← Quay lại trang sách

PHẦN V GÓC SO SÁNH Chương 17 NHỮNG NHÀ TÁI THIẾT QUỐC GIA:
MUSTAFA KEMAL ATATÜRK, LÝ QUANG DIỆU,
ĐẶNG TIỂU BÌNH, VÀ PARK CHUNG HEE
Ezra F. Vogel

Trong số nhiều nhà lãnh đạo quốc gia kiệt xuất của thế kỷ XX, chỉ bốn người khi thừa hưởng đất nước trong tình trạng hỗn loạn khủng khiếp đã hiện đại hóa đất nước của họ bằng cách xây dựng hệ thống mới và bắt đầu tăng trưởng rất nhanh, khiến các quá trình chuyển đổi tiếp tục sau thời của họ: Atatürk của Thổ Nhĩ Kỳ, Lý Quang Diệu của Singapore, Đặng Tiểu Bình của Trung Quốc đại lục và Park Chung Hee của Hàn Quốc. Nhật Bản, Đài Loan và Hong Kong trải qua những thay đổi hệ thống lớn lao và tăng trưởng rất nhanh, nhưng ở những xã hội này, vị thế dẫn dắt những thay đổi căn bản đến từ những thế lực bên ngoài hùng mạnh kiểm soát sự phát triển trong nước: ở Nhật, từ Tổ chức Chiếm đóng Đồng minh; ở Hong Kong, từ chính quyền thực dân Anh; và ở Đài Loan, từ quân đội Quốc Dân Đảng mới đến. Không quốc gia nào có những thay đổi căn bản được tạo ra từ bên trong và đạt được tăng trưởng nhanh, kéo dài mà không có một lãnh đạo độc tài mạnh dẫn đường cho những thay đổi đó. Việc so sánh bốn vị lãnh đạo này có thể làm rõ những đặc trưng chung ở khả năng lãnh đạo chuyển đổi trong thế kỷ XX và làm rõ những đặc trưng duy nhất có ở Park Chung Hee.

Sau Thế chiến I, Atatürk nắm quyền một vương quốc cổ đang tan rã, củng cố một số vùng lãnh thổ biên giới còn lại và xây nên những thể chế mới nhằm biến đổi Thổ Nhĩ Kỳ thành một quốc gia hiện đại, mang phong cách phương Tây và hướng đến phương Tây. Ông thành lập quốc hội lâm thời năm 1920 khi ông 39 tuổi, tuyên bố quốc gia độc lập năm 1923 và tiếp tục cầm quyền đến khi mất năm 1938.

Lý Quang Diệu góp phần đẩy nhanh hoạt động rút quân của Anh khỏi Singapore và sau đó trở thành thủ tướng nước Singapore tự trị năm 1959 ở tuổi 35. Khi Malaysia loại bỏ Singapore và buộc nước này phải độc lập vào năm 1965, Thủ tướng Lý đã đấu tranh để thành lập một quốc gia mới, đảm bảo tình hình an ninh và biến nước này thành một thành phố sạch sẽ, trật tự, hấp dẫn và thịnh vượng với mạng lưới an sinh xã hội rộng cho người dân. Lý tiếp tục làm thủ tướng đến năm 1990 khi ông trao quyền cho Ngô Tác Đống.

Đặng Tiểu Bình lãnh đạo quốc gia đông dân nhất thế giới, bị kiệt quệ bởi phong trào Đại Nhảy vọt và Cách mạng Văn hóa, với một hệ thống ngừng hoạt động và đã hàn gắn đất nước đồng thời tái xác định hướng đi căn bản của dân tộc này thông qua chính sách cải cách và mở cửa của ông. Dưới sự lãnh đạo của Đặng, Trung Quốc bắt đầu quá trình chuyển đổi từ một nước tụt hậu nghèo nàn thành một trong những quốc gia hàng đầu thế giới. Ông trở thành lãnh đạo tối cao năm 1978 ở tuổi 73 và thậm chí khi ông trao quyền bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc cho Giang Trạch Dân năm 1989, Giang vẫn tiếp tục báo cáo cho ông đến năm 1992.

Park Chung Hee tiếp nhận một nền dân chủ hỗn loạn yếu kém ở một đất nước bị chia cắt, chịu mối đe dọa nguy hiểm từ Triều Tiên và sau đó đã hàn gắn đất nước. Với tinh thần kỷ luật và lòng quyết tâm theo phong cách quân đội, ông đưa Hàn Quốc vào con đường trở thành một trong những cường quốc tầm trung hàng đầu thế giới. Park 44 tuổi khi ông lãnh đạo cuộc đảo chính năm 1961 và vẫn là tổng thống đến khi ông bị ám sát năm 1979 (62 tuổi).

Nền tảng và phong cách lãnh đạo

Cả Atatürk, Lý, Đặng và Park đều đến từ những đất nước tụt hậu xa so với phương Tây công nghiệp. Cả bốn đều có tinh thần yêu nước sâu sắc, một khát vọng chấm dứt sự thống trị của các cường quốc phương Tây mà họ cho là gây tổn hại đến lợi ích của nhân dân và kìm hãm sự phát triển của đất nước họ.

Thổ Nhĩ Kỳ sau Thế chiến I là một đất nước bại trận, mất tinh thần, đối mặt với nguy cơ bị xâu xé bởi các cường quốc Đồng minh. Lý đứng đầu một quốc gia nhỏ bé đang đấu tranh để tự bảo vệ mình mà không có sự trợ giúp từ bên ngoài. Đặng trở thành lãnh đạo tối cao ở Trung Quốc sau khi đất nước này bị tàn phá bởi 10 năm Cách mạng Văn hóa. Park trở thành lãnh đạo một đất nước bị chia cắt, vẫn còn chưa hồi phục từ cuộc nội chiến, phải chịu mối đe dọa từ một Triều Tiên hung hăng. Bốn lãnh đạo này tin rằng với những điều kiện và thách thức họ đang phải đối mặt, các cấu trúc và hoạt động thực thi dân chủ của các xã hội phương Tây công nghiệp không thể duy trì đất nước họ, chưa nói gì đến việc thúc đẩy nước họ trở nên hùng mạnh và thịnh vượng.

Cả bốn đều được tôi luyện từ đấu tranh, đều chấp nhận hệ thống thứ bậc cùng tính kỷ luật có được từ những mâu thuẫn mà họ trải qua trước khi nắm quyền. Atatürk và Park là những quân nhân chuyên nghiệp, còn Đặng đã trải qua 12 năm trong quân đội ban đầu chiến đấu chống Nhật, sau đó chống Quốc Dân Đảng. Lý không phải là quân nhân nhưng ông đã dẫn dắt đồng bào Singapore của mình trong các cuộc đấu tranh chính trị nguy hiểm. Sau khi bốn người lên nắm quyền, họ không ngần ngại áp dụng hệ thống độc tài để chống lại mối đe dọa liên tục mà họ phải đối mặt sau khi cầm quyền.

Mặc dù không chấp nhận các cường quốc công nghiệp thống trị đất nước của họ nhưng khi còn trẻ, cả bốn người đều tiếp thu những hiểu biết sâu sắc về các đế quốc phương Tây (trong trường hợp của Park là Nhật) và sẵn sàng tận dụng những gì họ học được từ các nước này để hiện đại hóa đất nước mình. Họ có thể tách riêng cuộc chiến chống lại đế quốc khỏi kiến thức và các cấu trúc của những đế quốc này, vốn là những yếu tố họ sẵn sàng áp dụng một cách toàn diện.

Cả bốn đều có sự am tường lịch sử, hiểu rõ về các cường quốc và cách thức mà các cường quốc đó ảnh hưởng đến an ninh và sự phát triển của các quốc gia yếu hơn. Các quốc gia phương Tây đã dựng nên các thể chế và trải qua hiện đại hóa trong một thời gian dài, nhưng những quốc gia công nghiệp hóa sau này, nhờ việc vay mượn công nghệ và thể chế do chính phủ lãnh đạo, đã có thể hiện đại hóa với một tốc độ nhanh hơn nhiều so với các quốc gia công nghiệp hóa ban đầu. Không một lãnh đạo nào trong số bốn người này là nhà kinh tế học hay doanh nhân, nhưng mỗi người đều sẵn sàng tìm kiếm lời khuyên và hợp tác với người khác, kể cả người nước ngoài, những người biết cách làm cho nền kinh tế vận động và phát triển.

Tất cả họ đều giỏi duy trì quyền lực. Thời gian tại nhiệm dài của họ có nghĩa rằng họ có thể củng cố công tác xây dựng thể chế mới và chứng kiến sự cất cánh kinh tế mà họ đã khởi động. Hai trong bốn người, Atatürk và Park, qua đời khi tại nhiệm, nhưng di sản và các thể chế họ đã xây dựng vẫn tiếp nối sau giai đoạn cầm quyền của họ. Thành công của cả bốn trong việc thiết lập trật tự và sau đó là phát triển kinh tế tạo cho họ đủ sự ủng hộ, công chúng có thể chịu đựng và trong một số trường hợp còn chào đón sự lãnh đạo độc tài của họ.

Bốn người đều đối mặt với cùng những câu hỏi căn bản: Làm cách nào họ có thể giành được và duy trì quyền lực chống lại các đối thủ tiềm năng? Làm cách nào để vượt qua sự chống đối của những lực lượng bảo thủ và những người cho rằng lợi ích của họ không được đảm bảo bởi sự hiện đại hóa nhanh chóng? Làm cách nào để hợp tác với những người ủng hộ chủ chốt và những người hậu thuẫn để tạo ra các chương trình hiệu quả thống nhất? Làm cách nào họ có thể thiết lập nền an ninh cho quốc gia và quan hệ hợp tác với nước ngoài, điều họ cần để góp phần đảm bảo nền an ninh đó và kêu gọi được viện trợ để phát triển kinh té?

Vì những chi tiết về nền tảng và sự cầm quyền của Park đã được phát triển trong những chương trước, nên ở đây tôi tập trung chủ yếu vào ba lãnh đạo còn lại để làm rõ nền tảng và cách tiếp cận của Park khác họ như thế nào.

Nền tảng giáo dục gốc gác địa phương và học tập ở nước ngoài

Atatürk, sinh năm 1881, lớn lên ở Salonica, một thành phố với truyền thống Hồi giáo đậm nét và cũng có số dân Do Thái lớn. Cảng biển và, sau năm 1988, đường sắt đã kết nối Salonica với Istanbul và các thành phố châu Âu. Gia đình của Atatürk đều nắm rõ kinh Koran và mẹ của ông cho rằng ông sẽ được nhận sự giáo dục tốt từ truyền thống Hồi giáo, nhưng cha ông, người đã chết khi Atatürk tám tuổi, là một công chức muốn con ông được giáo dục trong các chương trình hiện đại. Các thể chế giáo dục tinh hoa mới được áp dụng những năm 1880 và các thể chế quân sự nhận được sự ủng hộ của nhà nước cho việc nhập khẩu vũ khí hiện đại và hoạt động huấn luyện cần thiết để chiến đấu với các nước châu Âu tiên tiến. Người Đức giúp cung cấp cho người Thổ các chương trình đào tạo, vũ trang và thiết bị. Atatürk tham gia vào một trường dự bị, sau đó là trường trung học quân sự, nơi ông đứng nhì trong lớp. Ông tiếp tục học lên Cao đẳng Chiến tranh ở Istanbul, nơi ông tốt nghiệp thứ tám trong lớp 700 người, và sau đó là khóa ba năm của Cao đẳng Tham mưu, hoàn tất việc học năm 1902. Dù thân thuộc với văn hóa Hồi giáo truyền thống, nhưng ông, cũng như nhiều bạn học, tin rằng nền văn hóa này ngăn cản sự thích ứng của Thổ Nhĩ Kỳ với thế giới hiện đại. Ông tìm cách học tập từ châu Âu.

13 năm rèn luyện trong quân ngũ của Atatürk, kể cả chương trình đào tạo cao nhất mà Thổ Nhĩ Kỳ có thể cung cấp, đã giúp ông có nền tảng rất chắc chắn ở môn toán, và cực kỳ xuất sắc ở mảng khoa học và công nghệ. Ông cũng học văn học và lịch sử chính trị. Ông quyết định học thêm chương trình đào tạo tiếng Pháp để nói thông viết thạo, và sau đó thông qua tiếng Pháp, phát triển kiến thức rộng hơn về quá trình văn minh hóa phương Tây. Ông luôn bị tư tưởng chủ nghĩa tích cực và duy lý của phương Tây hấp dẫn. Ông giao lưu với những sinh viên cùng trang lứa tràn đầy lòng yêu nước và phi tôn giáo và đã phát triển niềm đam mê với chính trị từ tuổi 16, khi tham gia vào các cuộc biểu tình chống người Hy Lạp trong Chiến tranh Thổ Nhĩ Kỳ - Hy Lạp năm 1897.

Lý Quang Diệu, sinh năm 1923, lớn lên ở Singapore, một thành phố mang tinh thần Anh và Trung Quốc hơn hẳn phần còn lại của Malaya. Đa số thanh niên có nguồn gốc Trung Quốc ở Singapore đều học ở các trường dùng tiếng Trung, nhưng Lý thuộc về thiểu số quan trọng, nói chung từ những gia đình giàu có hơn, học ở các trường dùng tiếng Anh. Lý có một giai đoạn ngắn học ở trường Trung Quốc, nhưng ông nói tiếng Anh ở nhà và trải qua 6 năm ở một trường tiểu học dùng tiếng Anh. Khi ông và các bạn đồng trang lứa trải qua một kỳ thi để học lên vào năm tiểu học cuối cùng, ông đậu với điểm số cao nhất. Cùng với khoảng 150 sinh viên hàng đầu khác ở Singapore, Lý được nhận vào Viện Raffles, một trường trung học xuất sắc ở Singapore. Raffles có mô hình dựa trên các trường công ở Anh và nhiều giáo viên ở đây là người Anh. Nhiều học sinh tốt nghiệp đã đến học tại các trường đại học hàng đầu nước Anh. Như nhiều học sinh khác thời kỳ thực dân Anh, Lý học Văn chương Anh, Lịch sử Đế chế Anh, Toán, Địa lý, nhưng ông quyết định trở thành luật sư. Trong cuộc thi đầu vào Đại học Cambridge Cấp cao tổ chức ở Singapore, Lý đạt điểm cao nhất trên toàn Malaya. Năm 1940, vì chiến sự ở châu Au, Lý chọn cách ở lại Singapore và học Cao đẳng Raffles.

Ngay sau chiến tranh, Lý đến Anh để học tiếp. Ở Cambridge, ông tập trung vào Luật nhưng tiếp thu nền tảng về lịch sử và chính trị so sánh. Như nhiều sinh viên ở Anh từ thời thực dân, ông bị ảnh hưởng bởi Harold Laski và chương trình nghị sự xã hội chủ nghĩa của ông này, theo đó chính phủ gánh vác trách nhiệm giúp cung cấp nơi ở, việc làm, an sinh xã hội và chăm sóc y tế cho người dân. Tuy nhiên, khi vẫn còn ở Anh, Lý nhận ra rằng các chính phủ gánh vác trách nhiệm xã hội khi không có nền tảng kinh tế vững chắc sẽ gặp rắc rối.

Cambridge đào tạo xuất sắc kỹ năng viết, nói trước công chúng và lý luận. Lý quan tâm đặc biệt đến Đế chế Anh. Vào lúc đó, chủ nghĩa thực dân ở Nam và Đông Nam Á đã thất bại. Lý, như nhiều sinh viên khác thời thực dân, gánh vác vai trò chủ động trong các cuộc tranh luận về đấu tranh vì độc lập.

Ở Trung Quốc, phe cánh tả đánh giá đất nước của họ là “bán-thực dân”, tuy vậy Đặng, sinh năm 1904, lớn lên ở một làng phía tây nam, cách xa các vùng ven biển nơi thực dân tập trung. Khi lên 5 tuổi, ông bắt đầu đi học chương trình Khổng giáo kinh điển ở một trường tư, và 2 năm sau, ông học ở một trường tiểu học bình thường của nhà nước tại một thị trấn gần đó. Triều đại nhà Thanh sụp đổ không lâu trước khi ông bắt đầu đi học, và ngôi trường này đang thử nghiệm những nội dung giảng dạy mới bao gồm Toán, Khoa học và Kinh doanh cũng như Lịch sử và Văn học. Sau 4 năm ở trường, ông đã vượt qua một kỳ thi để học lên ở một trường tương đương trung học cơ sở, ở đó ông tốt nghiệp năm 14 tuổi. Cùng với 1% các bạn đồng lứa, ông vượt qua kỳ thi vào Trường Trung học huyện Quảng An, trường trung học duy nhất trong huyện gồm 200.000 dân của ông. Chỉ sau một năm ở trường này, cha của Đặng gửi ông đến một trường ở Trùng Khánh, trường này lúc đó đang chuẩn bị cho học sinh tham gia chương trình vừa làm vừa học ở Pháp. Tháng 7 năm 1920, sau một năm học tập, Đặng là người trẻ nhất vượt qua các kỳ thi viết và nói của lãnh sự quán Pháp. Một tháng sau khi tốt nghiệp, ở tuổi 16, Đặng và 82 sinh viên khác từ Tứ Xuyên lên tàu đến Pháp.

Trên đường đi, tàu dừng ở Thượng Hải, Hong Kong, Việt Nam, Singapore và Sri Lanka, nơi Đặng có cơ hội quan sát sự dã man, trịch thượng trong cách người da trắng ngược đãi người địa phương và doanh nhân địa phương ngược đãi công nhân. Sau đó, khi biết được những điều mà lực lượng Mác-xít nói về chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa tư bản, ông mới hiểu những gì đã thấy.

Đặng không có đủ tiền học ở Pháp, do đó trừ một vài tháng học ngôn ngữ và phong tục Pháp, ông không được theo học và phải chấp nhận làm việc ở một nhà máy với lương thấp cùng các điều kiện làm việc và sinh sống tồi tệ. Sự học của ông ở Pháp chủ yếu đến từ việc phân tích những điều ông thấy và trải nghiệm ở Paris, Lyons, cùng các thành phố khác, và ông nhận thấy giới tư bản giàu có đã bóc lột đến cùng cực sức lao động của các công nhân bị trả lương thấp. Không như Atatürk, Đặng không thông thạo tiếng Pháp.

Park Chung Hee, không như Đặng lớn lên trong một gia đình địa chủ hay như Lý và Atatürk sinh trưởng trong một gia đình trung lưu, ông xuất thân từ một gia đình nông dân làm thuê nghèo khó và từ khi còn nhỏ đã bị suy dinh dưỡng. Tuy nhiên, cũng như ba người kia, Park có gốc rễ từ xã hội truyền thống và cũng có thành tích xuất sắc ở các trường có chương trình đào tạo phương Tây hiện đại. Ông lớn lên ở tỉnh Bắc Gyeongsang nông nghiệp, gần đường sắt nối Busan với Seoul được người Nhật xây dựng. Ông là sinh viên đứng đầu ở Học viện Quân sự Mãn Châu trong nhà nước bù nhìn Mãn Châu Quốc của người Nhật, và khi là sinh viên, ông được đánh giá sẽ thăng tiến đến những vị trí quan trọng.

Khi Atatürk là thanh niên, các cường quốc nước ngoài xâm lược Thổ Nhĩ Kỳ, nhưng giáo dục nơi đây vẫn được quản lý bởi người Thổ. Còn vào thời niên thiếu của Đặng Tiểu Bình, các cường quốc đế quốc mon men ở bên ngoài Trung Quốc, nhưng cho đến khi ông đi Pháp, tất cả các giáo viên của ông đều là người Trung Quốc. Lý Quang Diệu lớn lên ở những trường bị thực dân Anh kiểm soát, nhưng khi là thanh niên, hoạt động chiếm đóng của Anh ít lan rộng và nhục mạ người dân hơn nhiều so với sự hiện diện của người Nhật ở Hàn Quốc, thể hiện qua việc người Hàn chỉ được phép nói tiếng Nhật ở lớp học, đặt theo tên Nhật và biết rằng bất kỳ biểu hiện trung thành nào với Hàn Quốc sẽ bị trừng trị dã man.

Dù hoàn toàn bị đồng hóa văn hóa bởi nước chiếm đóng khi học ở các ngôi trường do người Nhật điều hành, nhưng Park vẫn cảm nhận được nỗi nhục quốc gia khi không thể ngẩng cao đầu như một người Hàn ở chính đất nước mình. Ông đã thấm nhuần sự tôn trọng quyền lực theo Khổng giáo từ lúc đi học ngày nhỏ đến suốt đời, ông hướng đến xây dựng một nhà nước theo tinh thần Khổng giáo hiện đại mà ở đó giới cầm quyền được tôn trọng. Ông cực kỳ ngưỡng mộ quá trình hiện đại hóa công nghiệp mà nước Nhật đã làm được thông qua Tái thiết Minh Trị. Trong thời kỳ phục vụ ở quân đội Mãn Châu do người Nhật chỉ huy, ông là một người Hàn bị kiểm soát, cho đến năm ông 28 tuổi, Nhật Bản bị đánh bại và ông cũng rời khỏi quân đội Nhật từ đó. Vì sự gắn bó sâu sắc với các lực lượng Nhật Bản, nên Park, cũng như nhiều người Hàn cùng thế hệ ông, gặp phải nhiều khó khăn hơn trong việc xác định bản sắc dân tộc so với Atatürk, Lý hoặc Đặng. Dù sau này nhận được sự giúp đỡ to lớn từ Hoa Kỳ về quân sự và kinh tế, nhưng Park vẫn không hào hứng với phương Tây so với Nhật Bản. Ông bắt đầu hợp tác với quân đội Mỹ sau năm 1945, và có liên lạc trực tiếp với người Mỹ nhiều hơn Atatürk, Lý hay Đặng. Tuy nhiên vì anh trai ông, người bị bắn bởi phe cánh hữu trong cuộc nổi dậy Daegu năm 1946, có tham gia vào các hoạt động của phe cánh tả, nên Park bị tình nghi là có khuynh hướng cộng sản và bị quân đội Mỹ xa lánh.

Tuổi trẻ: Chống chủ nghĩa thực dân và tách khỏi cường quốc thực dân

Tuổi thơ của bốn vị lãnh đạo này diễn ra khi chủ nghĩa thực dân trên toàn thế giới phát triển mạnh, nhưng họ cũng lên nắm quyền sau khi sức mạnh của chủ nghĩa này đạt đến đỉnh điểm. Những đòn tấn công vào các cường quốc thực dân mạnh dần cùng với sự nổi lên của chủ nghĩa dân tộc và sự thèm khát độc lập của các quốc gia mang lại cho bốn người hy vọng rằng xu thế lịch sử đang đứng về phía họ. Trung Quốc chưa bao giờ bị thực dân hóa hoàn toàn, nhưng người nước ngoài đã chiếm đóng dọc bờ biển. Thổ Nhĩ Kỳ bị thực dân hóa chỉ vài năm ngay sau Thế chiến I, nhưng những thương nhân nước ngoài đã thống trị nền kinh tế từ trước đó. Mặc dù Atatürk và Đặng không sống trong vùng thực dân, nhưng họ đều có chung khát khao như Lý và Park chống lại sự thống trị từ bên ngoài. Cả bốn người đều một lòng mong muốn thành lập chính phủ phục vụ lợi ích của nhân dân họ thay vì các cường quốc bên ngoài. Tất cả đều có niềm tin rằng họ hiểu và phục vụ cho nhu cầu của đất nước họ tốt hơn các cường quốc bên ngoài và, vì những nhu cầu đó, có thể cai trị hiệu quả hơn so với người ngoài. Họ không tin tầm nhìn Mỹ của các nền dân chủ phong cách phương Tây phù hợp cho nước của họ, ít nhất vào thời của họ.

Ở tuổi thanh niên, mối quan hệ cá nhân của họ với những cá nhân thực dân trở nên phức tạp. Tất cả đều được chọn để thăng tiến bởi các đại diện của các cường quốc đế quốc, người cho họ cơ hội vì tài năng của họ đã được công nhận qua các cuộc thi. Tất cả họ đều kết bạn với những cá nhân theo chủ nghĩa đế quốc. Tuy nhiên, những gì họ được chứng kiến về tình trạng bất công và khốn khổ mà đồng bào họ phải gánh chịu dưới tay thực dân biến họ thành những nhà dân tộc chủ nghĩa đầy nhiệt huyết. Họ bắt đầu cống hiến cả đời mình cho nỗ lực xây dựng một quốc gia độc lập vững mạnh.

Điều trớ trêu là, bản thân Atatürk, người chiến đấu chống chủ nghĩa đế quốc châu Âu, lại xuất thân từ một đế quốc trước đó, Đế chế Ottoman, tồn tại ở thế kỷ XVI và là một trong những siêu cường trên thế giới. Tuy nhiên Đế chế Ottoman bắt đầu sụp đổ từ rất lâu trước khi các đế quốc châu Âu, với quá trình công nghiệp hóa, có thể mở rộng sự sống và phạm vi của chủ nghĩa đế quốc. Từ cuối thế kỷ XIX đến Thế chiến I, Đế chế Ottoman liên tục phải chịu sức ép khi các vùng đất trong đế chế đòi hỏi quyền tự chủ cao hơn và các cường quốc châu Âu mở rộng tầm ảnh hưởng đến những phần còn lại của đế chế này.

Thổ Nhĩ Kỳ, phần cốt lõi còn lại của Đế chế Ottoman già nua, đã phòng thủ thành công trước người Hy Lạp trong cuộc chiến 30 ngày năm 1897, nhưng chỉ trước Thế chiến I, nước này lại mất đi hầu hết phần lãnh thổ Balkan và Bắc Phi. Nỗ lực tự bảo vệ của Atatürk chống lại các cường quốc châu Âu hùng mạnh hơn bằng cách hiện đại hóa quân đội mà không có nền tảng công nghiệp vững mạnh gây căng thẳng cho nguồn lực tài chính, buộc nước này phải vay nợ các nước châu Âu, chủ yếu là người Đức. Hoạt động đầu tư của Thổ Nhĩ Kỹ vào quân đội không đủ để ngăn chặn làn sóng của các cường quốc châu Âu, và Thổ Nhĩ Kỳ bắt đầu được cho là “con bệnh của châu Âu”.

Atatürk, vào đầu những năm 20 tuổi, đã ý thức được rằng Thổ Nhĩ Kỳ sẽ không bao giờ giành lại được quyền kiểm soát vùng Balkan hoặc các vùng lãnh thó Bắc Phi, và tin rằng Thổ Nhĩ Kỳ cần phải bảo vệ cơ sở lãnh thổ cốt lõi, từ đó xây nên một quốc gia hiện đại vững mạnh. Năm 1908, nhóm Thanh niên Thổ cướp quyền từ Quốc vương Abdul Hamid Đệ nhị và nắm quyền lãnh đạo Thổ Nhĩ Kỳ. Tuy vậy Atatürk, người không được các lãnh đạo Thanh niên Thổ trao cho vị trí quan trọng, nhận ra rằng lực lượng nắm quyền lực mới này chỉ đơn giản là thay thế một nhóm lãnh đạo bằng một nhóm khác mà không tiến hành những thay đổi thể chế cần thiết để làm cho đất nước vững mạnh. Atatürk bị sốc và mất tinh thần khi ông biết rằng các lãnh đạo Thanh niên Thổ, vì quá mong muốn có được cảm tình của những nước chiến thắng trong Thế chiến I, đã liên minh với Đức. Khi ván bài thất bại, Thổ Nhĩ Kỳ phải đối mặt với các cường quốc phe Đồng minh diều hâu ở châu Âu đưa quân chiếm đóng đến.

Lý Quang Diệu, trước khi đến Anh học tập, đã được hưởng những lợi ích dành cho thanh niên tài năng ở Singapore, và không phải là một người chống chủ nghĩa thực dân quyết liệt. Ông của Lý là người ủng hộ nước Anh và Lý học ở các trường nói tiếng Anh trong khi khoảng 90% trẻ em trong cộng đồng dân tộc Hoa ở Singapore học ở các trường nói tiếng Hoa. Lý sau này viết rằng đầu tiên ông đã đặt câu hỏi rằng nước Anh có khả năng cai trị Singapore vì quyền lợi của người dân địa phương không khi người Nhật chiếm Singapore năm 1942. Cuộc càn quét các nước thực dân phương Tây ở Đông Nam Á của Nhật Bản đã phá hủy huyền thoại rằng các cường quốc phương Tây là bất khả xâm phạm. Những nghi ngờ của Lý về chủ nghĩa thực dân lớn hơn khi ông ở Anh, vì ông có thể thấy rằng giới quý tộc Anh mà ông gặp quan tâm nhiều đến việc thúc đẩy các lợi ích tài chính riêng của họ ở các nước thực dân hơn là tạo ra lợi ích cho người dân địa phương. Ông thấy người Anh không thuê mướn hoặc cho những người không phải là người da trắng vào các đội thể thao.

Tinh thần chống chủ nghĩa thực dân của Lý tăng mạnh hơn sau khi ông trở lại Singapore từ Anh năm 1950. Ông ngày càng khó chịu hơn với sự tập trung quyền lực vào tay các quan chức Anh. Ông bỏ chữ “Harry” trong tên được đặt cho ông, “Harry Lý Quang Diệu” theo thủ tục pháp lý, và sau đó sử dụng tên “Lý Quang Diệu”. Là luật sư, ông đấu tranh cho những khách hàng chịu bất lợi bởi sự cai trị của người Anh. Trải nghiệm bảo vệ những bưu tá và các thành viên công đoàn khác cũng như giới sinh viên đã củng cố niềm tin rằng các lãnh đạo chính phủ không hành xử công bằng với người dân địa phương, rằng chính quyền dễ bị tấn công bởi những cuộc biểu tình hợp pháp được tổ chức tốt, và rằng bằng cách đưa ra những tư vấn pháp lý, thảo ra những tuyên bố của công chúng với lời lẽ chăm chút, tham gia vào các nhóm chính trị, ông có thể đóng góp vào sự độc lập của Singapore. Tháng 11 năm 1954, ông cùng những người khác thành lập Đảng Hành động Chính trị để cho thấy sự sâu mọt của chế độ thực dân và tập hợp sự ủng hộ của quần chúng để kết thúc chế độ đó.

Đặng và những người đồng hương Trung Quốc cùng đến Pháp có sự tự tin bắt nguồn từ việc được chọn như một nhóm tinh hoa trẻ đẩy hứa hẹn, tuy nhiên ở Pháp họ lại là những công nhân cực kỳ bần hàn và bị phân biệt đối xử. Họ bắt đầu tổ chức các nhóm học tập, ở đó các sinh viên nghiên cứu về Cách mạng Nga vốn đã diễn ra ba năm trước khi Đặng đến Pháp và về những bài viết của Mác và Lê-nin.

Một năm trước khi Đặng đến Pháp, ông là một cậu bé 15 tuổi tham gia vào các cuộc biểu tình yêu nước bùng phát ngày 4 tháng 5 năm 1919 ở Trung Quốc. Đối với Đặng và các đồng chí của ông ở Pháp, giới tư bản bóc lột giàu có cùng giới địa chủ ở Trung Quốc không có khả năng thiết lập trật tự ở nước họ và chăm nom cho lợi ích của dân thường. Cũng như Atatürk, Đặng đến từ một nền văn minh cổ đã tan rã và giới lãnh đạo không thể bảo vệ đất nước. Một cuộc cách mạng giống với Cách mạng Nga đối với Đặng và những người khác có vẻ như là cách duy nhất để xây dựng một Trung Quốc vững mạnh, có thể cải thiện cuộc sống của người dân thường. Tháng 6 năm 1922, chỉ một năm sau khi Đảng Cộng sản được thành lập ở Trung Quốc, Chu Ân Lai cùng những người khác ở Pháp góp sức thành lập một tổ chức cộng sản cho thanh niên ở châu Âu. Đặng Tiểu Bình tham gia vào Đoàn Thanh niên do chủ nghĩa cộng sản lãnh đạo vào năm đó, và tháng 6 năm 1923 ông đến Paris để trở thành công nhân chuyên nghiệp. Ông làm việc bán thời gian ở nhà máy để kiếm tiền sinh sống. Tháng 7 năm 1924, một tháng trước sinh nhật lần thứ 20 của ông, Đặng tham gia Đảng Cộng sản.

Đầu năm 1925, sau khi Đặng cùng những sinh viên Trung Quốc khác biểu tình chống lại sự hợp tác của chính phủ Pháp với chính phủ Trung Quốc, cảnh sát Pháp bắt đầu truy lùng ông. Đặng trốn thoát đến Mát-xcơ-va và học một năm ở Đại học Sun Yat-Sen mới được thành lập ở thành phố này để đào tạo công nhân cho Quốc tế Cộng sản. Đặng học tập các quan điểm xô-viết về kinh tế, lịch sử thế giới hiện đại, lý thuyết và thực tiễn Cách mạng Nga, tính dân tộc và chủ nghĩa thực dân cùng với quá trình phát triển xã hội ở Trung Quốc. Ông cũng tham gia vào các hoạt động đào tạo quân sự.

Mặc dù các trải nghiệm ở Pháp và Mát-xcơ-va đã cực đoan hóa Đặng, nhưng ông vẫn cảm thấy Trung Quốc có thể học được rất nhiều từ các nước phương Tây. Đặng cùng những người trở thành đảng viên cộng sản ở Pháp sau này sẽ trở thành những lãnh đạo có tinh thần quốc tế hơn trong giới lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc. Sau khi trở về Trung Quốc, một số chết trong cuộc đấu tranh văn hóa, còn một số gồm Chu Ân Lai, Lý Phú Xuân hay Đặng đã trở thành những lãnh đạo cách mạng và, sau năm 1949, là những quan chức quan trọng.

Park Chung Hee là một trong số ít những người Hàn Quốc tài năng được nhận vào Học viện Quân sự Mãn Châu và sau này trải qua hai năm trong Học viện Quân sự Nhật Bản ở Zama. Cũng như những thanh niên Hàn Quốc khác trong quân đội Mãn Châu (Mãn Châu Quốc), Park phục vụ quân ngũ trong suốt Thế chiến II. Là một sĩ quan trong quân đội Nhật, Park phải hỗ trợ kiểm soát người Hàn Quốc, nhưng ông và những đồng đội Hàn Quốc trong quân đội Mãn Châu đều ý thức được rằng họ không có đặc quyền và cơ hội đầy đủ như những người Nhật với năng lực tương đương. Tuy nhiên, mô hình những người Nhật yêu nước cống hiến trong quân đội Nhật Bản khi phục vụ Nhật hoàng của họ được Park mang theo đến sau này khi ông tìm cách xây dựng một Hàn Quốc vững mạnh.

Năm 1964, Park trở thành sinh viên khóa 2 của Học viện Quân sự Hàn Quốc. Trong giai đoạn ngay sau Thế chiến II, trước ranh giới rõ rệt của chiến tranh lạnh được vạch ra, ông hợp tác với phe cộng sản. Vì việc đó ông đã bị xử tử hình, rồi được cứu bởi những cấp trên vốn biết rõ ông, Tuy nhiên, trước khi Chiến tranh Triều Tiên nổ ra, ông tham gia vào phe chống cộng sản. Trong chiến tranh, ông là một quan chức tình báo quân đội và được xem là một sĩ quan trẻ xuất sắc. Tuy nhiên cũng như người lính khác cùng tuổi từng phục vụ trong quân đội Mãn Châu Quốc, Park thiếu những thành tích yêu nước rõ ràng như ba vị lãnh đạo còn lại được xem xét trong chương này, những người chiến đấu vì sự độc lập cho đất nước của họ, và cũng thiếu thành tích so với những người Hàn Quốc đủ trẻ để thoát khỏi quân đội Nhật Bản. Nhiều người Hàn Quốc bị tổn thương trong thời chủ nghĩa thực dân Nhật Bản thấy khó có thể trao cho Park và thế hệ của ông, những người đã hợp tác với Nhật, sự tôn trọng toàn vẹn như với những người có quá khứ yêu nước trong sáng hơn.

Nổi lên nắm quyền

Từ rất lâu trước khi lên năm quyền, cả bốn vị lãnh đạo đều đắn đo về con đường xây dựng lại đất nước. Họ có đủ niềm tin vào khả năng của chính mình rằng họ sẽ sẵn sàng ở một thời điểm thích hợp để có thể loại bỏ những người cấp trên vốn mang những quan điểm khác. Được rèn giũa qua xung đột, họ không giấu giếm sự đối đầu của mình nhưng đủ sắc sảo để không tham gia vào các cuộc đấu tranh mà không có mục đích hoặc không có khả năng thành công. Họ tham vọng, không chần chừ chớp lấy những vị trí lãnh đạo, nhưng quyền lực được sử dụng cho mục đích xây dựng đất nước vững mạnh, củng cố biên giới và làm giàu cho nhân dân.

Atatürk trở nên nổi tiếng thông qua chủ nghĩa anh hùng cùng những thành công trong vai trò lãnh đạo quân đội của ông. Năm 1915, ông nổi lên như là một trong những chỉ huy tiền tuyến xuất sắc nhất trong hoạt động phòng thủ bán đảo Gallipoli, nơi ông có vai trò quan trọng trong việc ngăn chặn quân Pháp và Anh xâm chiếm bán đảo này và hành quân đến Istanbul. Ở giai đoạn đỉnh điểm của cuộc chiến, dù còn sốt, nhưng ông vẫn anh dũng lãnh đạo quân sĩ trong bốn ngày gần như không ngủ để ngăn địch tiến công. Năm 1917-1918 ở mặt trận Caucasus, Atatürk một lần nữa vang danh khi chỉ huy quân lính của mình trong trận đánh, trở thành một anh hùng dân tộc. Thông qua nghiên cứu tỉ mỉ chiến lược của địch, ông đã thành công một cách đáng kinh ngạc khi dự đoán được động thái của đối phương. Trong hoàn cảnh thiếu thốn, nếu thượng cấp yêu cầu ông di chuyển theo những cách khác với phân tích của ông, ông sẽ bất tuân lệnh và nhờ đó có thể đánh bại kẻ thù. Sức mạnh và lòng quyết tâm của ông góp phần khơi dậy tinh thần binh lính, những người sẵn sàng tham gia vào các trận chiến nơi địa hình hiểm trở kể cả khi đối mặt với cái chết gần như chắc chắn, lúc không còn đủ đạn dược và quân trang.

Sau khi thua cuộc trong Thế chiến I, các lãnh đạo cấp cao của CUP bị mất uy tín vì đã liên minh với Đức và vì chấp nhận ký vào hiệp ước ô nhục chia cắt Thổ Nhĩ Kỳ cho những nước chiến thắng. Atatürk không có cấp bậc đủ cao trong CUP để tham gia vào quyết định liên minh với Đức, và ông tin ngay từ đầu rằng đó là một sai lầm. Sau khi người Đức thua, ông cực kỳ lo lắng rằng các lãnh đạo CUP và Quốc vương Thổ Nhĩ Kỳ muốn chấp thuận các điều kiện bị chi phối bởi các nước Đồng minh chiến thắng.

Vốn quan tâm đến các vấn đề chính trị từ lâu, năm 1919, Atatürk, như là một anh hùng quân đội được đánh giá cao, cắt đứt quan hệ với Quốc vương Thổ theo chủ nghĩa đầu hàng và nổi lên như là lãnh đạo của các sĩ quan quân đội cấp cao quyết tâm duy trì nước Thổ độc lập. Trước khi tiến hành động thái đầy dũng cảm là cắt đứt với Quốc vương, Atatürk đã bí mật tuyển các tư lệnh quân đội cho mục đích của mình mà không thông báo trước về việc ông sẽ tách khỏi Quốc vương. Tận dụng cơn phẫn nộ của người dân về động thái chiếm đóng của quân Đồng minh, về những sự kiện như việc quân đội Hy Lạp sát hại hàng trăm người Thổ ở Smyrna, và về các kế hoạch thống trị Istanbul của các cường quốc Đồng minh, ông giành được sự ủng hộ của quần chúng cho mục đích đánh đuổi ngoại xâm của mình. Năm 1919 sau khi phát đi Tuyên ngôn Độc lập, ông thành lập Đại hội Dân tộc chủ nghĩa của chính mình, và tháng 4 năm 1920 kêu gọi nghị viện lâm thời là Đại Nghị viện Quốc gia, bác bỏ yêu cầu của các nước thắng cuộc và chiến đấu vì độc lập dân tộc. Các chỉ huy quân đội, quân lính và dân thường tập hợp lại xung quanh lời kêu gọi của ông.

Khi quân đội khổng lồ của người Hy Lạp, được ủng hộ bởi binh lính Anh, Ý và Pháp tiến vào Thổ Nhĩ Kỳ, Atatürk đã lãnh đạo quân đội nước ông kháng cự. Với Atatürk là tổng tư lệnh quân đội, phe Thổ Nhĩ Kỳ chiến đấu anh dũng, đánh đuổi người Hy Lạp và tấn công các đội quân xâm lược của Ý, Anh và Pháp cho đến khi các nước này quyết định không đáng để sống chết tiếp tục cuộc xâm lược. Quân lính dưới quyền Atatürk cũng mạnh mẽ đẩy người Mỹ ra khỏi các vùng lãnh thổ từng thuộc về Thổ Nhĩ Kỳ rồi tái thiết lập biên giới ban đầu. Chính quyền độc lập của Atatürk trở thành chính quyền của Thổ Nhĩ Kỳ.

Với sự ủng hộ lan rộng của quần chúng dành cho nền độc lập của Thổ Nhĩ Kỳ, năm 1922, Atatürk đã xóa bỏ ngôi vị Quốc vương. Ông tính toán rằng nếu cố gắng loại bỏ đồng thời cả Hồi vương [217] sẽ làm dấy lên quá nhiều sự phản đối, do đó ông sử dụng những ủng hộ viên tôn giáo trong cuộc đấu tranh chống lại Quốc vương Thổ và chờ đợi một vài năm trước khi đấu với Hồi vương và các quan chức tôn giáo.

Ngày 20 tháng 11 năm 1922, Thổ Nhĩ Kỳ và các cường quốc Đồng minh bắt đầu đàm phán một hiệp ước hòa bình ở Lausanne. Atatürk gửi đi nguyên tổng tham mưu trưởng của ông, Ismet Pasha, một nhà đàm phán tài năng và cứng rắn. Không như Trung Quốc, nơi các lãnh đạo quyết tâm đòi lại vùng lãnh thổ nước này từng sở hữu vào thời kỳ hoàng kim, bao gồm Tây Tạng, Đài Loan và các đảo dọc bờ biển, Atatürk chấp nhận thực tế rằng Thổ Nhĩ Kỳ không còn khả năng duy trì tất cả lãnh thổ của Đế chế Ottoman xưa như các vùng lãnh thổ Balkan và Bắc Phi. Tuy nhiên, Atatürk nhấn mạnh rằng Thổ Nhĩ Kỳ cần có Istanbul, Thrace và các vùng khác mà phe Đồng minh từng có ý định chiếm đóng ngay sau chiến thắng ở Thế chiến I. Bằng sự kiên trì trong các cuộc thảo luận Lausanne, Thổ Nhĩ Kỳ đạt được một hiệp ước có lợi, ký ngày 24 tháng 7 năm 1923, và đầu tháng 10 quân Đồng minh rời Constantinople. Thành công này cho phép Thổ Nhĩ Kỳ trở thành nước đầu tiên trong các cường quốc Liên minh Trung tâm [218] bại trận ký hiệp ước với các cường quốc Đồng minh và trở thành một quốc gia độc lập. Vài tháng sau, ngày 29 tháng 10 năm 1923, Atatürk, với sự ủng hộ rộng khắp của quần chúng, tuyên bố thành lập Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ với chính ông là tổng thống.

Lý Quang Diệu vươn đến quyền lực từ một loạt những cuộc tranh cử và bầu cử chính trị bắt đầu bằng việc thành lập Đảng Hành động Chính trị (PAP) năm 1954. Năm 1959, khi ông được bầu làm thủ tướng đầu tiên, Singapore là một phần thuộc địa của Anh, tách rời khỏi phần còn lại của Malaya bởi một đường đê. Năm 1963, khi Malaysia giành được độc lập từ Anh, Singapore trở thành một phần của Malaysia độc lập. Khi Malaysia thu nhận Singapore, tình hình dân số phân chia đồng đều giữa người Mã Lai và người dân tộc Hoa. Tuy nhiên năm 1965 các lãnh đạo người Mã Lai, sợ rằng người dân tộc Hoa chiếm 75% dân số Singapore có thể hợp tác với các nhóm dân tộc Hoa thiểu số ở nơi khác tại Malaysia để lấn át người Mã Lai, nên đã trục xuất người Singapore và tạo cho người Mã Lai tỉ lệ đa số rõ rệt. Thất vọng cay đắng bởi sự trục xuất này, Lý và những đồng minh bắt đầu xây dựng Singapore như một nước độc lập.

Khi quan sát thấy xu thế lịch sử chống lại chủ nghĩa đế quốc, Lý đã lạc quan cho rằng nước Anh sẽ nhận ra mình không thể tiếp tục cai trị Singapore mãi mãi và rằng ông có thể đàm phán các điều kiện chuyển giao quyền lực với những quan chức người Anh khôn ngoan và văn minh biết chấp nhận những điều tất yếu. Đánh giá của ông tỏ ra chính xác.

Ở Singapore, không như ba quốc gia kia, Lý và các đồng minh của ông có thể thỏa thuận với người Anh thông qua các cuộc đàm phán và có được quyền lực thông qua các công cụ hợp pháp, kể cả bầu cử. Khi các lãnh đạo thành lập PAP năm 1954, họ biết mình chưa có những cuộc bỏ phiếu để thắng cử. Thay vì vậy Lý và nhóm của ông nhìn dài hạn hơn, mục tiêu là chỉ ra sự mục ruỗng của hệ thống hiện tại trong khi xây dựng sự ủng hộ của quần chúng nhằm chuẩn bị cho cuộc bầu cử sau đó, cuối cùng cũng được tổ chức vào năm 1959. Các lãnh đạo PAP nhận ra rằng để thắng cử, họ phải thu hút được 75% dân số dân tộc Hoa mà nhiều người trong số này có cảm tình cộng sản. Vì Đảng Cộng sản mạnh và được tổ chức tốt, nên các lãnh đạo PAP quyết định rằng họ sẽ cần sự ủng hộ của chủ nghĩa cộng sản nếu muốn thắng các cuộc bầu cử. Năm 1959, trong khi Singapore vẫn còn thuộc quyền cai trị của Anh, Lý Quang Diệu tìm kiếm và nhận được sự giúp đỡ của phe cộng sản trong lần bầu cử thủ tướng Singapore đầu tiên của ông. Tuy nhiên, đến cuộc bầu cử tháng 9 năm 1963, sau khi đã xây dựng được sự ủng hộ chắc chắn hơn, Lý đã tách khỏi phe cộng sản và PAP của ông vẫn tạo được chiến thắng cách biệt.

Tháng 12 năm 1978 khi các lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc chọn Đặng, lúc bấy giờ đã 73 tuổi, làm lãnh đạo tối cao, đảng này khó tưởng tượng được ông đã sẵn sàng cho vị trí này đến mức nào. Ông từng làm lãnh đạo trong quân đội 12 năm, kể cả làm bí thư mặt trận cho khoảng 500.000 quân ở một chiến dịch trọng điểm trong cuộc nội chiến ở Hoài Hải. Ông từng là quan chức cấp cao ở Tây Nam Trung Quốc, là bí thư thứ nhất của đảng từ năm 1949-1952, với trách nhiệm tổng thể là thiết lập trật tự ở vùng 100 triệu dân. Ông từng là Bộ trưởng Tài chính năm 1953-1954, từng đảm nhận vai trò chủ chốt trong cuộc tranh cãi với Liên Xô đầu những năm 1960, và từng đại diện cho Trung Quốc khi xuất hiện lần đầu như một lãnh đạo Trung Quốc cấp cao ở Liên Hợp Quốc. Trong nhiều năm, ông đã cùng Mao và Chu Ân Lai đón tiếp các lãnh đạo nước ngoài và sau khi Chu yếu đi năm 1973, ông là người lãnh đạo chủ chốt trong những cuộc gặp gỡ những người nước ngoài đến thăm nước ông. Ông là Tổng bí thư Đảng Cộng sản giai đoạn 1956-1966, phụ trách các hoạt động tuyến đầu của Đảng, bao gồm tất cả các mảng hoạt động chính trị và kinh tế trên toàn đất nước. Ông là học trò yêu quý của Mao từ năm 1931, nhưng sau năm 1949, kinh nghiệm của ông không phát triển ở mảng xây dựng cách mạng mà ở hoạt động xây dựng Đảng và đất nước. Ông đã tự chứng tỏ mình là một nhà chiến lược, một người truyền đạt chính sách Đảng và là một lãnh đạo có thể có được sự tôn trọng và khả năng gắn kết mọi người làm việc với nhau.

Trong những năm cuối đời mình, Mao tin rằng suy nghĩ của Đặng khác với của ông và chọn Hoa Quốc Phong làm người kế nhiệm mình. Nhưng vào các cuộc biểu tình Thiên An Môn ngày 5 tháng 4 năm 1976, công chúng bày tỏ rõ ràng rằng họ không chỉ đang thương xót cho cái chết của Chu Ân Lai mà còn ủng hộ Đặng, nhà lãnh đạo tuyệt vời trong thời gian ông đảm nhận quyền thủ tướng năm 1975. Quyết định đưa Đặng lên vị trí cao nhất vào tháng 12 năm 1978 được thực hiện bởi một nhóm nhỏ các quan chức cấp cao của Đảng, và quyết định của họ dựa trên sự tường tận về khả năng và kinh nghiệm của Đặng, niềm tin của họ rằng ông hiểu rõ các vấn đề của Trung Quốc, và sự tin tưởng của họ về việc ông sẽ sử dụng quyền lãnh đạo đầy uy lực để tạo ra thay đổi chính sách cơ bản. Hoa Quốc Phong chỉ là một bí thư tỉnh ủy của Đảng, ít có kinh nghiệm trong nhóm chính sách ở Bắc Kinh và không có kinh nghiệm đối ngoại. Ông hoàn toàn chịu ơn Mao và đã tuyên bố quyết tâm sẽ trung thành với tất cả các chỉ thị của Mao. Các lãnh đạo hàng đầu của Đảng, quá thất vọng về những sai lầm của Mao ở phong trào Đại Nhảy vọt và Cách mạng Văn hóa, tin rằng việc tiếp tục các chỉ thị của Mao sẽ là tai họa khi đất nước đang cần sự thay đổi căn bản, nên đã trao gậy cho Đặng. Không phải là người kế nhiệm được Mao chọn, Đặng có không gian riêng để tách mình khỏi các chính sách của Mao.

Park, không như ba lãnh đạo kia, không xây dựng được sự ủng hộ rộng rãi của công chúng trước khi nắm quyền. Ông cũng thiếu kinh nghiệm tiếp xúc với nhiều nhóm và quần chúng để giành được sự ủng hộ của họ. Ông lên nắm quyền bằng cách xây dựng sự ủng hộ trong nhóm nhỏ các sĩ quan quân đội, xây dựng một âm mưu bí mật và tổ chức đảo chính. Vài tuần sau cuộc đảo chính, khi Park nổi lên như một vị lãnh đạo tối cao, ông không được công chúng mến mộ. Về bản chất, ông không giao thiệp nhiều và nắm quyền khi chưa phát triển các kỹ năng thuyết phục công chúng ủng hộ mình và kế hoạch của mình.

Atatürk có được sự chính danh để cai trị vì chủ nghĩa anh hùng quân sự và sự cống hiến cho đất nước của ông vốn đã được chứng minh. Lý có sự chính danh nhờ bầu cử. Đặng có sự chính danh nhờ thời gian phục vụ lâu dài và cống hiến ở các vị trí cấp cao và một nhóm nhỏ các lãnh đạo cấp cao của Đảng chọn ông. Park không có sự chính danh nào ngoài quyền lực thô. Bất kì công chúng có phản kháng thế nào đối với chế độ độc tài và đối với một số quyết định giới lãnh đạo đưa ra, thì khả năng thống nhất đất nước, khả năng đảm bảo an ninh trước thế giới bên ngoài và khả năng duy trì ổn định của các lãnh đạo này cũng đã góp phần tạo ra sự chấp thuận đối với chế độ cai trị của họ, mà sau đó sẽ được củng cố hơn nhờ những lợi ích từ tăng trưởng kinh tế.

Cách tiếp cận chế độ cai trị: chính trị và an ninh

Cả bốn người đều nắm vững cách thức giành và giữ được quyền lực. Họ thấu hiểu quyền lực theo bản năng và nhạy cảm trước các mối đe dọa quyền lực. Tuy nhiên đối với họ, quyền lực cần được theo đuổi không phải vì bản thân quyền lực, mà như là một phương tiện để giành được điều gì đó lớn lao hơn. Họ có chung các mục tiêu: bảo vệ nền độc lập của quê hương trước những cuộc tấn công, làm giàu cho người dân, xây dựng quốc gia vững mạnh và có được sự tôn trọng từ những nước khác. “Sự vĩ đại,” Atatürk từng nói, “cốt lõi là ở việc quyết định điều gì là cần thiết đối với phúc lợi của đất nước và tiến thẳng đến mục tiêu đó.” Ba người còn lại chắc hẳn cũng không phản đối nhận định này.

Không vấn đề nào căn bản hơn việc bảo vệ biên giới quốc gia khỏi những mối đe dọa từ bên ngoài và đối với cả bốn, điều này là cực kỳ quan trọng. Atatürk lo ngại về sự xâm lược của người Anh, người Pháp, người Hy Lạp và người Nga. Lý lo ngại về phe cộng sản ở Singapore cùng các khu vực lân cận và về những láng giềng hung hăng của ông, Indonesia và Malaysia. Khi Đặng nắm quyền năm 1978, ông ý thức được rằng Việt Nam và các nước Xô-viết vừa ký một hiệp ước mới có những kế hoạch để kiểm soát Đông Nam Á và chống lại Trung Quốc. Chỉ mới 9 năm sau cuộc đụng độ biên giới Trung-Xô, và các nước Xô-viết vẫn còn khoảng một triệu quân đóng quanh đó. Việt Nam, tự tin sau khi đánh bại Hoa Kỳ ba năm trước đó, đã sẵn sàng hợp tác với Xô-viết chống lại Trung Quốc.

Khi Park vươn lên nắm quyền, ông ý thức được rằng cam kết của Mỹ ở Hàn Quốc không thể được nhận không. Để giữ lại sự ủng hộ của Mỹ, ông gửi rất nhiều quân lính tốt nhất của mình đến chiến đấu ở Việt Nam. Khi các quan chức Mỹ giữ lập trường cứng rắn về các vấn đề như nhân quyền, ông không thể tránh né những quan điểm đó. Đồng thời, đặc biệt sau khi Jimmy Carter trở thành tổng thống, Park cũng phải có những kế hoạch dự phòng trong trường hợp quân Mỹ rút đi.

Từ quan sát của ông ở Mãn Châu, nơi người Nhật xây dựng một cơ sở công nghiệp nhằm phục vụ cho các nhu cầu quân sự, và từ phân tích về cách thức Hoa Kỳ đánh bại Nhật Bản, Park tin rằng cơ sở công nghiệp của một quốc gia có vai trò quan trọng quyết định kết quả của cuộc chiến. Ông biết rằng trong những năm 1960 và đầu những năm 1970 Triều Tiên có cơ sở công nghiệp mạnh hơn Hàn Quốc vì sự tập trung công nghiệp của người Nhật nằm ở Triều Tiên suốt thời Nhật chiếm đóng và vì sự hỗ trợ công nghiệp mạnh mẽ hơn từ Liên Xô và Trung Quốc.

Ông cũng ý thức được việc Triều Tiên quyết tâm sâu sắc đến mức nào trong nhiệm vụ thống nhất bán đảo theo các điều kiện của nước này, Triều Tiên sẵn sàng liều lĩnh đến mức nào, và Triều Tiên sẵn sàng sử dụng bất kỳ phương tiện nào để đạt được chiến thắng trước Hàn Quốc. Nỗi sợ của Park là có thật, nhưng ông cũng dùng nỗi sợ Triều Tiên làm lập luận để thắt chặt quyền kiểm soát độc tài ở Hàn Quốc. Park hợp tác chặt chẽ với nhóm nhỏ gồm các thành viên cố vấn của ông và cố gắng hết sức để xây dựng quân đội vững mạnh đồng thời đẩy nhanh quá trình thiết lập công nghiệp.

Mặc dù bốn lãnh đạo này không có các kế hoạch chi tiết khi họ lên nắm quyền, nhưng có định hướng về những điều họ muốn làm. Họ không cứng nhắc tuân theo ý thức hệ mà đủ thực dụng và thông minh để luôn học hỏi, cố gắng đạt được kết quả. Bản chất trong chế độ cai trị của họ có sự tiến hóa, tuy nhiên đến khi Atatürk, Lý, Đặng và Park đã lần lượt nắm quyền 19, 31, 14 và 18 năm, một cách tiếp cận chế độ cai trị mới đã hình thành và phát triển làm nền móng cho các chính phủ sau đó.

Các mục tiêu lớn của Atatürk được trình bày là “Sáu Mũi tên”: chủ nghĩa cộng hòa, chủ nghĩa vô thần, chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa dân túy, chủ nghĩa trung ương tập quyền và chủ nghĩa cải cách. Atatürk muốn thiết lập một quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ đồng nhất với các thể chế chính trị hiện đại theo phong cách châu Âu, gồm nghị viện, các cuộc bầu cử và đảng phái. Tôn giáo, lực lượng tinh thần vốn giữ vai trò thiết yếu trong quá trình cai trị chính trị trong thời gian dài, giờ bị loại khỏi hoạt động chính trị. Giáo dục trở nên vô thần. Dù vào tháng 11 năm 1922, ông nhận thấy cần có sự ủng hộ từ một số nhóm tôn giáo khi loại bỏ Quốc vương Thổ, nhưng đến đầu năm 1924, khi ông tuyên bố sự ra đời của Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ với chính mình làm tổng thống, ông cảm thấy đủ tự tin để loại bỏ luôn khía cạnh tôn giáo trong nền cai trị truyền thống, Hồi vương.

Atatürk áp dụng văn hóa hiện đại hoàn toàn vô thần. Các giám mục tôn giáo bị loại bỏ, các trường tôn giáo riêng bị đóng cửa, giáo dục được thế tục hóa và tòa án tôn giáo bị xóa bỏ. Ông áp dụng hệ thống tư pháp mới, với các bộ quy định về luật thương mại, hàng hải và tội phạm dựa trên luật dân sự Thụy Sĩ và luật hình sự Ý. Năm 1928, Atatürk xóa bỏ vai trò tôn giáo chính thức của Hồi giáo khỏi hiến pháp; ông áp dụng Dương lịch, số đếm phương Tây, trọng lượng và các thước đo quốc tế, sử dụng họ, [219] và đặt các ngày nghỉ hàng tuần là Chủ nhật phương Tây thay cho Thứ sáu Hồi giáo. Cùng năm đó, ông tiếp tục áp dụng chữ cái Latinh để thay thế chữ viết Ả Rập-Ba Tư. Phụ nữ có quyền bầu cử và tham gia công quyền. Ông đi khắp đất nước để thuyết phục người dân thay đổi.

Phong cách đối phó với những vấn đề gây tranh cãi lớn của Atatürk là tấn công bất ngờ, đột ngột hành động táo bạo và cho mọi người thấy “việc đã rồi” nên họ ít có lựa chọn nào khác ngoài chấp nhận kết quả. Để thành lập nền cộng hòa, ông đẩy quốc gia vào một cuộc khủng hoảng cấp bộ và sau đó công bố hiến pháp. Để giảm thiểu sự phản đối, ông giải quyết từng vấn đề một, tập trung hoàn thành xong một việc và hợp tác với một nhóm mà không để lộ ý định tấn công nhóm đó vào thời điểm sau này.

Lý Quang Diệu, sau này bày tỏ quan điểm của mình khi trở thành thủ tướng năm 1959 rằng, “Tôi bắt đấu nhận ra tầm quan trọng của các vấn đề mà chúng ta phải đối mặt — thất nghiệp; kỳ vọng cao về kết quả nhanh chóng; tình trạng căng thẳng từ phe chủ nghĩa cộng sản; hoạt động lật đổ trong các công đoàn, trường học và các hiệp hội; đình công nhiều hơn, đầu tư ít hơn; thất nghiệp nhiều hơn; khó khăn nhiều hơn.” Khi Singapore là một phần của Malaysia, thành phố này không phải gánh chịu mối đe dọa an ninh nghiêm trọng, nhưng từ khi chia tách vào năm 1965, các lãnh đạo Singapore phải lo lắng về sức lực mỏng manh trước những cuộc tấn công của Malaysia và Indonesia cũng như phe cộng sản. Khi Malaysia cắt đứt quan hệ với Singapore, Lý và nhiều cộng sự của ông trong PAP đều thất vọng, sợ hãi và chán nản.

Để đối phó với các vấn đề an ninh của Singapore, Lý xây dựng một lực lượng quân đội hiện đại quy mô nhỏ và các lực lượng an ninh trong nước vững mạnh. Ông khởi động chương trình quân ngũ bắt buộc và yêu cầu các cựu quân nhân ở lại lực lượng dự bị trong một vài năm sau khi kết thúc nhiệm vụ chính thức, từ đó tạo cho Singapore khả năng huy động lực lượng lớn trong trường hợp khẩn cấp. Singapore cũng mua máy bay, xe tăng và các thiết bị quân sự khác. Lý có lợi từ việc hợp tác với một quốc gia nhỏ khác cũng biết cách bảo vệ chính mình khỏi các mối đe dọa từ láng giềng, Israel. Vào thời điểm độc lập, 80% quân đội Singapore là người Mã Lai. Lý sợ rằng nếu có những cuộc bạo loạn chủng tộc giữa người Mã Lai và người Hoa, khó có thể chắc chắn quân đội có bảo vệ người Hoa hay không. Do đó, ông gia tăng tỷ lệ quân lính là người dân tộc Hoa hoặc Ấn.

Ông nhận ra rằng Singapore, khi tự dựa vào chính mình, quá nhỏ để tự bảo vệ mình trước các mối đe dọa lớn bên ngoài. Lý có thể thuyết phục người Anh hoãn kế hoạch rút Hải quân Anh ra khỏi Singapore. Ông nhận ra rằng với các mối đe dọa từ phe cộng sản và từ Malaysia hoặc Indonesia Hồi giáo, hai nước vốn thù địch với Singapore, chỉ Hoa Kỳ mới có thể giúp đỡ. Để chuẩn bị cho sự rời đi của Hải quân Anh, Lý tập trung xây dựng quan hệ gần gũi hơn với Hoa Kỳ. Để làm sâu sắc thêm các mối gắn kết, ông sống một vài tháng ở Hoa Kỳ, nơi ông tham vấn với giới học thuật, các lãnh đạo doanh nghiệp và lãnh đạo chính trị để hiểu rõ hơn suy nghĩ của họ và gia tăng nền tảng ủng hộ cho mình.

Cách tiếp cận của Lý là xem xét vấn đề một cách lô-gíc trước, sau đó kêu gọi các lãnh đạo khác tham gia, tiếp đến là trình bày kế hoạch của mình cho công chúng với các bài thuyết trình cá nhân được lập luận chặt chẽ và lưu loát. Lý xem việc duy trì quyền lực của mình là điều rất quan trọng và ông sẵn sàng, khi bị thách thức trong các cuộc tranh luận trước công chúng, dồn đối thủ vào tường, làm nhục họ bằng sức nặng từ các lập luận mạnh mẽ.

Khẩu hiệu của Đặng cho kỷ nguyên mới của ông là “cải cách và mở cửa”. Đặng nhận thức rõ rằng Trung Quốc đã tụt hậu hàng thập kỷ và đất nước này cần phải nhập khẩu công nghệ, cơ khí, vốn và kỹ năng quản lý từ Nhật Bản và phương Tây. Trong chuyến thăm Nhật Bản tháng 10 năm 1978 và Hoa Kỳ tháng 1 năm 1979, ông trở nên rất được ủng hộ, dọn đường cho sự giúp đỡ quan trọng từ hai đất nước khó có khả năng giúp đỡ nhiều nhất cho sự phát triển của Trung Quốc. Ông nhận ra rằng mở cửa cho đầ