil, cánh tay phải của ông. Chỉ một số ít các thân tín và phó tướng chính trị của ông mới dám nuôi dưỡng tham vọng kế nhiệm ông trên cơ sở sự ủng hộ rộng khắp có tổ chức họ có được trong DRP và quân đội. Kim Jong-pil là một người như vậy; ông trụ được với vai trò người dẫn đầu trong cuộc cạnh tranh kế vị cho đến cuối những năm 1960. Các thành viên nòng cốt thuộc phái chính thống của Kim Jong-pil nắm giữ những vị trí chủ chốt trong Ban thư ký DRP, KCIA và Nghị viện Quốc gia cho đến cuộc sửa đổi hiến pháp năm 1969 cho phép Park nắm quyền nhiệm kỳ thứ ba. Trở thành người dẫn đầu trong cuộc đua kế vị vào khoảng giữa những năm 1960 có nghĩa là Kim Jong-pil có thể dễ dàng vận động được những người ủng hộ mới, những người đã vào cuộc, tuy nhiên ông cũng trở thành mục tiêu trong hoạt động kiểm soát và cân bằng của những kẻ khát khao quyền lực khác, nếu không phải là của chính vị trí tổng thống. Kỳ lạ là, chính Park lại là người chú tâm nhất đến việc kiểm soát Kim Jong-pil. Cho đến khi các cuộc đấu tranh quyền lực xung quanh vấn đề sửa đổi hiến pháp năm 1969 hủy hoại nghiêm trọng những tuyên bố về vị thế “thái tử” của Kim Jong-pil, chiến lược chia để trị của Park đều tập trung vào việc xây dựng một phái chống chính thống mà sau này có thể phá vỡ được những khát khao của Kim Jong-pil. Vào giữa những năm 1960, Kim Jong-pil sở hữu nhiều quyền lợi chính trị đầy ấn tượng. Trong thời kỳ chính quyền quân sự, ông đã được giao phó nhiệm vụ chỉ huy KCIA (1961-1963), cũng như bí mật tổ chức Ban thư ký DRP để chuẩn bị cho các cuộc bầu cử năm 1963. Cả hai nhiệm vụ này tạo điều kiện cho ông xây dựng bè phái của riêng mình thông qua bảo trợ chính trị. Một khi nắm được quyền kiểm soát Ban thư ký DRP, Kim Jong-pil cũng chi phối luôn quá trình bổ nhiệm các ứng viên DRP cho cuộc bầu cử Nghị viện Quốc gia năm 1963.
Không khó cho Park để có thể kìm hãm quyền lực đang gia tăng của Kim Jong-pil, bởi chính nguồn gốc của quyền lực đó có thể bị biến thành rắc rối chính trị. Bắt đầu vào tháng 12 năm 1962, các đối thủ của Kim đã hủy hoại sự minh bạch của ông bằng cách đào bới lại các hoạt động phi pháp của ông, gồm có việc gây dựng quỹ để tạo lập DRP bằng những phương thức bất hợp pháp. Hơn nữa, Park, với quyền lực đã được củng cố sau lần đắc cử làm tổng thống năm 1963, do đó ít cần đến Kim Jong-pil hơn. Lớp những người giữ cân bằng đầu tiên được Park tìm thấy trong số các sĩ quan quân đội tại ngũ và trong lực lượng dự bị để kiểm soát Kim Jong-pil là những người thuộc khóa KMA 8 và thế hệ sĩ quan cấp cao đã tham gia vào cuộc đảo chính 1961 rồi tồn tại sau các cuộc thanh trừng nối tiếp. Trong lớp đầu tiên này có Kim Hyeong-wook, Park Chong-gyu và Yi Hu-rak, những người sẽ lần lượt trở thành giám đốc KCIA (1963-1969), Giám đốc Văn phòng An ninh Tổng thống (1963-1974) và Trưởng ban Cố vấn Tổng thống (1963-1968). Những người này được đánh giá là không có hy vọng, tham vọng hoặc năng lực để cạnh tranh kế nhiệm chức tổng thống bởi họ thiếu đi sức hấp dẫn, cơ sở bè phái độc lập và sự ủng hộ của quần chúng. Số phận của họ phụ thuộc hoàn toàn vào Park, điều này khiến lợi ích của Park trở thành lợi ích của họ. Ba cận vệ cấp cao này đã phối hợp với phái chống chính thống của DRP đang được dẫn dắt bởi Kim Seong-gon, một chính trị gia dân sự của Đảng Tự do đã tan rã, và Bè lũ Bốn tên của ông này để cô lập Kim Jong-pil và cuối cùng là đập tan ý chí quyền lực của ông.
Cơ hội đầu tiên để kiểm soát được Kim Jong-pil xuất hiện vào tháng 2 năm 1963, khi phái chống chính thống vừa nổi lên nhanh chóng đã buộc Kim Jong-pil phải “nghỉ hưu” trong hoạt động nhà nước với cáo buộc gây quỹ bất hợp pháp và tham nhũng chính trị trong suốt thời kỳ chính quyền quân sự. Như chúng ta đã thấy ở các chương trước, khi quá trình bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Nhật Bản gây ra làn sóng chỉ trích chính trị đầy phẫn nộ trong quần chúng vào năm 1965, một đợt chỉ trích tương tự cũng đã được phái chống đối Kim Jong-pil ở Nhà Xanh, KCIA, Văn phòng An ninh Tổng thống và DRP tự đứng ra ủng hộ lần thứ hai - nhưng lần này, cũng với các tướng lĩnh như Kim Chae-gyu (Sư đoàn Bộ binh 6), Kim Chin-wi (Sở chỉ huy Quân đồn trú Thủ đô), Jeong Pong-uk (Sư đoàn Bộ binh 20), và Yi Pyeong Yeop (Sư đoàn Bộ binh 33) đang chỉ huy binh sĩ thực thi thiết quân luật ở Seoul - nhằm một lần nữa buộc Kim Jong-pil “nghỉ hưu” trong hoạt động chính trị. Vốn từ lâu đã bất mãn với sự thăng tiến của Kim Jong-pil và lớp học viên khóa 8 Học viên Quân sự Hàn Quốc (KMA) của ông này, những vị tư lệnh quân đội đã tham gia cùng với giám đốc KCIA Kim Hyeong-wook (một lãnh đạo tự chỉ định của phái chống chính thống) khi đề nghị Park loại bỏ Kim Jong-pil khỏi vị trí chủ tịch DRP. Phái chống đối Kim Jong-pil trong DRP cũng xem Sự kiện ngày 3 tháng 6 như là một cơ hội để lật đổ Kim Jong-pil khỏi vai trò của ông là người kế nhiệm thật sự của Park. Nỗ lực hạ bệ Kim được dẫn dắt bởi các chính trị gia dân sự được Park tuyển vào từ Đảng Tự do lúc bấy giờ đã tan rã. Bị chỉ trích bởi những người biểu tình như là một kẻ phản bội chủ nghĩa dân tộc Hàn Quốc và bị tấn công bởi các đối thủ của ông ở cả trong quân đội và DRP, Kim Jong-pil từ chức vào ngày 4 tháng 6 và đi “tị nạn” nước ngoài. Sau khi biến Kim Jong-pil thành bia đỡ đạn cho mình, Park ký kết hiệp ước bình thường hóa quan hệ với Nhật Bản.
Bên cạnh đó, khi Park, chứ không phải Kim Jong-pil, trở thành mục tiêu của sự bất mãn quân sự, Park ngay lập tức thẳng tay đàn áp những người chống đối. Chẳng hạn như trường hợp hơn 20 sĩ quan, bao gồm cả Won Chung-yeon, một sĩ quan cấp tá trong lực lượng dự bị và là phát ngôn viên của Park trong những năm chính quyền quân sự, bị CIC bắt giam vì tội âm mưu đảo chính quân sự vào tháng 5 năm 1965. Không rõ những sĩ quan này âm mưu điều gì, nếu họ thật sự có âm mưu. Tuy nhiên, báo cáo cho rằng họ đang gặp gỡ bí mật để trao đổi các quan điểm chỉ trích cách thức cầm quyền chính trị của Park, bao gồm việc gửi quân chiến đấu đến miền Nam Việt Nam, đã đủ khiến Park phải hành động. Đối với Park, các ý định của Won Chung-yeon và nhóm của ông này không quan trọng bằng cơ hội để từ sự kiện này cho phép ông thiết lập kỷ cương lên các lực lượng vũ trang trước khi tiến xa hơn với hoạt động gửi binh lính tham chiến đầy rủi ro chính trị. Tình hình chính trị vốn đã căng thẳng, với xã hội bị phân cực trong việc nghị viện phê duyệt dự luật bình thường hóa quan hệ với Nhật Bản. Park đã tận dụng nỗ lực phản cách mạng được gán cho Won Chung-yeon làm lý do để thắt chặt vòng kiểm soát chính trị. Vào ngày 26 tháng 8 năm 1965, Park viện đến một sắc lệnh quân đồn trú và chính thức yêu cầu Sư đoàn Bộ binh 6 duy trì trật tự ở Seoul lần thứ hai chỉ trong vòng 14 tháng. Quân lính đã được huy động đi vào ngày 2 tháng 9 và sắc lệnh quân đồn trú kết thúc vào ngày 25 tháng 9 khi phong trào chống đối chính trị về việc bình thường hóa quan hệ với Nhật Bản suy yếu.
Các sự kiện dẫn đến việc phải tị nạn năm 1963 và 1965 rõ ràng đã gây tổn hại, nhưng không hủy diệt được sự nghiệp chính trị của Kim Jong-pil. Trái lại vị thái tử này đã quay trở lại Hàn Quốc chỉ vài tháng sau khi đợt chỉ trích của quần chúng suy yếu. Chỉ khi Park và liên minh các cận vệ cấp cao, các nhà lập pháp dân sự DRP và các lãnh đạo thế hệ tiếp theo chống đối Kim Jong-pil dụ dỗ và đe dọa thành công để ông ta chịu chấp nhận việc sửa đổi hiến pháp nhằm dọn đường cho nhiệm kỳ tổng thống thứ ba của Park vào năm 1969 thì Kim Jong-pil mới bắt đầu đánh mất sức mạnh chính trị của mình trong vị thế người cạnh tranh chính cho vai trò người kế nhiệm. Khả năng Park vẫn sẽ năm giữ quyền lực mãi mãi đã làm tổn hại đến nền tảng sức mạnh của vị “thái tử”. Phái của Kim Jong-pil nhanh chóng tan rã; một số thành viên thất vọng vì sự vô năng của ông khi không đứng lên chống lại Park, còn những người khác bắt đầu xét lại những năng lực mà Kim Jong-pil sở hữu có thể bảo trợ chính trị vào lúc này.
Hơn nữa, càng làm tăng thêm mối quan ngại cho Kim Jong-pil, vào đầu những năm 1970, một lớp những người đóng vai trò cân bằng thứ hai xuất hiện để chống lại ông trong những học viên khóa KMA 11 dưới sự bảo trợ của Park. Khóa KMA 11 tạo nên thế hệ lãnh đạo tiếp theo trong các lực lượng vũ trang Hàn Quốc. Như vậy, họ không cạnh tranh với Kim Jong-pil trong vị trí tổng thống. Họ cũng không thách thức phái chống chính thống của những lãnh đạo quân đội cấp cao, các chính trị gia dân sự và các cận vệ tổng thống. Các sĩ quan này là những người trung thành với Park ở cấp trung trong lực lượng lãnh đạo quân sự Hàn Quốc, sau đó họ đã kiểm soát các lực lượng chiến đấu trọng yếu. Là khóa đầu tiên trong số các khóa tốt nghiệp KMA được nhận chương trình đào tạo và giáo dục quân sự bốn năm trọn vẹn, các thành viên khóa 11 tự hào là thế hệ đầu tiên của các sĩ quan quân đội “chuyên nghiệp” và những cựu học viên KMA “đích thực” của Hàn Quốc. Hơn nữa, họ quá trẻ để được đào tạo quân sự từ Nhật Bản, Trung Quốc hoặc Xô-viết dưới thời thực dân Nhật và trong cuộc đấu tranh với Triều Tiên để giải phóng dân tộc (1910-1945), khóa KMA 11 không chỉ là hiện thân của tinh thần độc lập dân tộc mà còn vượt qua nạn bè phái hình thành trên cơ sở các liên kết chính trị và giáo dục trước giải phóng. Park cũng cho rằng khóa tốt nghiệp thứ 11 có thể và cần phải nắm vai trò lãnh đạo các lực lượng vũ trang mới của Hàn Quốc đã được chuyên nghiệp hóa.
Chun Doo-hwan là một trong số các cựu học viên KMA 11, ông đóng vai trò chủ chốt trong việc tạo ra cầu nối giữa các sĩ quan trẻ và Park. Chun Doo-hwan gặp Park lần đầu vào tháng 5 năm 1961. Lúc đó họ đang lần lượt nắm giữ quân hàm đại úy và thiếu tướng. Chàng thanh niên Chun Doo-hwan đã chứng tỏ giá trị chính trị của mình khi tổ chức một cuộc diễu binh công khai với khoảng 800 hoặc hơn những học viên KMA nhằm hỗ trợ cho cuộc đảo chính quân sự. Cuộc diễu binh đã góp phần dấy lên một làn sóng dư luận ủng hộ Park, người lúc này đang tranh đấu để trấn áp ý kiến bất đồng của Yi Han-lim và giành sự ủng hộ của Mỹ. Vào tháng 7 năm 1963, Chun Doo-hwan - lúc này đã mang hàm thiếu tá - thành công khi làm sâu sắc thêm niềm tin của Park bằng cách lập âm mưu với các đồng môn KMA của ông, gồm có Roh Tae-woo, để hỗ trợ chiến dịch của phái chống chính thống nhằm hạ bệ Kim Jong-pil và 40 chính trị gia DRP của phái chính thống với mục tiêu củng cố nền tảng quyền lực của Park trước cuộc bầu cử tổng thống tháng 10 năm 1963 đang đến. Chính trong bối cảnh này, bảy lãnh đạo của khóa tốt nghiệp KMA 11 đã thành lập Chilseonghoe (Hội Thất tinh), sau đó đổi tên thành Hanahoe (Nhất Hội), một nhóm bí mật được sự đồng tình của Park Chung Hee. Park là một nhà bảo trợ giấu mặt, giao phó cho tổng tham mưu trưởng Seo Jong Sheol, tư lệnh CGC Yun Pil-yong và giám đốc PSS Park Chong-gyu nhiệm vụ sắp đặt các thành viên của Hanahoe vào lộ trình thăng tiến nhanh. Nhóm bí mật này nhanh chóng mở rộng để kết nạp các thành viên thuộc các khóa tốt nghiệp KMA 12 đến 20.
Hanahoe phát triển thành một bè phái chặt chẽ, chỉ tuyển chọn những sĩ quan quân đội được các thành viên của tổ chức này đánh giá toàn bộ và nhất trí lựa chọn, ngoài ra nhóm này cũng xây dựng các luật lệ và quy định hoạt động nội bộ nghiêm ngặt. Để làm chặt chẽ hơn cách tổ chức và hạn chế thành viên, Hanahoe tuyển chọn hầu hết cựu học viên KMA từ khu vực Gyeongsang, quê nhà của Park Chung Hee và Chun Doo-hwan. Mặc dù vậy, cuối cùng thì chính mối liên hệ đặc biệt của các thành viên Hanahoe với Park và các đặc quyền mà mối quan hệ này tạo ra cho họ mới kết nối họ với nhau. Bộ chỉ huy quân sự đã chỉ định các thành viên Hanahoe vào các đơn vị “chính trị” đặt ở trong và gần Seoul — CGC, ASC, PSC, KCIA và Sở chỉ huy Lính dù, những đơn vị này nằm ngoài cấu trúc chỉ huy của CFC do Mỹ chi phối và do đó sẵn sàng chịu sự huy động của Park mà không cần phải tham vấn Hoa Kỳ. Khi