← Quay lại trang sách

Chương 16 TÌM KIẾM PHÒNG VỆ:
LỰA CHỌN HẠT NHÂN CỦA PARK
Hong Sung Gul

Khi nói về các vấn đề dính líu đến vũ khí hạt nhân ở Bán đảo Triều Tiên thì Triều Tiên, chứ không phải Hàn Quốc, được mọi người nghĩ đến nhiều nhất. Tuy nhiên đầu những năm 1970 chính Hàn Quốc mới là nước dính vào mâu thuẫn với Hoa Kỳ về vấn đề chủ quyền hạt nhân. Tháng 11 năm 1971, một năm trước khi ban hành chế độ yushin, Park Chung Hee hỏi Oh Won-chul, lúc bấy giờ là cố vấn cấp cao Nhà Xanh mới được chỉ định phụ trách các vấn đề phát triển các ngành công nghiệp nặng và hóa chất liên quan đến quốc phòng: “An ninh quốc gia của chúng ta mỏng manh vì tình trạng không chắc chắn trong khả năng hiện diện quân sự liên tục của Mỹ ở Bán đảo Triều Tiên. Để có được an ninh và độc lập, chúng ta cần giải phóng bản thân khỏi phụ thuộc vào sự bảo vệ của Mỹ... Chúng ta có thể phát triển vũ khí hạt nhân không?” Đây không phải là câu hỏi. Park đang định hướng Oh Won-chul vào việc vạch ra các kế hoạch cụ thể.

Park tìm kiếm hoặc giả vờ tìm kiếm “siêu vũ khí” để tối đa hóa an ninh Hàn Quốc. Thất vọng trước chính sách triệt thoái quân sự đơn phương của Mỹ sau khi Richard M. Nixon áp dụng Học thuyết Guam năm 1969, Park yêu cầu Cơ quan Phát triển Phòng thủ (ADD) bắt đầu nghiên cứu và phát triển hệ thống vận chuyển và các công nghệ nổ hạt nhân. Để hỗ trợ ADD, Viện Nghiên cứu Năng lượng Hạt nhân Hàn Quốc (KAERI) cũng cố gắng nhập khẩu các công nghệ và cơ sở tái chế và chế tạo nhiên liệu hạt nhân từ Pháp và Bỉ. Vì hoạt động tái chế nhiên liệu đã dùng có thể tạo ra plutonium cấp độ vũ khí, nỗ lực của KAERI trong việc mua công nghệ Pháp được Hoa Kỳ cho là được thúc đẩy chủ yếu bởi các mục tiêu quân sự, dù KAERI biện minh rằng các nỗ lực của nó là nhằm tìm kiếm các hình thức năng lượng thay thế. Hoa Kỳ càng cảnh giác hơn nữa khi Hàn Quốc cũng nhập lò phản ứng nước nặng của Canada, CANDU, tiến xa một cách đáng chú ý so với hoạt động của nước này trong quá khứ là mua các lò phản ứng nước nhẹ do Hoa Kỳ chế tạo. Dù Park không bao giờ công khai thừa nhận quyết tâm phát triển vũ khí hạt nhân của ông, nhưng mọi việc dần cho thấy rõ ràng rằng ông quan tâm đến việc tạo bom nguyên tử giống như quả bom được thả ở Nagasaki năm 1945. Tuy nhiên cuối cùng, dưới sức ép mạnh mẽ của Mỹ, cả đa phương và song phương, các nỗ lực của Park đã không thể thành hiện thực.

Chỉ một vài quốc gia xem xét nghiêm túc lựa chọn hạt nhân cả khi bị sức ép rất lớn từ các lời đe dọa an ninh bên ngoài. Tuy nhiên hiếm có quốc gia nào lại từ bỏ các chương trình hạt nhân một khi họ đã quyết tâm với dự án. Tại sao Park lại ưu tiên hàng đầu việc khởi động chương trình hạt nhân, và tại sao ông thay đổi quyết định khi Hoa Kỳ gây áp lực? Xung đột với Hoa Kỳ về các vấn đề hạt nhân đã có ảnh hưởng như thế nào lên mối quan hệ đồng minh vốn đang trở nên rắc rối? Quan tâm chính của Park và những người đồng cấp Mỹ trong xung đột hạt nhân này là gì?

Bốn điểm chung có thể được rút ra từ bản chất của quan hệ Mỹ - Hàn. Đầu tiên, xung đột hạt nhân cho thấy không chỉ điểm yếu mà cả điểm mạnh của quan hệ song phương. Park nghĩ đến lựa chọn hạt nhân đầu những năm 1970 khi liên minh này bước vào một trong những giai đoạn chông gai nhất kể từ khi kết thúc Chiến tranh Triều Tiên. Lo sợ sinh ra ngờ vực và ngược lại, khiến hai đồng minh mắc vào vòng xoáy xung đột ở nhiều vấn đề. Các cuộc đụng độ lây lan, khiến mỗi đồng minh gây áp lực cho bên còn lại bằng cách huy động nguồn lực ở những lĩnh vực không liên quan, rồi lại chỉ tạo ra các trận địa xung đột mới. Mầm mống ban đầu của khủng hoảng liên minh là quyết định đơn phương rút Sư đoàn Bộ binh 7 năm 1971 của Nixon để có được sự ủng hộ của các cử tri Mỹ. Lo sợ Hàn Quốc bị Hoa Kỳ bỏ rơi, Park theo đuổi lựa chọn hạt nhân, nhưng điều này lại chỉ khiến Hoa Kỳ thù địch hơn nữa. Bên cạnh đó, Park thuê Park Dong-seon nhằm cố gắng chống lại chủ nghĩa đơn phương của Mỹ bằng cách mua sự ủng hộ ở Quốc hội Mỹ thông qua vận động hành lang phi pháp. Ông cũng quyết tâm ngăn chặn phong trào chống đối trong nước với lý do khủng hoảng an ninh quốc gia. Tuy nhiên, các biện pháp đối phó này phản ứng ngược trở thành vụ bê bối Koreagate và tranh cãi về quyền con người ở Hàn Quốc, những cuộc bàn cãi này làm yếu đi rất nhiều sự ủng hộ Mỹ giành cho Park và chế độ của ông. Tuy nhiên bên cạnh đó, vì có lợi ích chính trị khi tránh được sự sụp đổ hoàn toàn của liên minh, cả Hàn Quốc và Hoa Kỳ đều cố gắng ngăn lại, nếu không phải là đảo ngược, tình trạng suy thoái trong quan hệ của họ. Tranh cãi lan rộng và xấu hơn, tuy nhiên đã có một lưới bảo hộ giữ cho liên minh này không sụp đổ.

Thứ hai, giữa các xung đột song phương của những năm 1970, mâu thuẫn hạt nhân là duy nhất theo nghĩa kết quả là “chiến thắng” rõ rệt của Mỹ. Kể cả trong mối quan hệ cực kỳ không cân đối như quan hệ giữa Hoa Kỳ và Hàn Quốc, bên yếu vẫn thường có một số lợi thế vì bên mạnh ở một chừng mực nào đó phải trông cậy vào bên yếu để hiện thực hóa mục tiêu của mình. Chính nhờ các lợi ích của Mỹ mà Hàn Quốc tự bảo vệ được mình khỏi giai đoạn tồi tệ nhất trong chủ nghĩa đơn phương Mỹ. Hoa Kỳ hạn chế leo thang xung đột với Hàn Quốc vì sợ nước tiểu nhược này bị ảnh hưởng bởi tình trạng bất ổn. Do đó, sự chấm dứt của Koreagate như là một cái kết đáng thất vọng, với việc Park Dong-seon thoát khỏi sự truy tố của Mỹ. Các tranh cãi nhân quyền nóng lên, nhưng chúng không dẫn đến một can thiệp lâu dài nào của Mỹ. Kể cả kế hoạch rút hoạch rút tất cả bộ binh Mỹ khỏi Bán đảo Triều Tiên đến năm 1981 của Carter cũng bị mất hiệu lực năm 1978. Trong mỗi cuộc đối đầu song phương này, Hàn Quốc thành công trong việc giữ vững lập trường cho đến khi Hoa Kỳ đảo ngược chính sách, không phải vì Hàn Quốc có sức mạnh ngăn chặn Hoa Kỳ, mà vì tầm quan trọng chiến lược của Bán đảo Triều Tiên đối với siêu cường này khiến nó không sẵn sàng dùng hết sức mạnh (xem chương 15). Tuy nhiên khi liên quan đến vấn đề hạt nhân, Hoa Kỳ sử dụng tất cả các biện pháp khả dĩ để ngăn chặn Park. Thỏa hiệp là lựa chọn không thể xem xét vì vấn đề trọng tâm là sự ổn định của hệ thống nguyên tắc không phổ biến vũ khí hạt nhân ở tầm khu vực và toàn cầu của Mỹ. Park cố gắng mặc cả suốt những năm 1970, lập luận rằng ông đang tìm kiếm công nghệ hạt nhân dùng cho các mục tiêu kinh tế. Khi Hoa Kỳ quyết liệt hơn với ông, ông bí mật theo đuổi các chương trình hạt nhân, nhưng rồi lại tham gia vào các cuộc đối thoại ngoại giao đầy rủi ro với các quan chức Mỹ dưới áp lực nặng nề. Cuối cùng, ông nhận ra rằng không thể có đàm phán về vấn đề hạt nhân.

Thứ ba, xung đột hạt nhân cho thấy rằng chính các vấn đề quân sự là yếu tố định hình mang tính quyết định đối với mối quan hệ chính trị giữa Park với Hoa Kỳ. Cả những giai đoạn tốt và xấu trong quan hệ liên minh chủ yếu đều là kết quả của các vấn đề quân sự. Khi Hoa Kỳ gia tăng sự hiện diện quân sự ở Đông Á để tham gia Chiến tranh tại Việt Nam những năm 1960, quan hệ của Park với giới lãnh đạo chính trị Mỹ cải thiện đáng kể vì giá trị của Hàn Quốc như là một đồng minh sẵn sàng gửi quân chiến đấu đến miền Nam Việt Nam nhằm hỗ trợ các nỗ lực chiến tranh của Mỹ và chia sẻ gánh nặng “an ninh tập thể”. Khi Hoa Kỳ bắt đầu triệt thoái quân sự khỏi miền Nam Việt Nam đầu những năm 1970, Park mất đi vị thế mà ông đã có được trước chính sách của Mỹ ở Hàn Quốc. Ngược lại, ông nhận ra mình đang tuyệt vọng khẩn cầu Hoa Kỳ không đưa Hàn Quốc vào số các quốc gia mục tiêu cho việc triệt thoái quân sự. Khi lời khẩn cầu không thể đảo ngược quyết định của Mỹ, Park dùng đến nhiều biện pháp đối phó. Tốc độ và tầm mức mà quan hệ chính trị song phương cải thiện hay suy thoái từ mỗi thay đổi trong chính sách an ninh của Mỹ là điều rất đáng chú ý. Không những thế, khi Hoa Kỳ chọn lựa một lộ trình chính sách mới dựa trên những tính toán an ninh khu vực và toàn cầu thay đổi của nước này, Hàn Quốc chỉ có thể đàm phán về các chi tiết của sự thay đổi, chứ không thể ở định hướng thay đổi. Khó có thể tìm thấy quan hệ song phương nào khác mà ở đó các vấn đề quân sự hạt nhân quy ước và không quy ước lại có thể chi phối quan hệ chính trị tổng thể đến mức như quan hệ Mỹ — Hàn.

Thứ tư, mặc cho đặc trưng độc nhất của các vấn đề hạt nhân, xung đột về chương trình phát triển hạt nhân của Park một lần nữa cho thấy rằng các lợi ích thương mại đan xen chặt chẽ với những vấn đề quân sự và an ninh trong quan hệ hai nước. Ban đầu, Park cho rằng ông có thể qua mặt Hoa Kỳ bằng cách ký hợp đồng công nghệ và thiết bị hạt nhân với các nhà cung cấp Pháp và Canada. Một mặt nào đó, chiến lược của ông có hiệu quả, dẫn dụ những nhà cung cấp này trở thành tấm chắn bảo vệ cho nhà máy hạt nhân. Đồng thời, khi các nhà cung cấp thay thế bày tỏ sự quan tâm đến việc bán các lò phản ứng hạt nhân và các cơ sở đẩy, lợi ích thương mại trở thành một nguyên nhân khác để Hoa Kỳ gây áp lực cứng rắn lên Hàn Quốc và Pháp nhằm hủy các hợp đồng thương mại giữa hai nước này. Việc bán công nghệ nguyên tử của Pháp có thể đồng nghĩa với việc thị trường năng lượng hạt nhân đang tăng trưởng của Hàn Quốc sẽ bị thống trị bởi các nhà cung cấp Pháp.

Với những đặc tính chung mà quan hệ an ninh Mỹ - Hàn đã cho thấy, chúng tôi đi đến một phân tích chuyên sâu hơn các động cơ của Park khi xem xét lựa chọn hạt nhân, các kênh và quá trình can thiệp của Mỹ chống lại chương trình hạt nhân của Park, cũng như các nhân tố cho phép Hoa Kỳ ngăn chặn thành công chương trình này.

Từ nghiên cứu đến phát triển vũ khí

Hàn Quốc bắt đầu nghiên cứu hạt nhân năm 1956, ba năm sau khi ký hiệp ước phòng thủ chung với Hoa Kỳ. Chương trình này là một chương trình nghiên cứu hẹp nhắm vào việc sử dụng năng lượng nguyên tử trong hòa bình. Như một phần trong nỗ lực giành được sự bảo vệ của Hoa Kỳ, Hàn Quốc tham gia Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA), động thái này đặt chương trình nghiên cứu hạt nhân còn non trẻ dưới sự theo dõi quốc tế năm 1957. Năm 1964, Hàn Quốc chấp thuận Hiệp ước Cấm thử một phần. Năm 1968 nước này ký Hiệp ước Không Phổ biến Hạt nhân (NPT), dù sự phê chuẩn thật sự đã bị hoãn vì sự trì hoãn trong việc tham gia NPT của Triều Tiên. Hoa Kỳ không gây áp lực cho Hàn Quốc buộc nước này phải chấp thuận NPT ngay lập tức vì cường quốc này cho rằng hoạt động thanh tra và các quy định của IAEA đã đủ để hạn chế các hoạt động hạt nhân của Hàn Quốc ở các cuộc nghiên cứu trong hòa bình. Ngoài ra, chương trình hạt nhân của Hàn Quốc lúc bấy giờ được Hoa Kỳ hỗ trợ nên các quan chức từ nước siêu cường có cơ hội rất lớn để kiểm soát những gì người Hàn đang làm.

Song song với những nỗ lực khởi động chương trình nghiên cứu là sự cần thiết phải xây dựng nền tảng thể chế. Tháng 3 năm 1956, Lý [Thừa Vãn] thành lập một bộ phận năng lượng hạt nhân thuộc Bộ Giáo dục để tiến hành nghiên cứu cơ bản về năng lượng nguyên tử. Luật Năng lượng Hạt nhân được ban hành năm 1958 và Văn phòng Năng lượng Hạt nhân (OAE) được thành lập trực tiếp dưới quyền tổng thống để điều phối nghiên cứu, phát triển và sử dụng năng lượng hạt nhân hòa bình. Viện Nghiên cứu Năng lượng Hạt nhân Hàn Quốc được khánh thành năm 1959 và là một nhánh của OAE, dẫn đến hoạt động lắp ráp lò phản ứng nghiên cứu Triga Mark- II (250kW) do công ty General Dynamics thiết kế ba năm sau đó với sự hỗ trợ của Mỹ.

Tuy nhiên, quá trình vốn là một chương trình nghiên cứu và phát triển năng lượng đã tiến đến phát triển theo chiều hướng quân sự khi môi trường an ninh nhanh chóng xấu đi cuối những năm 1960. Park bắt đầu đặt câu hỏi về sự nghiêm túc trong cam kết an ninh của Mỹ ở Hàn Quốc khi Nixon thực thi Học thuyết Guam năm 1969 với việc đưa 20.000 bộ binh Mỹ khỏi Hàn Quốc, theo đuổi giai đoạn hòa dịu với Trung Quốc và thoát khỏi chiến tranh tại Việt Nam. Park đã sốc khi nghĩ rằng Hoa Kỳ đang bỏ rơi các đồng minh Đông Á của mình vì áp lực chính trị trong nước. Cú sốc này đặc biệt mạnh vì Park nghĩ rằng ông đã chấp nhận rủi ro chính trị trong nước rất lớn vì đồng minh Mỹ của mình những năm 1960 khi ông gửi quân chiến đấu đến miền Nam Việt Nam. Khi hai đồng minh này bắt đầu đàm phán các điều kiện triệt thoái quân sự, Park được cho là đã hỏi giới phóng viên tập trung ở Nhà Xanh rằng: “Câu hỏi gây áp lực cho Hàn Quốc là chúng ta có thể tin tưởng Hoa Kỳ trong bao lâu.” Ông bắt đầu nhấn mạnh nguyên tắc “tự phòng thủ” (chawi) và sau đó là “tự quyết” (chaju) với mục tiêu là hạn chế sự phụ thuộc vào nước mà ông cho là một đồng minh siêu cường không đáng tin cậy.

Tuy nhiên, trước khi xây dựng tiềm lực quân sự hạt nhân, Park đã cố gắng củng cố tình hình an ninh Hàn Quốc thông qua ngoại giao và các biện pháp quân sự quy ước. Chính thất bại của những cố gắng này khiến Park phải chuyển sang lựa chọn hạt nhân. Khi Hoa Kỳ rút Sư đoàn Bộ binh 7 khỏi Hàn Quốc năm 1971, Park cố gắng bù đắp việc cắt giảm này bằng cách thành lập một lực lượng dự bị 2,5 triệu người. Cơ quan Phát triển Phòng thủ (ADD), thành lập tháng 8 năm 1970, được định sẽ theo đuổi các chương trình hiện đại hóa cho quân đội Hàn Quốc. Với sự sụt giảm viện trợ quân sự từ Hoa Kỳ, vào năm 1974, Park cũng áp dụng thuế thu nhập quốc phòng phụ thu 10% để tài trợ cho Kế hoạch Cải thiện Quân đội (1974-1981) với mục tiêu đến năm 1976 vượt qua Triều Tiên về chi tiêu quốc phòng. Để làm được như vậy, Hàn Quốc gia tăng chi tiêu quốc phòng từ 5% tổng thu nhập quốc gia lên gần 7,5%. Khoảng cách này bắt đầu thu hẹp đáng kể khi Hàn Quốc gia tăng chi tiêu quốc phòng từ 719 triệu đô-la Mỹ năm 1975 lên 1,5 tỷ đô-la Mỹ năm 1976 và một lần nữa lên 1,8 tỷ đô-la Mỹ năm 1977. Trong giai đoạn này, chi tiêu quốc phòng Triều Tiên tăng trưởng ở tỷ lệ thấp hơn nhiều, từ 770 triệu đô-la Mỹ năm 1975 lên 1 tỷ đô-la Mỹ năm 1977.

Mặc cho những nỗ lực ấn tượng để đuổi kịp về mặt quân sự, Hàn Quốc vẫn thua Triều Tiên ở các tiềm lực quân sự bộ binh, không quân và hải quân với khoảng cách đáng kể vào cuối những năm 1970. Chỉ có quân đội Mỹ đóng ở Hàn Quốc mới ngăn được Triều Tiên không phát động chiến tranh, nhưng chính vai trò phòng vệ của Mỹ cũng bị nghi ngờ sau khi kết thúc chiến tranh tại Việt Nam. Với ưu thế quân sự tiếp diễn của Triều Tiên và các ý định không chắc chắn của Mỹ, Park có vẻ như đã kết luận rằng việc xây dựng quân đội theo quy ước là không đủ để phòng vệ trước các đòn tấn công quân sự của Triều Tiên. Tờ JoongAng Ilbo xác định ngày Park ra quyết định phát triển các chương trình hạt nhân là vào tháng 3 năm 1971. Park Geun-Hye, con gái của ông, cũng nhớ lại rằng Park khởi động chương trình phát triển (vũ khí) hạt nhân khi Hoa Kỳ đơn phương thực thi quyết định rút quân Sư đoàn Bộ binh vào ngày 7 tháng 7 năm 1971 bất chấp lời hứa lặp đi lặp lại của ông với Nhà Trắng rằng sẽ xem xét lại quyết định này.

Theo đề xuất lập kế hoạch phát triển vũ khí chiến lược của Park tháng 11 năm 1971, Oh Won-chul họp với Bộ trưởng Khoa học Công nghệ Choi Hyeong-seob và Giám đốc KAERI Yun Yong-gu để theo đuổi vũ khí hạt nhân trong một chương trình bí mật. [206] Do tác động tiêu cực của tin tức về phát triển vũ khí hạt nhân có thể gây ra cho mối quan hệ Mỹ - Hàn vốn đang khó khăn, cũng như khả năng Mỹ trừng trị bất kỳ chương trình quân sự nào với quy mô như vậy thông qua mạng lưới tình báo dày đặc của nước này ở Hàn Quốc, Park theo đuổi kế hoạch với sự bảo mật cao nhất. [207] Ông cũng làm vậy vì với quyền lực tập trung quanh ông kể từ đợt sửa đổi hiến pháp năm 1969 để dọn đường cho nhiệm kỳ tổng thống thứ ba năm 1971, Park không cần sự ủng hộ của những người khác về vấn đề mà ông cho là tối quan trọng. Ông cũng không phải kiểu người sẽ đưa một vấn đề quan trọng như vậy ra tranh luận công khai. [208]

Điều khiến cho các ý định của Park trở nên không rõ ràng kể cả đối với các thân phúc Nhà Xanh và các nhà nghiên cứu ADD của ông là những khó khăn khi tách biệt các ý định quân sự ra khỏi kinh tế trong bất kỳ chương trình phát triển hạt nhân nào. Đa số những gì cần cho phát triển vũ khí hạt nhân cũng cần cho việc sử dụng năng lượng hạt nhân trong hòa bình. Và Hàn Quốc có nhu cầu phát triển năng lượng hạt nhân khổng lồ nhằm giảm sự lệ thuộc vào dầu mỏ. Một kế hoạch nghiên cứu hạt nhân 12 năm (1968-1981), được KAERI chuẩn bị năm 1968 và được nội các chấp thuận như là một kế hoạch chi tiết cho sự tự chủ về năng lượng quốc gia vào năm 1969, vạch ra tiến trình xây dựng các phương tiện cho hoạt động sản xuất chế tạo nhiên liệu hạt nhân, một nhà máy lọc uranium và một cơ sở tái chế đến năm 1981. Để tiến hành kế hoạch, KAERI bắt đầu đàm phán với những nhà cung cấp hạt nhân nước ngoài trong các chương trình nghiên cứu chung về chế tạo và tái chế nhiên liệu hạt nhân vào đúng năm 1972. Cùng năm đó, Công ty Hóa chất Youngnam bắt đầu đàm phán với Công ty Phục vụ Nhiên liệu Hạt nhân, Công ty Dầu mỏ Skelly và Công ty Dầu khí Mitsubishi để nhập khẩu một cơ sở có khả năng tái chế một tấn nhiên liêu đã dùng trong một ngày. Địa điểm xây dựng cơ sở tái chế đặt ở Onsan, Tỉnh Nam Gyeongsang. Công ty Hóa chất Youngnam hợp tác với KAERI trong dự án này, nhưng vì thất bại của Công ty Phục vụ Nhiên liệu Hạt nhân trong việc đạt được sự chấp thuận bán hàng của chính phủ Mỹ, dự án này thất bại từ trong trứng nước.

Nhân vật trung tâm khi tái khởi động dự án hạt nhân này là Yun Yong-gu, được chỉ định làm Giám đốc KAERI vào tháng 8 năm 1971 với sứ mệnh phát triển công nghệ chế tạo và tái chế nhiên liệu hạt nhân như một trong những ưu tiên hàng đầu của viện này. KAERI liên lạc với Viện nghiên cứu Hạt nhân Algon, một viện nghiên cứu của Mỹ, để được cung cấp đào tạo nhân lực và cung cấp công nghệ cần thiết để tái chế, nhưng rồi bị từ chối. Rõ ràng là vào thời điểm đó, Hàn Quốc đang cố gắng để có được công nghệ tái chế hạt nhân vì các mục đích hòa bình do KAERI đang nhắm viện nghiên cứu của Mỹ làm đối tác. Bất kỳ nỗ lực phát triển vũ khí hạt nhân nào hẳn sẽ dễ dàng bị Hoa Kỳ phát hiện. Khi thất bại trong đàm phán với Algon, KAERI chuyển hướng khác để tìm sự chuyển giao công nghệ cần thiết. Yun vui mừng khi Pháp, Bỉ và Canada bày tỏ sự quan tâm. Do đó, dự án phát triển năng lượng hạt nhân vì các mục đích hòa bình của Hàn Quốc đã được tiến hành khi Park quyết định phát triển vũ khí hạt nhân năm 1971. Sự quan tâm của Park đối với chương trình hạt nhân như là một dự án quân sự tiềm năng đã khiến các nỗ lực mua giấy phép công nghệ hạt nhân của KAERI tăng tốc đột biến sau năm 1971.

Tháng 5 năm 1972, một phái đoàn gồm các nhà khoa học và quan chức Hàn Quốc do Choi Hyeong-seob dẫn đầu thực hiện chuyến đi chính thức đến Pháp và Vương quốc Anh. Sau đó là một thỏa thuận với Pháp về việc bán công nghệ tái chế hạt nhân và chế tạo nhiên liệu. Đối với Pháp, bên cạnh tham vọng truyền thống muốn phát triển vị thế riêng trong lĩnh vực an ninh toàn cầu độc lập với Hoa Kỳ, các lợi ích thương mại cũng thúc đẩy nước này sẵn sàng trở thành nhà cung cấp công nghệ và cơ sở hạt nhân. Giải pháp của Choi là cơ hội đáng chào đón để xâm nhập vào thị trường hạt nhân thương mại đang phát triển bị Hoa Kỳ thống trị. Tháng 10 năm 1972, KAERI chủ động bắt đầu đàm phán việc chuyển giao công nghệ tái chế với Hội đồng Năng lượng Nguyên tử Pháp. Một cuộc đàm phán riêng khác để nhập khẩu các cơ sở kiểm tra hoạt động chế tạo nhiên liệu hạt nhân hỗn hợp cũng đang được tiến hành với Belgonucléaire, một công ty của Bỉ.

Công nghệ tái chế

Tháng 3 năm 1973, Choi Hyeong-seob tuyển Chu Chae-yang làm phó giám đốc đầu tiên của KAERI. Chu trở thành người tuyển mộ các nhà khoa học và kỹ sư Hàn Quốc ở nước ngoài để phát triển hạt nhân. Tháng 7 năm đó, 15 học giả ở nước ngoài với chuyên môn về kỹ thuật hạt nhân, kỹ thuật hóa chất và hóa học tham gia vào KAERI. Được hưởng mức lương tương đối cao và được cung cấp chỗ ở, các nhà khoa học từ nước ngoài này tham gia cùng khoảng 25 nhà nghiên cứu trong nước trong một “đội dự án đặc biệt”. Như một trong những người trở về nhớ lại, KAERI tuyển các nhà khoa học và kỹ sư từ nước ngoài mà không thông báo cho họ về kế hoạch tiếp thu công nghệ tái chế của viện này. Kể cả trong KAERI, thông tin cũng được kiểm soát chặt, những nhà khoa học ngoài “đội dự án đặc biệt” không được biết về các hoạt động của đội này. [209] Sự bí mật này sẽ làm gia tăng nghi ngờ của Mỹ rằng KAERI đang theo đuổi các dự án nghiên cứu hạt nhân không chỉ để sử dụng năng lượng nguyên tử một cách hòa bình mà còn để phát triển vũ khí hạt nhân. Đội dự án đặc biệt, gồm khoảng 40 thành viên, đảm nhiệm hoạt động nghiên cứu phát triển cũng như đàm phán thương mại để cấp phép cho công nghệ hạt nhân với các viện nghiên cứu, doanh nghiệp và các cơ quan chính phủ ở Pháp, Bỉ, Vương quốc Anh và Canada.

Tuy nhiên, quy mô và độ phức tạp đòi hỏi phải tổ chức một mạng lưới các tổ chức hỗ trợ ngoài KAERI. Tại Nhà Xanh, Oh Won-chul và Thư ký Kim Kwang-mo đã dẫn dắt lộ trình phát triển các chương trình hạt nhân. Ở Bộ Khoa học Công nghệ, Choi Hyeong-seob huy động nguồn lực của bộ này để hỗ trợ cho các hoạt động nghiên cứu của KAERI. Bộ Quốc phòng bị loại khỏi toàn bộ dự án không chỉ vì thiếu chuyên môn mà còn vì sự gắn kết về mặt thể chế ở quy mô lớn của bộ này với giới lãnh đạo quân sự Mỹ khiến hoạt động phát triển bí mật vũ khí hạt nhân là không thể. Đội dự án đặc biệt của KAERI do Chu Chae-yang dẫn đầu chịu trách nhiệm chính cho việc tiếp thu các tiềm lực công nghệ để chế tạo và tái chế hạt nhân. Ngược lại, hoạt động nghiên cứu phát triển thiết kế vũ khí, hệ thống vận chuyển và công nghệ nổ được ADD tiến hành riêng biệt. Vì vậy đã xuất hiện sự phân chia lao động, với việc KAERI tập trung nắm những vật liệu phân hạch cấp độ vũ khí còn ADD tập trung sản xuất vũ khí và hệ thống vận chuyến. Vì KAERI và ADD có thể theo đuổi các sứ mệnh công nghệ riêng của họ một cách độc lập, nên sự phân chia lao động này giúp cho nỗ lực che giấu chương trình vũ khí hạt nhân của Park trước Hoa Kỳ kéo dài lâu nhất có thể.

Cuối năm 1973, ADD trình kế hoạch bí mật phát triển vũ khí hạt nhân cho Park đánh giá. Với đề xuất phát triển bom plutonium 20 tấn tương đương với kích thước quả bom thả xuống Nagasaki, kế hoạch của ADD ước tính cần tới tổng ngân sách từ 1,5 đến 2 tỷ đô-la Mỹ và kéo dài từ 6 đến 10 năm. Ban đầu, ADD chọn máy bay thả bom làm phương tiện vận chuyển, nhưng sau đó cơ quan này chọn tên lửa khi Hàn Quốc thử nghiệm thành công chương trình phóng tên lửa đất đối đất tầm trung (Paekkom) năm 1978. [210] KAERI và các nhà khoa học viện này bị loại khỏi quá trình hoạch định do ADD lãnh đạo dù chính viện này đã phát triển các năng lực tái chế. Việc loại các nhà khoa học KAERI khỏi hoạt động phát triển vũ khí hạt nhân, hệ thống vận chuyển và công nghệ nổ là có suy xét; điều này tối thiểu hóa nguy cơ rò rỉ thông tin. Các nhà khoa học KAERI chắc chắn biết rằng các năng lực công nghệ họ phát triển cho việc sử dụng năng lượng hạt nhân một cách hòa bình cũng có thể được dùng để phát triển vũ khí hạt nhân, nhưng những gì họ phán đoán vẫn chỉ là phán đoán vì họ không bao giờ được cho biết về bản chất quân sự được định ra trong công việc của mình. Rào cản chính trong việc phát triển vũ khí hạt nhân là việc thu mua plutonium cấp độ vũ khí.

Cuộc đàm phán với Pháp về chuyển giao công nghệ ban đầu diễn ra suôn sẻ, dẫn đến hai hợp đồng tạm thời giữa KAERI và các công ty Pháp vào tháng 4 năm 1975, một với CERCA về hoạt động chế tạo nhiên liệu hạt nhân và một với Công ty Saint-Gobain Technique Nouvelle về tái chế nhiên liệu đã dùng. [211] KAERI vốn cũng đang đàm phán một thỏa thuận riêng với Canada từ tháng 4 năm 1973 về việc xây dựng một lò phản ứng nước nhẹ gọi là CANDU, để có được nhiên liệu đã dùng cần cho chế tạo plutonium. Mặc dù lò phản ứng hạt nhân quy mô lớn đầu tiên của Hàn Quốc, Kori 1, được xây dựng với sự hỗ trợ của Mỹ, nhưng KAERI tính toán rằng Hàn Quốc sẽ gặp khó khăn, nếu không phải là bất khả thi, khi tái chế các thanh nhiên liệu đã dùng từ Kori 1 do có sự tham gia của Hoa Kỳ. Hơn nữa, với ngày mục tiêu phải hoàn thành việc xây dựng được xác định trong năm 1978, KAERI cho rằng cần phải có một nguồn cung nhiên liệu đã qua sử dụng khác nếu muốn dự phòng cho các chương trình nghiên cứu đang diễn ra về công nghệ chế tạo và tái chế nhiên liệu hạt nhân. [212] Chính trong bối cảnh này, Saul Eisenberg, một nhà vận động hành lang người Áo gốc Israel đại diện cho Hội đồng Năng lượng Nguyên tử Canada, đã tiếp cận Hàn Quốc với ý định rằng nếu Hàn Quốc mua lò phản ứng CANDU, Canada sẵn sàng cung cấp lò phản ứng NRX.

Vì NRX của Canada là lò phản ứng nước nặng sử dụng uranium tự nhiên, nên việc mua lò này sẽ cho phép Hàn Quốc có được uranium tự nhiên tương đối dễ dàng. Không chỉ vậy, vì có thể loại bỏ nhiên liệu đã dùng chất lượng cao mà không phải tắt lò phản ứng nghiên cứu NRX, nên đề xuất của Eisenberg có thêm một lợi thế là duy trì tính bí mật cho các chương trình nghiên cứu phát triển của KAERI. Về phần mình, Canada đang chủ động tìm kiếm một thị trường nước ngoài nơi quốc gia này có thể bán các lò phản ứng nước nặng, điều đó càng khiến thỏa thuận này khả thi hơn nữa. Đến giữa năm 1975, các cuộc đàm phán với Canada tiến triển đáng kể, thúc đẩy Hàn Quốc chọn CANDU của Canada cho nhà máy năng lượng hạt nhân Wolsong 1. Theo gói thỏa thuận, Canada đồng ý cung cấp lò phản ứng NRX 30.000 kilowatt - nhưng với điều kiện là Hàn Quốc đồng ý với yêu cầu của Mỹ rằng nước này phê chuẩn NPT. Canada đang chịu áp lực mạnh của Mỹ về việc phải buộc Hàn Quốc chấp thuận NPT trước khi bán gói lò phản ứng CANDU và lò phản ứng nghiên cứu NRX. Hoa Kỳ lúc bấy giờ hiểu được sự nghiêm túc của Park trong việc phát triển lựa chọn hạt nhân.

Hàn Quốc đồng ý, nhanh chóng phê chuẩn NPT để cho thấy các ý định hòa bình của mình. Đồng thời, cả Hoa Kỳ và Hàn Quốc biết rằng Hàn Quốc đang tiến gần đến việc tiếp thu các năng lực phát triển vũ khí hạt nhân thông qua việc mua lò phản ứng nghiên cứu NRX, lò tạo ra nhiên liệu đã sử dụng. Với nguyên liệu phân hạch cấp độ vũ khí, Hàn Quốc được mong sẽ xây dựng được vũ khí hạt nhân riêng của mình trong 4-6 năm.

Việc Hàn Quốc tiếp xúc với các nhà cung cấp Pháp và Canada có những ngụ ý chính trị quan trọng về quan hệ Mỹ - Hàn. Đầu tiên, được khuyến khích bởi thành công ban đầu của việc nhập khẩu công nghệ và các cơ sở hạt nhân, Park cho rằng ông cuối cùng đã thoát khỏi sự lệ thuộc toàn bộ vào Hoa Kỳ về nghiên cứu phát triển hạt nhân. Tinh thần tự tin này kết hợp với nỗi ám ảnh khủng hoảng an ninh cổ vũ Park nhấn mạnh học thuyết tự lực trong quốc phòng mà ông đã phát triển từ đầu những năm 1970. Thứ hai, bằng cách có những nguồn khác ngoài Hoa Kỳ để phát triển hạt nhân, Park có thể theo đuổi chương trình hạt nhân của mình với một mức độ mơ hồ về chiến lược. Vì công nghệ hạt nhân có thể được dùng cho cả các mục đích kinh tế và quân sự nên luôn có sự không chắc chắn về các ý định phát triển chương trình hạt nhân của Park. Sự mơ hồ này tạo cho Park một số vị thế trong chính sách Mỹ ở Hàn Quốc. Tuy nhiên, đồng thời cũng đúng là nỗ lực tạo vị thế dựa trên sự mơ hồ chiến lược này trong các chương trình hạt nhân có thể phản tác dụng nếu nó quá trớn, điều đó có thể khiến Hoa Kỳ kết luận rằng Park đang có ý định vi phạm các quy định của IAEA và NPT. Một kết luận như vậy có thể khơi ngòi cho các trừng phạt của Mỹ.

Việc Hàn Quốc mua công nghệ hạt nhân của Pháp và Canada cũng có các ngụ ý kinh tế quan trọng. Thị trường hạt nhân Hàn Quốc không còn là “của riêng” của các công ty hạt nhân Mỹ, điều đó khiến ngành công nghiệp hạt nhân Mỹ phải tìm cách đối phó để tránh thách thức từ những nhà cung cấp hạt nhân nơi khác. Điều trớ trêu là các biện pháp phòng thủ của ngành công nghiệp này ở Mỹ có thể dẫn đến việc làm mạnh thêm lẫn suy yếu vị thế của Hàn Quốc so với Hoa Kỳ trong cuộc chơi giành quyền tiếp cận công nghệ hạt nhân và duy trì lá bài hạt nhân như một lựa chọn. Các công ty Mỹ có thể sử dụng các biện pháp phòng thủ và gây áp lực lên giới hoạch định chính sách Mỹ, thẳng tay với những giả vờ của Park về khả năng tự lực hạt nhân, hoặc họ có thể hỗ trợ Hàn Quốc bằng cách đưa ra thêm nhượng bộ trong hoạt động đấu thầu mua công nghệ của họ.

Bất chấp những tiến triển có được khi đa dạng hóa những nhà cung cấp công nghệ hạt nhân của mình, Hàn Quốc còn lâu mới trở thành một cường quốc hạt nhân giữa những năm 1970. Nước này vẫn còn cần phải phát triển một thiết kế vũ khí khả thi, thu được nguyên liệu phân hạch cấp độ vũ khí và xây dựng hoặc mua hệ thống vận chuyển. Hơn nữa, Hàn Quốc cần tiếp thu công nghệ trong kỹ thuật hóa chất và cơ khí để xử lý an toàn plutonium đầy nguy hiểm. Như một nhà nghiên cứu chịu trách nhiệm thiết kế vũ khí ở ADD từng làm chứng, việc phát triển một thiết kế vũ khí khả thi là tương đối dễ dàng và gần hoàn thành năm 1975. Việc có được vật liệu phân hạch cấp độ vũ khí cũng là một nhiệm vụ tương đối dễ vì sẵn có lò phản ứng NRX mà từ đó nhiên liệu đã dùng sẽ được tái chế. Tương tự, để có được hệ thống vận chuyển không tạo ra thách thức lớn vì các máy bay chiến đấu F-4D/E do Mỹ sản xuất, ban đầu được cung cấp cho Hàn Quốc như một trao đổi cho sự can thiệp quân sự vào chiến tranh tại Việt Nam của nước này và sau đó được Hàn Quốc mua như một phần trong chương trình hiện đại hóa quân sự để bù đắp cho thiệt hại về hỏa lực gây ra do hoạt động triệt thoái quân sự của Mỹ, có thể vận chuyển các vũ khí hạt nhân nặng lên đến 1,8 tấn. Hàn Quốc vốn cũng đang phát triển các tên lửa đạn đạo đất đối đất của riêng nước này từ đầu những năm 1970 để có thể dùng làm hệ thống vận chuyển. Việc tiếp thu các công nghệ lắp ráp vũ khí hạt nhân cần thời gian, nhưng với sự mạnh mẽ của các ngành công nghiệp nặng và hóa chất Hàn Quốc những năm 1970, điều đó không khó khăn đến mức không thể vượt qua được. Việc xây dựng nhà máy tái chế được ước tính tốn 51 triệu đô-la Mỹ trong 4 năm, một việc không quá nặng nề đối với nền kinh tế có quy mô như Hàn Quốc.

Về phần mình, Hoa Kỳ phải đối mặt với rủi ro cao. Đầu tiên, hệ thống quy định NPT không thể bị suy yếu. Thứ hai, việc Hàn Quốc có được vũ khí hạt nhân vào thời điểm triệt thoái quân sự Mỹ có thể đồng nghĩa với việc xói mòn sức ảnh hưởng của Mỹ ở một trong những khu vực biến động nhất thế giới. Cuộc chạy đua vũ trang hạt nhân trong khu vực vốn có thể nổ ra như là kết quả của việc Hàn Quốc có được các năng lực hạt nhân được xem là đe dọa đến lợi ích an ninh của Mỹ. Ngược lại, như Park nhìn nhận, ông sắp là người chiến thắng bất kể chương trình vũ khí hạt nhân của ông tiến triển với sự can thiệp của Hoa Kỳ hay không đi nữa. Nếu chương trình thoát khỏi sự theo dõi của Mỹ, Park sẽ có được nguồn phòng vệ hạt nhân độc lập chống lại Triều Tiên trong giai đoạn tưởng như là thời kỳ triệt thoái quân sự không thể đảo ngược của Mỹ. Mặt khác, nếu chương trình bị lộ, ông cho rằng ông có thể sử dụng việc gỡ bỏ chương trình vũ khí hạt nhân làm món hàng mặc cả từ đó đòi hỏi sự nhượng bộ về các vấn đề an ninh.

Phát triển tên lửa

Tích hợp với chương trình vũ khí hạt nhân là hoạt động phát triển tên lửa với vai trò một hệ thống vận chuyển. Oh Won-chul là trung tâm trong giải pháp tên lửa của Park. Tháng 12 năm 1971, sau khi Park chuyển đến Oh quyết định phát triển tiềm lực tên lửa chiến lược của mình, Oh triệu hồi đến Nhà Xanh Ku Sang-hoe, sau này được biết đến như là cha đẻ của hoạt động phát triển tên lửa ở Hàn Quốc. Tại đây, ông này nhận lệnh của cá nhân Park lãnh đạo hoạt động phòng thủ tên lửa đạn đạo. Park tự tay viết một danh sách các đặc điểm cụ thể mà ông muốn thấy trong chương trình tên lửa, và đưa bản ghi nhớ đó cho Oh Won-chul. Quan trọng nhất, Park chỉ đạo cho Oh xây dựng một hệ thống phát triển tên lửa độc lập, với mục tiêu sản xuất các tên lửa đạn đạo đất đối đất trong phạm vi 200km trong giai đoạn đầu, và sau đó mở rộng mạnh mẽ phạm vi trong những giai đoạn sau. Park cũng xác định ADD là cơ quan điều phối hoạt động nghiên cứu phát triển. Đến tháng 9 năm 1972, một nhóm các nhà khoa học và kỹ sư từ ADD, Viện Khoa học Công nghệ Hàn Quốc (KAIST) và Cơ quan Tình báo Trung ương Hàn Quốc (KCIA) có thể phối hợp xây dựng kế hoạch phát triển tên lửa, với tên gọi “Kế hoạch Phát triển Công nghiệp Vũ trụ”. Tuy nhiên, kế hoạch thật sự tập trung vào phát triển tên lửa đạn đạo, đến cuối năm 1976 đã tuyên bố thử nghiệm thành công tên lửa đất đối đất tầm trung và đến cuối năm 1979 là tên lửa tầm xa.

Tháng 2 năm 1973, Park chấp thuận “Kế hoạch Phát triển Tên lửa Đạn đạo Cơ bản” và ra lệnh thực hiện kế hoạch này như một phần trong dự án Yulgok hiện đại hóa quân đội Hàn Quốc. Việc đưa kế hoạch này vào dự án Yulgok gần như đảm bảo sự hỗ trợ tài chính từ nhà nước. Việc tiến hành thật sự bắt đầu năm 1975 với việc nhà nước cung cấp 6,2 tỷ won. Năm 1976, hóa đơn là 5,7 tỷ won. Đến tháng 12 năm 1976, hoạt động xây dựng Trung tâm Công cụ Máy móc Daejeon được hoàn thành để làm cơ sở kỹ thuật phát triển tên lửa đạn đạo. ADD chủ động tìm cách mua các công nghệ, bộ phận và linh kiện đẩy, dẫn đường cần thiết trên thị trường quốc tế, cũng như tuyển mộ một số nhà khoa học và kỹ sư Hàn Quốc từ Hoa Kỳ.

Để phát triển thiết kế tên lửa, ADD chọn McDonnell Douglas (MD) làm nhà chuyển giao công nghệ ưu tiên vì MD sản xuất các tên lửa Nike-Hercules (NH) được sử dụng bởi bộ binh Mỹ ở Hàn Quốc. Hơn nữa, MD đang gặp phải khó khăn tài chính giữa những năm 1970, điều đó khiến ADD nghĩ rằng công ty này sẽ dễ dàng bán các công nghệ thiết kế tên lửa hơn. Tuy nhiên, MD thất vọng khi ADD bị yêu cầu phải xin phép Bộ Quốc phòng Mỹ. Khi Bộ Quốc phòng Mỹ không chấp thuận việc bán các công nghệ thiết kế tên lửa, ADD đề xuất một dự án nghiên cứu chung để gia tăng phạm vi của tên lửa NH từ 180km lên 240km. MD đồng ý, nhưng với giá 30 triệu đô-la Mỹ, điều đó buộc ADD phải chia nhỏ dự án nghiên cứu thành ba giai đoạn và hoàn tất hợp đồng cho giai đoạn nghiên cứu chung đầu tiên bằng một khoản 1,8 triệu đô-la Mỹ. Như một phần trong giai đoạn đầu tiên, 10 nhà nghiên cứu ADD được gửi đến MD trong 6 tháng. Khi hoàn thành nghiên cứu khả thi kéo dài 6 tháng, ADD tiếp thu được các công nghệ thiết kế tên lửa đạn đạo cơ bản và hủy hai giai đoạn còn lại của nghiên cứu chung.

Phát triển được công nghệ đẩy cũng là một quá trình khó khăn. Vì các công ty Mỹ theo luật phải có được sự đồng thuận trước của Bộ Quốc phòng khi bán các công nghệ đẩy, nên ban đầu ADD chọn liên lạc với một công ty Pháp, SNPE, để mua công nghệ, thiết bị, bộ phận và linh kiện. Sau đó, vào giữa các cuộc đàm phán với SNPE, khi nghe về kế hoạch đóng cửa nhà máy đẩy của Lockheed ở California vì kiệt quệ tài chính, ADD đã nhanh chóng liên lạc với Lockheed để mua thiết bị ở nhà máy. Lockheed đề xuất ngược lại để ADD mua tất cả thiết bị ở nhà máy California với lời hứa rằng công ty này sẽ lấy được giấy phép cần thiết từ Bộ Quốc phòng. Cuối cùng, ADD mời cả Lockheed và SNPE đấu thầu cho dự án, và sau đó chọn mua nhà máy California của Lockheed với giá 2,6 triệu đô-la Mỹ - nhưng không có công nghệ sản xuất. Công nghệ sản xuất bị loại khỏi hợp đồng vì sự phản đối quyết liệt từ Bộ Quốc phòng. Vì vậy, ADD phải hoàn tất thỏa thuận riêng với SNPE để có được công nghệ sản xuất với giá 3 triệu đô-la Mỹ. Thỏa thuận với Lockhead diễn ra được chỉ vì Hoa Kỳ chia rẽ nội bộ, đại sứ quán Mỹ ở Seoul cùng với Bộ Quốc phòng ủng hộ kế hoạch của Lockheed còn Bộ Ngoại giao vẫn chống đối quyết liệt vì những lý do sau:

Biên bản ghi nhớ của [Phó Bộ trưởng Quốc Phòng] William P. Clements vào ngày 23 tháng 1 đồng ý rằng nhà máy Lockheed sẽ cho phép [Hàn Quốc] đạt được những khoản tiết kiệm khổng lồ khi lắp lại động cơ cho những tên lửa do Mỹ chế tạo mà nước này hiện đang sở hữu. Hơn nữa, biên bản ghi nhớ khẳng định rằng ADD đang mong muốn tiến hành các chương trình nghiên cứu và thử nghiệm vũ khí chống tăng và các vũ khí tên lửa khác... Bộ Ngoại giao tin rằng Tổng thống Park [vẫn còn chưa tiết lộ], thông qua ADD, đang cố gắng thực hiện một chương trình tham vọng nhằm phát triển hệ thống vũ khí tiên tiến có tầm “chiến lược” trong tình hình Bán đảo Triều Tiên. Bên cạnh các tên lửa tiên tiến, ADD đã được chỉ đạo giám sát sản xuất vũ khí hạt nhân mẫu để thử nghiệm... Kết nối phát triển vũ khí hạt nhân với năng lực tên lửa tiên tiến sẽ có những ý nghĩa chiến lược quan trọng với vị trí địa lý [của Hàn Quốc].

Sau khi xây dựng Trung tâm Công cụ Máy móc Daejeon và di chuyển nhà máy đẩy Lockheed đến Hàn Quốc, chương trình phát triển tên lửa nhanh chóng khởi động. Đồng thời, với các hoạt động gia tăng của ADD và KAERI ở các thị trường hạt nhân và tên lửa nước ngoài, hoạt động theo dõi Hàn Quốc của Mỹ cũng gia tăng. Trưởng ban cố vấn ở Nhà Xanh, Kim Jeong-ryeom, có lần nhớ lại rằng trở ngại lớn nhất trong chương trình phát triển tên lửa là sự phản đối của Hoa Kỳ. Đại sứ Richard L. Sneider lặp đi lặp lại sự phản đối mạnh mẽ đối với chương trình tên lửa của Hàn Quốc trong cuộc họp trưa của ông với Kim Jeong-ryeom. Để có được công nghệ và thiết bị dẫn đường của Mỹ, để hoàn tất hoạt động phát triển các tên lửa đạn đạo, ADD phải đồng ý với Hoa Kỳ về giới hạn phạm vi của các tên lửa Hàn Quốc xuống còn 180km và trọng lượng đầu đạn còn 453,5kg.

Phiên xử tham vọng hạt nhân của Park

Chương trình vũ khí hạt nhân của Park tiến triển không ngừng đến giữa năm 1974. Cho đến lúc đó, Hoa Kỳ ít quan tâm đến hoạt động phổ biến hạt nhân ở các nước đang phát triển, tạo cho Park cơ hội xây dựng nền tảng thể chế cho hoạt động nghiên cứu và phát triển cũng như cơ hội ký hợp đồng với các công ty nước ngoài các vụ mua bán công nghệ và/hoặc các cơ sở phát triển tiềm lực hạt nhân và tên lửa. Với cuộc thử nghiệm tên lửa thành công của Ấn Độ tháng 5 năm 1974, thái độ của Mỹ thay đổi rất nhiều, chỉ huy Bộ Ngoại giao điều tra các thách thức tiềm tàng đối với hệ thống quy định NPT. Chính từ đây, Hoa Kỳ bắt đầu được biết về những cuộc đàm phán mua công nghệ và cơ sở tái chế của Hàn Quốc từ Pháp và Canada vào cuối năm 1974 và ra lệnh cho đại sứ quán Mỹ ở Seoul đánh giá những ý đồ của Hàn Quốc trong việc phát triển các cơ sở tái chế hạt nhân. Điện tín từ đại sứ quán đến Bộ Ngoại giao ngày 28 tháng 10 năm 1974 cho thấy quan ngại của Mỹ: “Đại sứ quán hiện đang chuẩn bị cho các phân tích về khả năng Hàn Quốc phát triển vũ khí hạt nhân và chúng tôi đã lên kế hoạch giải quyết các câu hỏi liên quan về hoạt động phát triển tên lửa đất đối đất... trong bối cảnh cuộc phân tích vũ khí hạt nhân của chúng tôi.”

Vài tháng sau, Bộ Ngoại giao báo cho một nhánh tình báo Mỹ — khả năng cao nhất là Cơ quan Tình báo Trung ương Mỹ - về nhu cầu điều tra chương trình phát triển hạt nhân của Hàn Quốc. Đầu năm 1975, Hoa Kỳ tiến hành khảo sát hoạt động phổ biến hạt nhân tiềm tàng ở thế giới thứ ba và đặt Hàn Quốc vào nhóm các nước đang phát triển có tiềm lực phát triển vũ khí hạt nhân trong vòng một thập niên. Bộ Ngoại giao Mỹ lúc bấy giờ đưa ra ý kiến rằng việc phát triển vũ khí hạt nhân của Hàn Quốc sẽ phá vỡ sự ổn định khu vực bằng cách buộc Trung Quốc và Liên Xô cung cấp cho Triều Tiên những vũ khí hạt nhân chiến lược trong trường hợp xảy ra giao chiến quân sự trên Bán đảo Triều Tiên.

Lo lắng về các nguy cơ phổ biến hạt nhân, Hoa Kỳ đề xuất để các nước thành viên của Nhóm Nhà cung cấp Hạt nhân (Hoa Kỳ, Anh, Canada, Pháp, Tây Đức, Nhật Bản và Liên Xô) triệu tập một cuộc họp nhằm đưa ra các hướng dẫn chung về chính sách xuất khẩu, bao gồm xuất khẩu công nghệ, bộ phận linh kiện, v.v... với mục tiêu hạn chế bán các vật liệu hạt nhân nhạy cảm. Với truy vấn của Mỹ về việc Pháp bán nhà máy tái chế cho Hàn Quốc, phía Pháp trả lời rằng nước này sẽ tìm kiếm những biện pháp bảo vệ của IAEA khi hoàn tất thỏa thuận. Bên cạnh nỗ lực huy động ủng hộ đa phương nhằm hạn chế chương trình hạt nhân vì mục đích hòa bình của Hàn Quốc, Bộ Ngoại giao cũng sử dụng áp lực song phương để ngăn chặn chương trình này phát triển thành một chương trình quân sự bằng cách thúc ép Hàn Quốc phê duyệt NPT. Đồng thời, Hoa Kỳ siết chặt hoạt động theo dõi các cơ sở hạt nhân Hàn Quốc và tăng cường tình báo ở các hoạt động nghiên cứu.

Đại sứ quán Mỹ ở Seoul vẫn giữ quan điểm cẩn trọng nhất. Đối với cơ quan này, vì “bản chất cần cù” của người Hàn Quốc và quyết tâm của Park, đến đầu những năm 1980, Hàn Quốc có thể phát triển vũ khí hạt nhân riêng của nước này. Đại sứ quán cũng lập luận rằng Hoa Kỳ không được đánh giá thấp khả năng tiếp thu công nghệ và thiết bị hạt nhân của Hàn Quốc từ nước thứ ba thông qua các hợp đồng thương mại. Đại sứ quán tin rằng Hàn Quốc sẽ cố gắng thúc đẩy chương trình phát triển vũ khí hạt nhân bất chấp các chi phí chính trị và kinh tế cao và rằng thành công trong phát triển vũ khí hạt nhân của nước này sẽ đồng nghĩa với sự sụt giảm trầm trọng ảnh hưởng của Mỹ lên Hàn Quốc. Đại sứ quán khuyến nghị Hoa Kỳ có hành động rõ ràng nhằm ngăn cản Hàn Quốc tiếp tục chương trình vũ khí hạt nhân. Khi tìm cách chặn đứng nỗ lực của Hàn Quốc, Đại sứ Sneider họp với Park ngày 1 tháng 5 năm 1975 để thảo luận về chương trình phát triển tên lửa của Hàn Quốc. Như dự kiến, Park nhấn mạnh lại quyết tâm vững chắc nhằm xây dựng tiềm lực quốc phòng cho đất nước của ông, bao gồm kho tên lửa, như một biện pháp chuẩn bị cho sự cắt giảm lực lượng quân sự Mỹ, nếu không phải là rút quân, theo kế hoạch. Ngược lại, Sneider chỉ ra rằng chương trình phát triển tên lửa kéo theo chi phí tài chính quá lớn cho mục tiêu tự lực và rằng Hàn Quốc cần cân nhắc về những quan ngại của Mỹ trước khi tiến xa hơn. Park đã vô tình nhấn mạnh rằng ông không có kế hoạch phát triển vũ khí hạt nhân.

Ngày 2 tháng 7, Robert S. Ingersoll, lúc bấy giờ là Phó Bộ trưởng Ngoại giao, soạn một biên bản ghi nhớ cho Nhà Trắng, đưa ra các lựa chọn nhằm đánh bại nỗ lực phát triển vũ khí hạt nhân của Hàn Quốc. Nhớ lại cách ông có thể có được sự hợp tác từ Pháp và Canada khi ngăn chặn những hợp đồng đầu tiên vốn có thể phát triển thành một chương trình vũ khí hạt nhân, [213] Ingersoll nhấn mạnh rằng chương trình vũ khí hạt nhân của Hàn Quốc đe dọa trực tiếp đến các lợi ích an ninh của Mỹ ở khu vực Đông Á. Mặt khác, theo quan điểm của Ingersoll, Hoa Kỳ sẽ giữ một vai trò quan trọng như là nhà cấp quyền công nghệ và bảo trợ nếu nỗ lực tiếp thu công nghệ tái chế của Hàn Quốc chỉ được thúc đẩy bởi nhu cầu kinh tế về việc muốn có được một hình thức năng lượng thay thế trong bối cảnh giá dầu mỏ cao và liên kết yếu của Hàn Quốc với các nguồn dầu mỏ và khí đốt ở Trung Đông. Cân nhắc những rủi ro đang đối mặt, Ingersoll hối thức Hoa Kỳ hành động ngay lập tức. Để ngăn Park xem xét chiến lược vũ khí hạt nhân đầy rủi ro, Ingersoll khuyến nghị Hoa Kỳ sớm khẳng định quan ngại sâu sắc của nước này về chương trình tái chế hạt nhân của Hàn Quốc và cảnh báo rằng hỗ trợ hạt nhân của Mỹ trong tương lai, kể cả khoản cho vay đang chờ xử lý của Ngân hàng Xuất Nhập khẩu Mỹ (EX-IM) cho Kori 2, sẽ bị cắt trong trường hợp Park sử dụng công nghệ này cho các mục đích quân sự. [214] Không những thế, Ingersoll đề nghị Hoa Kỳ gây áp lực buộc Hàn Quốc không được tiến hành hoạt động xây dựng nhà máy tái chế thử nghiệm theo kế hoạch. Để đổi lấy sự chấp thuận của Hàn Quốc, ông cho rằng Hoa Kỳ có thể mời Hàn Quốc tham gia vào một nhà máy tái chế của khu vực. [215]

Đến tháng 10, đại sứ quán Mỹ ít nhất hai lần yêu cầu Park dừng chương trình tái chế hạt nhân nhưng ông chỉ bác bỏ yêu cầu. Thay vì vậy, Park đưa ra “nhượng bộ” cho phép Mỹ điều tra các cơ sở tái chế trong kế hoạch như là một động thái thể hiện thành ý của ông với Hoa Kỳ. Cũng trong thành ý đó, Hàn Quốc đã phê duyệt NPT vào tháng 4 năm 1975, 7 năm sau khi trì hoãn, khi Hoa Kỳ thuyết phục thành công Pháp và Canada cùng gây áp lực để Hàn Quốc phê duyệt NPT như là điều kiện tiên quyết để Pháp và Canada bán công nghệ hạt nhân. Đối mặt với nhóm các nhà cung cấp thống nhất, Hàn Quốc nhanh chóng đồng ý và việc phê duyệt trong Nghị viện Quốc gia cần chưa đến 2 phút. Tuy nhiên, với hồ sơ dài những nỗ lực của Hàn Quốc trong việc qua mặt Hoa Kỳ để phát triển các tiềm lực hạt nhân, tổn thất ở quan hệ hai nước không thể được chữa lành chỉ bằng việc phê duyệt NPT. Ngược lại, giới hoài nghi ở chính quyền Mỹ lập luận rằng việc phê duyệt chỉ là một bước đi cơ hội nhằm dập tắt những phản đối của Mỹ đối với vụ mua bán của Pháp. Không những vậy, sự phê duyệt của Hàn Quốc chỉ diễn ra sau một nghị quyết của Quốc hội Mỹ yêu cầu Ngân hàng Xuất Nhập khẩu Mỹ trì hoãn việc chấp thuận các khoản vay cho hoạt động xây dựng lò phản ứng Kori 2. Nhận định về tình hình, Sneider cho rằng Hoa Kỳ có bốn lựa chọn:

(1) Chúng ta hiện giờ có thể để câu hỏi [này] lấp lửng mà không trả lời nhiều hơn, để ROKG [Chính phủ Cộng hòa Hàn Quốc] tự khám phá ra những khó khăn khi tiến hành mà không có sự hỗ trợ của chúng ta trong lĩnh vực hạt nhân; (2) Chúng ta có thể đồng ý hợp đồng tái chế, chấp nhận lời đề nghị của ROK về việc điều tra song phương của Mỹ cũng như điều tra quốc tế; (3) Chúng ta nêu vấn đề này một lần nữa trực tiếp với Tổng thống Park [để tìm cách] thỏa hiệp về một thỏa thuận ngừng hợp đồng tái chế mà chúng ta đã được biết là có thể diễn ra; hoặc (4) chúng ta có thể đối đầu với cá nhân Park với lập trường không nhượng bộ.

Hai lựa chọn đầu ngăn một cuộc leo thang xung đột hạt nhân mà chắc chắn sẽ gây tổn thất cho liên minh vốn chia rẽ, bị suy yếu bởi các tranh cãi nhân quyền, vụ bê bối Koreagate và hoạt động rút quân của Mỹ (xem chương 15). Tuy nhiên cả hai lựa chọn đều dẫn đến chi phí là để cho Hàn Quốc quyền định đoạt tình hình an ninh ở Bán đảo Triều Tiên cũng như ở khu vực Đông Á. Tuy vào việc Hàn Quốc hiểu hoặc không hiểu những lợi ích an ninh của Mỹ, một cuộc chạy đua vũ trang ở Đông Bắc Á có thể nổ ra. Nói cách khác, khi không có áp lực chống đối của Mỹ, hai lựa chọn đầu tiên này phụ thuộc vào khả năng Hàn Quốc nhận ra rằng quyết định cố gắng thúc đẩy chương trình hạt nhân sẽ chỉ tổn hại đến lợi ích của chính nước này vì đã thúc đẩy Hoa Kỳ không những bác bỏ khoản cho vay đang chờ xử lý của Kori 2 mà còn cắt hỗ trợ quân sự của Mỹ. Với những rủi ro và hạn chế của hai lựa chọn đầu, lựa chọn thứ ba yêu cầu Hoa Kỳ đối đầu trực tiếp với Park và tìm kiếm thỏa hiệp. Với kịch bản này, Hoa Kỳ mong muốn có được một thỏa thuận ngừng mua nhà máy tái chế trong hai đến ba năm do Hàn Quốc đưa ra. Tuy nhiên, cũng như hai thỏa thuận đầu, thỏa thuận thứ ba không chấm dứt được hoạt động phát triển hạt nhân của Park trong tương lai. Sneider giải thích:

Chúng ta cần nhấn mạnh rằng cách tiếp cận [thứ ba] [tạo đồng thuận về một thỏa thuận tạm ngừng) này sẽ có thể khiến một lượng lớn các lợi ích công nghệ và kinh tế chảy khỏi [Hoa Kỳ], trong đó có việc đề nghị đào tạo cho những kỹ thuật viên Hàn Quốc trong lĩnh vực tái chế. Chúng ta nên xử lý trực tiếp những lo ngại dài hạn hơn của Park, khẳng định rằng theo quan điểm của chúng ta ROKG có [một] vị thế an ninh vững chắc và chúng ta không thấy có mối lo lắng nào; tuy nhiên nếu họ thật sự quan ngại về hoạt động rút [chiếc ô] hạt nhân [của Mỹ], điều mà chúng ta không nghĩ đến, chúng ta sẽ vui vẻ thảo luận về tình huống này. Đồng thời, chúng ta phải làm rõ rằng không chỉ toàn bộ các quan hệ và khả năng ủng hộ Hàn Quốc của ta trong hoạt động phát triển hạt nhân mà còn ở các lĩnh vực khác sẽ bị thiệt hại nếu không có sự hợp tác của Park.

Lựa chọn thứ tư mang tính đối đầu hơn rất nhiều, yêu cầu Park phải chấm dứt mà không có các nhượng bộ tương ứng từ Hoa Kỳ. Chính xác Hoa Kỳ quyết định làm điều gì để buộc Park phải từ bỏ các tham vọng hạt nhân của ông vẫn còn chưa được tiết lộ, tuy nhiên các hành động đó ắt hẳn sẽ phải có những hệ quả chính trị nghiêm trọng tiềm ẩn. Trong bốn lựa chọn, Sneider đề nghị lựa chọn thứ ba nhưng với một lưu ý đầy cẩn trọng rằng Hoa Kỳ cần sử dụng “cách áp dụng thật sự nghiêm túc và khắt khe trong cách tiếp cận đa phương đối với hoạt động tái chế hạt nhân. Cứng rắn với Hàn Quốc trong khi tỏ vẻ bao dung với những nước khác... trong cùng [tình huống] sẽ khiến Hàn Quốc kết luận rằng [Hoa Kỳ] có những ngờ vực nghiêm trọng về quan hệ dựa trên niềm tin vốn là nền tảng của liên minh này, và có thể gây ra thiệt hại vĩnh viễn cho tinh thần hợp tác cần thiết để đảm bảo an ninh của Hàn Quốc.”

Sau đó, Hoa Kỳ bắt đầu gây áp lực buộc Park từ bỏ thỏa thuận tái chế hạt nhân với Pháp. Bên cạnh Sneider, Philip Habib, cựu đại sứ Mỹ ở Seoul thì Thứ trưởng Ngoại giao Mỹ lúc bấy giờ, cũng giữ vai trò trung tâm. Ngày 10 tháng 12 năm 1975, Sneider yêu cầu Bộ Ngoại giao Mỹ liên lạc với đại sứ Hàn Quốc ở Hoa Kỳ, Ham Pyeong-chun, về các hậu quả tiêu cực nghiêm trọng mà Hàn Quốc có thể gặp phải nếu tiếp tục nỗ lực tái chế hạt nhân. Ham Byeong-chun theo lịch sẽ gặp Park một tuần để chuyển thông điệp đến Park và ban cố vấn cho ông ở Nhà Xanh. Trong một điện tín gửi Bộ Ngoại giao, Sneider báo cáo:

Cuộc trao đổi với Thủ tướng [Kim Jong-pil] cho thấy rằng để có hiệu quả, cách tiếp cận của chúng ta phải nhấn mạnh đến các tác động tiêu cực đến các quan hệ rộng hơn với ROKG... nếu nước này kiên quyết hoàn tất thỏa thuận tái chế với Pháp. Quan điểm này được củng cố bởi phản ứng tiêu cực ban đầu trong cuộc gặp với [Thủ tướng Kim Jong-pil] mà tôi nhận được từ Phó [Thủ tướng] Nam [Deok-u] sáng nay. Do đó, trong cách tiếp cận [của chúng ta] với [Ham Byeong-chun], tôi tin chúng ta phải làm rõ vĩnh viễn rằng có rất nhiều thứ bên cạnh hỗ trợ hạt nhân sẽ bị thiệt hại, rằng, nếu ROKG cứ xúc tiến như nước này đã cho thấy đến giờ, toàn bộ các