Chương 18 XEM XÉT HAI HÌNH ẢNH TRÁI NGƯỢC:
HÀN QUỐC THỜI PARK CHUNG HEE VÀ
PHILIPPIN THỜI FERDINAND MARCOS
Paul D. Hutcheroft
Park Chung Hee và Ferdinand Marcos đều sinh năm 1917, lớn lên vào thời kỳ đất nước dưới chế độ thực dân, nổi lên làm lãnh đạo quốc gia những năm 1960, và ban hành thiết quân luật gần như cùng lúc vào cuối năm 1972. Đất nước họ cầm quyền đều có những gắn kết lịch sử và kinh tế sâu sắc với Hoa Kỳ và Nhật Bản, và vào những năm sau chiến tranh, cả Hàn Quốc và Philippin đều tập trung những căn cứ quân sự của Mỹ và gắn kết mạnh mẽ với phương Tây. Khi tuyên bố thiết quân luật, hai vị tổng thống đương nhiệm tuyên bố rằng các biện pháp hà khắc là điều cần thiết để phòng thủ chống lại nhiều thách thức và thúc đẩy các nền tảng dân chủ phù hợp với hoàn cảnh đất nước. Dù cả hai người đều có nền tảng quyền lực vững mạnh, nhưng họ cũng lo ngại những đối thủ tranh cử có sự ủng hộ rộng rãi, vì thế đều tiến hành những thay đổi hiến pháp để đảm bảo khả năng tiếp tục cầm quyền của họ, và tiến hành đàn áp kinh hoàng những phong trào chống đối chính trị. Hai chế độ độc tài đều dựa trên sự tập trung cao độ vào thẩm quyền và quyền lực cá nhân, với vai trò tương đối yếu của đảng phái chính trị ở từng nước.
Dù có những sự tương đồng đáng ngạc nhiên như vậy, nhưng chế độ của hai vị lãnh đạo đã tạo ra những tương phản rất lớn trong kết quả chính trị-kinh tế: công nghiệp hóa nhanh chóng ở Hàn Quốc và tình trạng bóc lột khủng khiếp về mặt kinh tế ở Philippin. “Hơn hẳn bất cứ nhân vật chính trị nào khác,” các sử gia đầu ngành kết luận, “Park... định hình nền kinh tế chính trị Hàn Quốc hiện đại, và những di sản của ông để lại đều vừa đáng ngưỡng mộ vừa kinh hoàng.” Đánh giá dành cho Marcos bởi người ủng hộ lớn nhất trước đây của ông cho thấy một câu chuyện hoàn toàn khác: “Ông tin rằng ông có thể định hướng cho xã hội... mà vẫn vơ vét xã hội.” Theo Tổ chức Minh bạch Quốc tế, Marcos là nhà cai trị vơ vét thành công thứ hai trong lịch sử, cướp khoảng 5-10 tỷ đô-la Mỹ trong hai thập niên ở dinh tổng thống.
Những kết quả tương phản cao độ này được lý giải như thế nào? Bài phân tích bên dưới cho thấy tầm quan trọng của cả cấu trúc và tác nhân. Một mặt, Park có lợi thế từ một số điều kiên tiên quyết rất phù hợp với các kết quả phát triển tích cực. Chế độ độc tài của ông thừa hưởng và nuôi dưỡng bộ máy quan liêu dân sự và quân sự được thể chế hóa hơn rất nhiều so với chế độ độc tài của Marcos. Có thể quan sát thấy trong chế độ của Park, có một sự kết hợp đầy nghịch lý giữa thể chế hóa và cá nhân hóa; mặt khác, Marcos thừa kế và nuôi dưỡng một bộ máy quan liêu hoàn toàn mang tính chuyên quyền. Ngoài ra, các mối quan hệ nhà nước-xã hội ở Hàn Quốc và Philippin - ở nhiều thời điểm thời thực dân và hậu thực dân — có thể được xem là hình ảnh đảo ngược của nhau. Nói chung, vốn từ rất lâu, nhà nước Hàn Quốc chỉ đối mặt với các lực lượng đối kháng yếu trong xã hội. Tầng lớp quý tộc chính trị-kinh tế thống trị của Philippin, ngược lại, về mặt lịch sử cho thấy đặc biệt có khả năng cướp bóc của nhà nước và chống lại những thách thức từ bên dưới. [220]
Những điều khác biệt trong bản chất các cơ quan nhà nước và các quan hệ nhà nước-xã hội rất quan trọng nhưng không bao giờ là tất cả. Cũng cần phải xét đến những khác biệt cá nhân trọng yếu của hai vị lãnh đạo, bắt đầu từ sự đối lập rất đáng chú ý ở tiểu sử cá nhân: Park khởi đầu từ nguồn gốc nông dân thấp kém đến quân nhân thời thực dân và sau thực dân rồi đến sự kiện cướp lấy quyền lực chính trị năm 1961, trong khi Marcos bắt nguồn từ một gia đình quý tộc tỉnh lẻ và dùng nhiều chiến thuật chính trị tài tình để vươn đến vị trí cao nhất ở đất nước mình năm 1965. Khi đã vào nhiệm sở, hai vị tổng thống đều tìm cách tối đa hóa quyền lực và thẩm quyền của mình, nhưng các mục tiêu cao hơn của họ lại là hình ảnh đối lập của nhau: Park bị ám ảnh bởi phát triển kinh tế quốc gia và có vẻ ít tích lũy tài sản cá nhân trong khi những phát biểu mang tinh thần phát triển của Marcos che giấu một quyết tâm ngầm muốn thúc đẩy thành công kinh tế cho gia đình và thân hữu của ông. Mặc dù có thể nói rằng cả hai chế độ đều bị cá nhân hóa, nhưng chế độ của Marcos về bản chất hoàn toàn mang tính gia tộc.
Chương này xem xét sự kết hợp của các yếu tố dựa trên cấu trúc và tác nhân để lý giải những kết quả chính trị-kinh tế khác biệt hoàn toàn của hai chế độ độc tài. Với những chi tiết phong phú đã được khắc họa ở những chương trước của cuốn sách, sẽ có ít thông tin về Park và Hàn Quốc hơn so với Marcos và Philippin. Để củng cố phân tích của mình về tầm quan trọng tổng hợp của cấu trúc và tác nhân, tôi kết thúc bằng phép suy đoán giả thuyết ngược khi hình dùng Park cầm lái Philippin và Marcos đảm đương Hàn Quốc. Như tôi sẽ chứng minh, cả hai nhà độc tài bắt đầu chế độ của họ với những yếu tố cấu trúc rất thuận lợi cho các mục tiêu cá nhân của họ: một trường hợp là phát triển nhanh còn trường hợp còn lại là vơ vét có hệ thống.
Quan hệ nhà nước-xã hội ở Hàn Quốc và Philippin: quan sát trong quá khứ gần
Đặc điểm lịch sử của quan hệ nhà nước-xã hội ở Hàn Quốc và Philippin giống như hình ảnh phản chiếu lẫn nhau theo nhiều cách. Các học giả về lịch sử và chính trị Hàn Quốc hiện đại thường mô tả về nhà nước mang tính tập trung hóa và độc đoán cao độ, áp đặt quyền kiểm soát đáng kể lên xã hội tuy yếu và tố chức kém nhưng thường “hay tranh cãi”. Trong xã hội này, Carter Eckert lý giải, giai cấp tư bản là một “tầng lớp rõ ràng không hề có quyền lực, bị cô lập khỏi xã hội mà giai cấp này sẽ tiếp tục phát triển.” Ở Philippin, ngược lại, một nhà nước mục ruỗng và phân quyền trầm trọng liên tục bị bóc lột bởi một nhóm đầu sỏ bá quyền vốn có duy trì các liên kết cơ chế bảo trợ với nhiều nhóm xã hội khác. Trong khi đất nước này có lịch sử đấu tranh toàn dân và hoạt động cách mạng lâu đời, thì tầng lớp đầu sỏ quốc gia nổi lên từ đầu thế kỷ XX vẫn tiếp tục chi phối cả xã hội và nhà nước - mặc dù thành phần và nền tảng kinh tế của giới này đã tiến hóa đáng kể theo thời gian, và sự chi phối của tầng lớp này thỉnh thoảng mới bị thách thức. Ở cả hai nước, sự đa dạng trong mối quan hệ nhà nước-xã hội bị định hình mạnh mẽ bởi cả chủ nghĩa thực dân và các liên kết hậu thực dân với cường quốc nước ngoài.
Vào cuối triều đại Joseon ở Hàn Quốc và cuối giai đoạn thực dân Tây Ban Nha ở Philippin, cả hai nhà nước trung ương đều phải đối mặt với những hạn chế lớn khi thực thi quyền lực. Tuy nhiên, bản chất của những hạn chế này khác biệt đáng kể. Chế độ quân chủ Hàn Quốc đối mặt với tầng lớp quý tộc yangban hùng mạnh, nhóm này có quyền kiểm soát chặt chẽ không chỉ cơ cấu bộ máy quan liêu mà còn cả các quyền thừa kế đất đai. Yangban bằng nhiều cách đã hạn chế quyền lực của nhà nước trung ương, nhưng đồng thời vị thế của nhóm này cũng có được từ vị trí của họ trong nhà nước. Mỗi gia đình yangban đều có tổ tiên đã vượt qua các kỳ thi nhà nước khó khăn. Như Hagen Koo giải thích, “giai cấp yangban không có lợi khi làm nhà nước yếu đi; thay vì vậy họ tìm cách sử dụng quyền lực nhà nước vì lợi ích riêng của họ.”
Nhà nước cuối thời thực dân Tây Ban Nha ở Philippin đối mặt với nhiều thách thức hơn, và - tương đối khác nhà nước Joseon - không bao giờ có được mức độ tập quyền đáng kể. Thứ nhất, chính phủ đặt ở Manila thiếu nhân lực đến nỗi nhà nước phải lệ thuộc nặng nề vào lực lượng Cơ đốc giáo để mở rộng tầm ảnh hưởng của mình trên quần đảo. Thứ hai, trên thực tế dân số Hồi giáo ở vùng phía nam quần đảo hưởng độc lập cho đến gần những năm cuối của chế độ thực dân Tây Ban Nha. [221] Thứ ba, và cũng có ý nghĩa lớn nhất, đặc thù trong hoạt động thương mại hóa nông nghiệp dưới chế độ thực dân ở thế kỷ XIX “làm nổi lên một giai cấp mới... giới địa chủ tương đối tách biệt với bộ máy quan liêu.” Tầng lớp tinh hoa cấp tỉnh này có nền tảng kinh tế vững chắc ngoài phạm vi nhà nước trung ương.
Khi “chủ nghĩa đế quốc mới” quét khắp toàn cầu, cả triều đại Joseon và chế độ thực dân Tây Ban Nha đều bị xóa sổ bởi hai cường quốc công nghiệp đang lên, Nhật Bản và Hoa Kỳ. Ở mỗi trường hợp, các nước thực dân mới đã thành lập nền tảng cho nền chính trị vững chắc, kết nạp thành công các nhóm tinh hoa vào cấu trúc thực dân, đồng thời thông qua đó đem đến sự biến đổi to lớn ở các nhà nước lệ thuộc và ở quan hệ nhà nước-xã hội. Tuy nhiên cũng có những sự khác biệt đáng kể ở đặc trưng mà mỗi nhà nước thực dân được thiết lập trong mỗi trường hợp.
Khi Nhật Bản thực dân hóa Hàn Quốc thông qua bộ máy quan liêu đồ sộ, mang tính cưỡng bức do người Nhật thống trị, quyền lực của tầng lớp yangban bị suy giảm trầm trọng trong lĩnh vực chính trị nhưng vẫn giữ nguyên ảnh hưởng to lớn trong nền kinh tế nông nghiệp. Người Nhật dần thúc đẩy quá trình chuyển đổi kinh tế mà theo góc nhìn so sánh có thể được xem là nghịch lý: công nghiệp hóa thực dân. Trong quá trình đi từ trên xuống này, với sự cổ vũ của các thể chế tài chính thực dân phức tạp mới, vốn đầu tư của Nhật (của cả nhà nước và zaibatsu) chi phối hoàn toàn còn các doanh nghiệp Hàn Quốc trở nên bé nhỏ. Do đó, trong số giới quý tộc Hàn Quốc được hưởng quyền lực kinh tế khổng lồ, thành phần chủ yếu là giới địa chủ; giới này bị gọi là “cộng tác viên với Nhật” và trở thành “mục tiêu của lòng thù hận quốc gia sâu sắc.”
Chế độ thực dân Mỹ ở Philippin được thiết lập sau thất bại nhanh chóng của người Tây Ban Nha và trong cao trào của cuộc chiến tranh kéo dài, khốc liệt với các lực lượng dân tộc chủ nghĩa trên khắp quần đảo. Muốn kết thúc cuộc xung đột đang giữ chân 72.000 quân Mỹ và phải đối mặt với sự phản đối đang gia tăng ở nước nhà, Toàn quyền William Howard Taft khởi xướng “chính sách thu hút” hứa hẹn sẽ cho giới quý tộc Philippin vai trò quan trọng trong chính phủ - và tìm cách biến “luật sư-chính trị gia hiện đại” thành nhân vật thống trị trong xã hội Philippin. Các cuộc bầu cử để chọn người cho các vị trí ở thành phố và tỉnh được thể chế hóa vào năm 1901 và 1902; năm 1907, một lượng lớn thẩm quyền được trao cho hội đồng đại diện quốc gia; và vào năm 1916, sự kiện thành lập Thượng viện diễn ra cùng lúc với lời hứa công khai về độc lập trong tương lai. Khi các cuộc bầu cử được tổ chức và các cơ quan lập pháp được triệu tập, tương đối ít người chú tâm thành lập bộ máy quản trị hiện đại. Các thể chế đại diện thúc đẩy các thủ lĩnh địa phương, hoặc các lãnh đạo chính trị địa phương, củng cố quyền kiểm soát nhà nước và thúc đẩy sự hình thành thứ mà Benedict Anderson gọi là “‘nhóm đầu sỏ quốc gia’ vững chắc, rõ rệt”. Nhóm đầu sỏ này - gồm cả những chính trị gia ở Manila và các lãnh chúa ở tỉnh — lợi dụng nền tảng quyền lực độc lập của họ, áp đặt quyền kiểm soát độc tài của mình lên mọi cấp độ trong bộ máy chính quyền thông qua hệ thống bảo trợ vốn đã ăn sâu ở tầm quốc gia từ đầu thế kỷ.
Chế độ cai trị thực dân Mỹ là yếu tố cần thiết để lý giải cả nguồn gốc của nhà nước Philippin hiện đại cũng như nhiều đặc điểm cơ bản của xã hội và nền dân chủ Philippin ngày nay. Theo nhiều cách, hình ảnh đảo ngược từ quá trình biến đổi thời thực dân này cuối cùng lại được tìm thấy ở Hàn Quốc: trong khi người Nhật biến giai cấp quý tộc chính trị-kinh tế của triều đại Joseon thành giai cấp quý tộc kinh tế bị kiểm soát chặt chẽ để tận dụng cho các mục tiêu thực dân, thì người Mỹ đã biến giới quý tộc kinh tế nổi lên vào cuối thời kỳ Tây Ban Nha thành một tầng lớp quý tộc chính trị-kinh tế có ảnh hưởng rộng lớn mà sau này sớm chứng tỏ được khả năng làm thất vọng các mục tiêu “giám hộ” quan trọng thời thực dân của Mỹ. Tương phản rõ nét với nhà nước thực dân Nhật Bản hùng mạnh và tập quyền cao độ ở Hàn Quốc, nhà nước thực dân Mỹ ở Philippin yếu và phân quyền đáng kể.
Thông qua khả năng kiểm soát bộ máy chính trị, giới đầu sỏ Philippin liên tục tạo ra các cơ hội kinh tế cho chính mình (ví dụ, cướp đất thông qua kiểm soát quá trình xác định quyền sở hữu đất). Quan hệ cộng tác với người Mỹ tạo ra nhiều cơ hội để thâu tóm nhiều quyền lập pháp và tính tự chủ địa phương hơn, và với việc thành lập Khối thịnh vượng chung Philippin năm 1935, tất cả các nhánh của chính phủ hoàn toàn được trao cho nhóm đầu sỏ mà người Mỹ đã tạo ra. Chủ tịch Khối thịnh vượng chung Manuel L. Quezon là một “luật sư-chính trị gia” Philippin lão luyện: ông đi từ nguồn gốc tỉnh lẻ với sự ủng hộ của giới thực dân Mỹ có ảnh hưởng và tỏ ra thuần thục khi trình bày về nền dân chủ Mỹ cùng những hiểu biết sâu sắc về các thể chế Mỹ để đồng thời củng cố nền tảng quyền lực ở tỉnh và xây dựng mạng lưới toàn quốc với những người nắm giữ quyền lực cấp tỉnh khác. Theo nhiều cách, Quezon là tiền nhân của Marcos: hai người đều khéo léo thao túng những thành phần đa dạng của hệ thống chính trị để tích lũy quyền lực cá nhân và thiết lập các chế độ “đặc trưng bởi tham nhũng và chủ nghĩa thân hữu”.
Tính thay đổi và tiếp nối trong quan hệ nhà nước-xã hội: từ khi độc lập đến đầu những năm 1960
Thế chiến II kết thúc mang lại độc lập cho cả Hàn Quốc và Philippin, và sự khởi đầu của hai chính phủ mới đều được đảm trách bởi cùng một quan chức quân đội Mỹ: Đại tướng Douglas MacArthur. Dù những trải nghiệm thực dân hóa và quá trình phi thực dân hóa cực kỳ khác biệt về bản chất, nhưng người ta vẫn có thể quan sát thấy mức độ tương đồng đáng ngạc nhiên trong đặc trưng của nhà nước và giới quý tộc nổi lên ở Cộng hòa Philippin và Cộng hòa Hàn Quốc vào buổi đầu.
Ở Hàn Quốc, độc lập đến đột ngột và gây nên sự chia rẽ đất nước mà đến hơn 6 thập niên sau vẫn còn. Giai cấp địa chủ bị thách thức ở mọi nơi bởi một xã hội dân sự dân tộc chủ nghĩa và “hay tranh cãi” hình thành từ thời thực dân. Ở Triều Tiên, dưới sự chiếm đóng của Xô-viết, giai cấp này hoàn toàn bị tước đi quyền sở hữu đất. Mặc khác, ở Hàn Quốc, sự chiếm đóng của Mỹ tạo ra một mức độ bảo hộ cần thiết cho các địa chủ Hàn Quốc, và cho phép họ giành lại phương tiện gây ảnh hưởng chính trị. Về vị trí tổng thống, người Mỹ cần một nhân vật có thể kết hợp tinh thần chống cộng sản quyết liệt với các đặc trưng dân tộc chủ nghĩa chống Nhật. Lý Thừa Vãn phù hợp với đặc điểm này, và sau khi lên lãnh đạo, ông đã tiến hành cuộc hôn phối miễn cưỡng với Đảng Dân chủ Hàn Quốc đối lập, “trung tâm của tài sản địa chủ và quyền lực địa phương”. Thông qua sự liên kết với Lý, giai cấp địa chủ tìm cách bảo vệ các vị thế kinh tế và giành lại đặc quyền chính trị mà giai cấp này đã đánh mất vào thời thực dân Nhật, và từ đó củng cố chính giai cấp mình thành quý tộc chính trị-kinh tế.
Ở Philippin, hoàn toàn không giống Hàn Quốc, tác động của Chiến tranh Thái Bình Dương gắn chặt hơn bao giờ hết các mối liên kết với cường quốc thực dân cũ. Chuyến xâm chiếm trở lại Philippin đã được MacArthur hứa từ trước cùng với việc hoàn thành các lời hứa trước chiến tranh dường như đã mang lại tính chính danh chưa từng có cho sự tham gia sâu của người Mỹ vào chính trị hậu chiến. Khi được trao trả ngày 4 tháng 7 năm 1946, nền độc lập phải đi kèm với các điều khoản rõ ràng có lợi cho giới đầu sỏ địa chủ đang kiểm soát nhà nước. Để đổi lấy các căn cứ quân sự mà Washington rất thèm khát và những nhượng bộ kinh tế mà một số thành phần doanh nghiệp Mỹ rất mong muốn, Hoa Kỳ cung cấp cho Philippin quyền tiếp cận liên tục thị trường nước này cũng như viện trợ tái thiết hậu chiến. Một phần vì nước trao trả độc lập là một siêu cường đang lên nên rất khó để Philippin nổi lên như một quốc gia có chủ quyền thật sự. Kể cả trong thời hậu thực dân, giới đầu sỏ vẫn lệ thuộc rất nhiều vào viện trợ, đầu tư và hỗ trợ chống lật đổ của Mỹ. Dù về tổng thể, đất nước này không phải đối mặt với mối đe dọa bên ngoài nghiêm trọng nào, giới đầu sỏ vẫn cần sự hỗ trợ từ bên ngoài để duy trì cấu trúc chính trị và kinh tế bất công, kém hiệu quả, dối trá. Về phía mình, Washington nhận được quyền tiếp cận chiến tranh lạnh không hạn chế đến hai trong số những cơ sở quân sự ngoài nước quan trọng nhất của nước này.
Giống như ở Hàn Quốc, giới quý tộc Philippin phải đối mặt với những thách thức lớn từ bên dưới vào cuối những năm 1940. Hukbalahap (Quân đội Nhân dân chống Nhật), thành lập năm 1942, chiến đấu chống cả người Nhật và những người địa chủ cộng tác. Bất chấp tinh thần sẵn sàng hợp tác thường xuyên với quân đội Mỹ, Huk trở thành kẻ thù của nhà nước được tái thành lập bởi MacArthur cùng nhiều người bạn trong giới đầu sỏ của ông (một số trong nhóm này vốn cộng tác với người Nhật suốt chiến tranh). Đến cuối năm 1946, sau khi những nỗ lực đấu tranh nghị viện bị ngăn chặn và sự đàn áp mà người nông dân phải gánh chịu trở nên tồi tệ hơn ở nông thôn, các đơn vị Huk một lần nữa tổng nổi dậy. Chính quyền Philippin gặp phải những khó khăn lớn khi giải quyết thách thức này; cũng như ở Hàn Quốc cuối những năm 1940, người ta nhận ra một nhà nước yếu ớt và tha hóa lệ thuộc nặng nề vào Hoa Kỳ để duy trì sự tồn tại.
Cuộc nổi dậy của quân Huk đạt đỉnh cao trong giai đoạn 1949-1951, sau đó các nỗ lực chống nổi dậy bắt đầu gặt hái được thành công đáng kể. Đặc biệt quan trọng là vai trò của các cố vấn Mỹ trong việc phát triển quan hệ với Ramon Magsaysay, “chàng trai của nước Mỹ”. Nguyên nhân chính cho sự thoái trào của Huk như Benedict Kerkvliet lý giải thì là vì “Nông dân ở Central Luzon ưa thích Magsaysay, người ban đầu là Bộ trưởng Quốc phòng (1950-1953) và sau đó là Tổng thống (1954-1957), vì ông có quan hệ cá nhân với dân làng và vì quân đội trở nên ít lạm quyền hơn dưới sự lãnh đạo của ông.” Thất bại sau cùng của quân Huk hình thành từ những hành động mang tính biểu tượng hơn là từ sự đầu hàng thật sự, và sau sự kiện đó không hề có thay đổi lớn nào ở bản chất của cả nhà nước và quan hệ nhà nước-xã hội. Sự bất mãn của nông dân tạm thời được cải thiện thông qua hoạt động tái định cư ở đảo Mindanao ở miền nam, và các đề xuất tái phân bổ đất của Mỹ bị ngăn chặn. Với những nguyên nhân gốc rễ của cuộc nổi dậy không được giải quyết, phe cánh tả sẽ sớm nổi lên lại.
Trái ngược với Cuộc nổi loạn Huk, tác động của Chiến tranh Triều Tiên lên nhà nước và quan hệ nhà nước-xã hội của Hàn Quốc không khác gì trận đại hồng thủy. “Không một sự kiện riêng lẻ nào trong lịch sử hiện đại Hàn Quốc,” Hagen Koo viết, “gây ảnh hưởng lên sự hình thành nhà nước hơn Chiến tranh Triều Tiên.” Khi chúng ta so sánh quan hệ nhà nước-xã hội của Hàn Quốc với của Philippin, vấn đề cải cách có tầm quan trọng đặc biệt. Trước chiến tranh, các biện pháp mang tinh thần cải cách do người Mỹ thúc đẩy vốn bị ngăn cản bởi giai cấp địa chủ; tuy nhiên, trong giai đoạn chiếm đóng của Triều Tiên, cuộc cách mạng ruộng đất đã làm suy yếu giai cấp này rất nhiều; sau chiến tranh, áp lực từ phía Mỹ buộc Lý phải tiến hành các biện pháp cải cách đưa ra trước đó. Bruce Cumings viết về cuộc chiến này như là “sự kiện cân bằng vĩ đại”, không chỉ làm yếu đi tầng lớp quý tộc địa chủ mà còn sản sinh ra một nhóm doanh nhân mới thành công nhờ những cơ hội đến từ giai đoạn xáo trộn xã hội khủng khiếp.
Trong khi nhà nước Hàn Quốc cuối những năm 1940 “cực kỳ bất ổn và mỏng manh” - không như nhà nước cùng thời của Philippin - cuộc chiến đã mang lại sự củng cố đáng kể quyền hành nhà nước dưới chế độ của Lý. Điều này được phản ánh ở sự nổi lên của quân đội hiện đại và hiệu quả, sự công khai thừa nhận ý thức hệ không thể thách thức của “nhà nước chống cánh tả” và các nỗ lực kiểm soát các khu vực quần chúng. Lượng lớn viện trợ của Mỹ đã tạo cho chế độ của Lý vô số cơ hội phân bổ các lợi ích đặc quyền và tăng cường nền tảng ủng hộ chính trị cho chế độ. Lý chủ động chống lại các cố gắng tái kết hợp Hàn Quốc vào các mẫu hình thương mại thời thực dân của người Mỹ, sử dụng vị thế trong lĩnh vực địa chính trị để cùng lúc thúc đẩy chiến lược phát triển quốc gia thay thế và củng cố chế độ. Ông nuôi dưỡng một giai cấp tư bản trong nước mạnh mẽ hơn rất nhiều, chủ yếu phụ thuộc vào nhà nước để thành công và đảm bảo rằng việc phân bổ lợi ích sẽ tạo ra những đóng góp lớn cho đảng cầm quyền. [222] Vào cuối những năm 1940, chế độ của Lý vẫn còn phải đáp ứng nhu cầu của một nhóm quý tộc kinh tế; đến cuối những năm 1950, nhà nước đã chi phối khá hiệu quả một hình thức khác về chất của giới quý tộc kinh tế, giờ đây dựa nhiều hơn rất nhiều vào công nghiệp và thương mại. Ít nhất trong lĩnh vực chính trị, Lý cũng khá thành công trong việc hoàn thành được các mục tiêu: “Đến cuối những năm 1950,” Eckert và đồng sự của ông kết luận, “Lý đã biến phần lớn hệ thống chính trị thành của ông.” [223]
Ở Philippin cũng vậy, nền kinh tế chính trị của những năm 1950 đặc trưng bởi hoạt động trục lợi tham nhũng và quá trình công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu (ISI). Thoạt nhìn điều này dường như cho thấy những điểm tương đồng đáng kể so với Hàn Quốc của Lý, nhưng phân tích gần hơn cho thấy những khác biệt to lớn. Nói chung có thể quan sát thấy rằng nếu hoạt động trục lợi ở Hàn Quốc thúc đẩy quá trình thâu tóm quyền lực của chế độ cai trị thì hành vi trục lợi ở Philippin tạo ra lợi ích cho tầng lớp quý tộc chính trị-kinh tế, tầng lớp này không chỉ trải rộng mà còn bành trướng về quy mô. Phản ứng với cuộc khủng hoảng cán cân thanh toán nặng nề năm 1949, Ngân hàng Trung ương Philippin mới được thành lập thể chế hóa các biện pháp kiểm soát nhập khẩu và ngoại hối với sự ủng hộ mạnh mẽ của Hoa Kỳ và các nhà đầu tư Mỹ. Quá trình phân bổ giấy phép nhập khẩu và ngoại hối đầy rẫy tham nhũng, và một số vụ bê bối đã nổ ra trong tiến trình thập niên này liên quan đến sự phân bổ đặc biệt thiên vị cho những người có các mối quan hệ chính trị tốt nhất. Một sự kiện (có thể không có thật) tượng trưng cho bản chất vơ vét thỉnh thoảng xuất hiện khi cấp giấy phép: vào cuối những năm 1950, đại biểu quốc hội đối lập Ferdinand Marcos được cho là “xông vào văn phòng” của một quan chức Ngân hàng Trung ương, người đã từ chối cấp phép nhập khẩu cho “một doanh nhân Trung Quốc giàu có” và chĩa súng lục vào đầu vị quan chức đó cho đến khi “văn bản được ký và chuyển cho ông”.
Như trường hợp Hàn Quốc dưới thời Lý, các nhà kinh tế nhận thấy quá trình lựa chọn cá nhân và ngành công nghiệp Philippin không mấy hợp lý. Tuy nhiên, không như Hàn Quốc của Lý, sẽ khó khăn hơn nhiều để phát hiện bất kỳ logic chính trị dựa trên chế độ nào đằng sau sự điên cuồng trong hoạt động trục lợi không kiểm soát ở giai đoạn này. Quá trình công nghiệp hóa là một mục tiêu lớn trong kế hoạch phát triển đất nước, tuy nhiên các lãnh đạo Philippin nói chung không có cùng ác cảm mang tính dân tộc chủ nghĩa của Lý về những phương thuốc tự do của các nhà hoạch định kinh tế Mỹ. (Thật ra, thay vì chống lại sự phụ thuộc vào cường quốc thực dân cũ, một ưu tiên kinh tế lớn là quyền tiếp tục tiếp cận thị trường Mỹ.) Với đặc trưng phân quyền chính trị và kinh tế cao độ của Philippin (đặc biệt ở các nhà nước dân chủ), sự phân bổ các lợi ích kinh tế từ trung ương không có tác dụng nhiều trong việc thúc đẩy quá trình tập trung hóa quyền lực chính trị. Thay vào đó, giai đoạn kiểm soát này tạo ra thêm một nguồn chiến lợi phẩm cho nhóm đầu sỏ, chiến lược tích lũy tư bản của nhóm này vốn từ lâu đã dựa vào khả năng tiếp cận ưu đãi từ bộ máy nhà nước. Như một quy luật, những gì nhóm đầu sỏ lấy được từ nhà nước sẽ thuộc về họ; những kẻ hưởng lợi từ hệ thống này có rất ít nghĩa vụ (nếu có) phải đóng góp vào (1) các mục tiêu phát triển lớn hơn (trong một số trường hợp, “các nhà công nghiệp” đề xuất giấy phép ngoại hối để hỗ trợ các hoạt động đầu tư sản xuất và rồi đổi sang nhập khẩu hàng hóa thành phẩm); (2) kho bạc của nhà nước (thuế áp lên việc bán ngoại tệ là tối thiểu); hay (3) các đảng phái chính trị (tiền công có xu hướng không đi đến các đảng mà đến các chính trị gia). Cuối cùng có thể quan sát thấy rằng - không như ở Hàn Quốc — Philippin không có sự chuyển biến lớn nào trong đặc trưng của tầng lớp quý tộc từ cuối những năm 1940 đến cuối những năm 1950: trong khi tầng lớp quý tộc mở rộng về quy mô và tiếp nhận thêm nhiều lợi ích kinh tế đa dạng, giai cấp này vẫn là một giai cấp quý tộc chính trị-kinh tế hùng mạnh.
Ở cả Hàn Quốc và Philippin, sự thay đổi trong chính sách của Mỹ khuyến khích những thay đổi quan trọng trong chiến lược phát triển. Ở Hàn Quốc, sự cắt giảm viện trợ của Mỹ cuối những năm 1950 cuối cùng dẫn đến sự sụp đổ nền kinh tế chính trị giai đoạn Lý cầm quyền và đóng góp vào sự kết thúc của chế độ Lý Thừa Vãn. Cũng vào cuối những năm 1950, Hoa Kỳ tái đánh giá sự ủng hộ của nước này dành cho hệ thống kiểm soát ở Philippin. Một quá trình hạn chế kiểm soát tiếp diễn năm 1960, và vào năm 1962 đồng peso bị phá giá khoảng 50%.
Đến cuối những năm 1950, sau nhiều năm xã hội dân sự im ắng, các nhà hoạt động sinh viên bắt đầu thách thức nền tảng chuyên chế của chế độ Lý Thừa Vãn. “Cách mạng” tháng Tư năm 1960 của sinh viên đã đưa Đảng Dân chủ đối lập lên vị trí lãnh đạo, nhưng chỉ 13 tháng sau đảng này đã bị lật đổ trong một cuộc đảo chính quân sự do Park Chung Hee lãnh đạo. Sau cuộc đảo chính, chính quyền quân sự mới bắt giữ những người giàu có nhất đất nước và buộc tội họ “làm giàu phi pháp”. [224] Bất chấp những lời hứa sau đó, sự kiện này cho thấy không chỉ sự cách biệt rõ ràng giữa nhà nước với xã hội mà còn cả mối quan hệ không cân xứng giữa các nhóm quy tộc chính trị và kinh tế của đất nước vốn đã tồn tại trước khi thời đại của Park bắt đầu.
Một đòn tấn công mạnh mẽ như vậy của nhà nước vào cộng đồng doanh nghiệp là chuyện hoàn toàn không tưởng trong bối cảnh Philippin nơi mà các tổ chức nhà nước nói chung bị thống trị bởi các yêu cầu đặc quyền của một nhóm quý tộc thống trị có quyền lực ở cả lĩnh vực chính trị và kinh tế. Thay vì bị tịch thu đất, như ở Hàn Quốc, các lãnh chúa giành được nhiều lợi ích kinh tế đa dạng ở nhiều ngành. Trên hết, chính trị là cuộc chiến giành chiến lợi phẩm, và liên tiếp những vụ bê bối tham nhũng đã tạo nên rất nhiều vũ khí chính trị để hai đảng quý tộc đả kích lẫn nhau, trao đổi thành viên và thay phiên cầm quyền. Khi kỷ nguyên Marcos bắt đầu vào năm 1965, những bất bình chưa được giải quyết ở nông thôn cùng với tình trạng bất mãn lan rộng vì tham nhũng, vi phạm bầu cử và khó khăn kinh tế góp phần kích động sinh viên, tái vận động các nhóm quần chúng và khôi phục các phong trào cánh tả vốn đã tạm thời thất bại vào những năm 1950.
Park và Marcos trước năm 1972: nắm quyền và thâu tóm quyền tổng thống
Khi khởi đầu chế độ của Park ở Hàn Quốc và của Marcos ở Philippin, nhiều nhân tố khác biệt trong bối cảnh xã hội, thể chế, chính trị, chính trị-kinh tế và địa chính trị xuất hiện, đáng chú ý nhất gồm các yếu tố có thể được đặc thù hóa tổng thể như (1) di sản lịch sử từ sự tập quyền so với phân quyền trung ương; (2) trải nghiệm từ lâu với chế độ độc tài so với các thể chế dân chủ; (3) tác động “cân bằng” của cuộc cải cách đất đai hoàn toàn sau chiến tranh so với những chương trình quy hoạch đất đơn thuần cùng tình trạng bất bình đẳng dai dẳng; (4) sự khác biệt rõ ràng so với sự khác biệt hoàn toàn mờ mịt giữa các nhóm quý tộc chính trị và kinh tế; (5) các nhóm quý tộc kinh tế lệ thuộc vào và bị chi phối bởi nhà nước so với các nhóm quý tộc chính trị-kinh tế có khả năng vơ vét và thao túng nhà nước; (6) quá trình tập quyền chính trị có điều phối sau chiến tranh so với các mẫu hình phân quyền dai dẳng; (7) tuyên bố tinh thần dân tộc chủ nghĩa so với sự chịu đựng các mẫu hình kinh tế thời thực dân; (8) nhà nước chống cánh tả vững chắc so với (điều mà chúng ta biết khi hồi tưởng lại) một thất bại rất không rõ ràng của một thách thức cánh tả từ bên dưới; và (9) mối đe dọa bên ngoài so với không có mối đe dọa. Tôi dựa trên phân tích này và tìm hiểu con đường đến với quyền lực của mỗi lãnh đạo, các mục tiêu của họ khi đã cầm quyền và những quyết định sau đó của họ nhằm loại bỏ các thể chế dân chủ và tuyên bố thiết quân luật để viết nên phần này.
Nền tảng cá nhân
Giữa những năm 1960, khi quân đội Mỹ được gửi đến Việt Nam với số lượng lớn, hai đồng minh chính của Mỹ ở châu Á là Tổng thống Ferdinand Marcos và Tổng thống Park Chung Hee. Hai vị lãnh đạo mới này gặp nhau ở các hội nghị của các tổ chức khu vực do Mỹ hỗ trợ, tuyên bố tinh thần đoàn kết của “thế giới tự do” trên chuyến đi đến Washington thời Lyndon Johnson, và — để đổi lấy viện trợ Mỹ — đã ủng hộ các nỗ lực chống nổi dậy ở Việt Nam: Hàn Quốc với gần 50.000 quân chiến đấu và Philippin với một tiểu đoàn công binh 2.000 người. Trong bối cảnh địa chính trị lớn hơn, chúng tôi nhận thấy cả những điểm tương đồng và khác biệt quan trọng giữa hai vị tổng thống và quá trình vươn đến quyền lực của họ.
Park và Marcos đều có gốc gác ở tỉnh, sinh ra và lớn lên dưới chế độ thực dân. Tuy nhiên, trong khi Park lớn lên ở một gia đình bần nông, tổ tiên của Marcos lại có quyền sở hữu đất rộng lớn ở vùng Ilocos cằn cỗi thuộc Luzon phía tây bắc và nắm giữ những vị trí như quan tòa, thị trưởng và trưởng làng. Gia đình của Ferdinand chuyển đến Manila khi ông còn nhỏ, và cha ông, sau khi tốt nghiệp trường luật, đắc cử vào Quốc hội năm 1924. Ferdinand được chuẩn bị để theo bước cha mình, nhưng vào cuối những năm 1930, ông trở thành một trong những người bị buộc tội trong vụ án giết một chính trị gia năm 1935, người đã đánh bại cha ông trong cuộc tranh cử quốc hội cùng năm đó. Trong phiên xử được ca ngợi trong cả nước năm 1940, chàng sinh viên luật Ferdinand Marcos đã bào chữa mình vô tội trước Tòa án Tối cao Philippin và thay đổi phán quyết phạm tội giết người trước đây của mình. Do đó, trong cùng giai đoạn Park chứng kiến sự thay đổi xã hội thông qua sự nghiệp ở giới cầm quyền trong quân đội thực dân Nhật Bản, Marcos lại trở thành một “luật sư-chính trị gia hiện đại” khác sinh ra dưới chế độ thực dân Mỹ.
Sau lần đắc cử vào Quốc hội đầu tiên năm 1949, Marcos không cho thấy quyết tâm chính trị nào nhưng đã thể hiện sự nhạy bén chính trị đầy ấn tượng. Thành công tranh cử của ông ít nhất được thúc đẩy một phần bởi niềm tin mơ hồ về vai trò anh hùng của ông như là người lính du kích thời Nhật chiếm đóng; dù tuyên bố dối trá rằng mình đã nhận khoảng 30 huân chương vì sự nghiệp chiến đấu chống Nhật, trên thực tế Marcos có thể đã cộng tác với người Nhật trong một giai đoạn nào đó của những năm chiến tranh. Có tầm quan trọng chính trị đáng kể, đặc biệt không kém so với khi ông chuyển từ khối cử tri quốc hội địa phương lên khối cử tri thượng viện quốc gia năm 1959, là cuộc hôn nhân giữa ông với Imelda Romualdez năm 1954, cựu hoa hậu đến từ Visayas (một vùng có nhiều phiếu bầu ở trung tâm quần đảo). Năm 1963, Marcos được bầu làm Chủ tịch Thượng viện Philippin. Sau khi chuyển từ Đảng Tự do sang Đảng Quốc gia trước khi bầu cử, Marcos đánh bại tổng thống đang tại vị (Đảng Tự do), Diosdado Macapagal, và nhậm chức cuối năm 1965.
Trước khi đảm nhiệm vị trí tổng thống, cả Park và Marcos đều vượt qua những giai đoạn khó khăn lớn ban đầu gần như chặn đứng sự nghiệp của họ: phán quyết Park dính líu đến cuộc nổi loạn Yeosu-Suncheon cánh tả, và phiên xử tội giết người của Marcos. Tuy nhiên đặc trưng trong con đường của họ hoàn toàn khác biệt. Park là một quân nhân lên nắm quyền thông qua đảo chính, và giai đoạn quá độ sang chính trị bầu cử của ông năm 1963 phần lớn là do áp lực từ Mỹ. Là một người nhỏ con, hướng nội, Park gần như thiếu hẳn sức hấp dẫn chính trị và “không bao giờ che giấu sự căm ghét các cuộc bầu cử và sự khinh miệt những nhà lập pháp”. [225] Ngược lại, Marcos thật sự là bậc thầy của cuộc chơi chính trị ở Philippin. Ông vươn lên nắm quyền không thông qua đảo chính, mà qua nhiều năm tham vọng tranh cử. Là người có khả năng thể thao và cực kỳ hấp dẫn, Marcos thuyết phục các đám đông lớn không chỉ qua những bài diễn thuyết đầy cảm xúc mà còn với những bản tình ca ông tấu cùng Imelda. Giới báo chí quốc tế thường so sánh ánh hào quang của Cặp đôi Đệ nhất này với hào quang của cặp đôi nhà Kennedy, và vào buổi nhậm chức của ông năm 1965, tạp chí Time đã đưa Marcos lên trang bìa và ca ngợi “tài lãnh đạo năng động, quên mình” của ông.
Mục tiêu
Dù cả Park và Marcos đều là kết quả của môi trường xã hội và chính trị mà từ đó họ nổi lên, các ưu tiên cá nhân và phong cách lãnh đạo của hai người chắc chắn là yếu tố cần thiết để hiểu được đặc trưng trong chế độ tổng thống của họ. Trong khi hai người chắc chắn có cùng khát khao muốn tập trung và nắm giữ quyền lực ở mức độ cao nhất có thể, thì cách sử dụng quyền lực của họ lại khác nhau. Park Chung Hee đi theo những vị tổng thống trước đó vốn có vị thế xã hội cao hơn và kết hợp “lòng ngờ vực người giàu của nông dân” với các mục tiêu trọng thương thúc đẩy “nước giàu quân mạnh” theo tinh thần Nhật Bản. Các học giả về kinh tế chính trị Hàn Quốc hiếm khi cho thấy Park sử dụng vị thế của mình để xây đắp gia tài cá nhân khổng lồ. [226] Marcos, ngược lại, là kẻ trưởng giả điển hình ở các tỉnh, quyết tâm không chỉ tranh đua mà còn thôn tính các gia đình giàu có nhất đất nước. Mục tiêu phát triển kinh tế quốc gia chắc chắn chỉ là phụ so với việc phát triển gia đình giàu có và nhóm tùy tùng hùng hậu.
Marcos thường nói đến việc thúc đẩy mục tiêu phát triển kinh tế quốc gia, và khởi đầu nhiệm kỳ tổng thống đầu tiên của mình bằng cách tài trợ cho các dự án cơ sở hạ tầng chính yếu trên toàn quần đảo. Tuy nhiên những chi tiêu này, cùng với những khoản viện trợ “phát triển cộng đồng” hạn chế hơn ở những huyện nghèo, “được chia nhỏ để có lợi thế chính trị tối đa”. Cùng với những phát ngôn về “xây dựng quốc gia”, tin đồn về các khoản đầu tư bất động sản ngoài nước, các tài khoản ngân hàng Thụy Sĩ, và đặc quyền thân hữu của Cặp đôi Đệ nhất tràn ngập trên báo chí Manila cuối những năm 1960. Trong khi Park chi phối quan hệ đối ngoại với các mục tiêu toàn diện về an ninh quốc gia và quyền tự chủ quốc gia, các kỹ năng ngoại giao đáng ngạc nhiên của Marcos có định hướng chủ yếu vào lợi ích cá nhân. Đổi lại việc gửi một tiểu đoàn công binh sang Việt Nam, Marcos nhận được các khoản thanh toán khổng lồ không ghi sổ từ Hoa Kỳ; các quan chức Mỹ biết được những dàn xếp này, Raymond Bonner viết tiếp, “Không nghi ngờ rằng hàng triệu đô-la đã đi vào túi [của Marcos] hoặc, chính xác hơn, vào tài khoản ngân hàng nước ngoài của ông.” Chiến dịch tái tranh cử năm 1969 có lẽ đã cho thấy bằng chứng hùng hồn nhất cho việc mục tiêu chính trị cá nhân chà đạp lên phúc lợi quốc gia: sau khi kho bạc bị cướp và các đối thủ bị đe dọa bởi hoạt động huy động cưỡng bức rộng rãi các quan chức và các thế lực cá nhân của chính quyền, vị ứng viên bị đánh bại than phiền rằng ông đã “thua về sự bất lương, thua về súng đạn và thua về vàng.” Khi cuộc tranh cử đang diễn ra, khủng hoảng cán cân thanh toán tồi tệ nhất từ năm 1949 nổ ra tại nước này. Do đó, hoạt động tích trữ quyền lực cá nhân bất chính mà nhờ đó Marcos trở nên nổi tiếng có thể đã bắt đầu từ những năm đầu trong chế độ tổng thống của ông.
Bối cảnh thể chế
Khi cả hai khéo léo thâu tóm nền tảng chính trị cho chế độ của mình, họ dựa trên những nền móng thể chế và tầm nhìn rất khác biệt về cải cách thể chế. Không như ở Philippin, Park làm việc trong môi trường “hoàn toàn quan liêu”: Ông “biết đặt quyền lực, chuyên môn ở đâu và hành động theo đó, ban cho nhóm quý tộc của Hàn Quốc nhiều đặc quyền”. [227] Hưởng lợi từ quá trình tập trung quyền lực ban đầu của hệ thống chính trị dưới thời Lý, Park tiếp tục thiết lập Cơ quan Tình báo Trung ương Hàn Quốc (có thẩm quyền cực kỳ lớn là bảo vệ quyền lực và quản lý các cuộc bầu cử) và Ban Kế hoạch Kinh tế (có nhiệm vụ giám sát quá trình công nghiệp hóa nhanh). Trong hệ thống mà ông gọi là “dân chủ hành chính”, Park tiến hành cẩn thận và chắc chắn để tạo nên một bộ máy quan liêu biết trọng dụng nhân tài hơn. [228] Mặc cho nguồn gốc từ quân đội và sự ám ảnh của ông với các nhiệm vụ điều phối kinh tế, nhìn chung Park đã tách các sĩ quan quân đội khỏi những cơ quan chính trong bộ máy quan liêu nhà nước (gồm Ban Kế hoạch Kinh tế và Bộ Tài chính). [229] Khi sự phát triển của các cơ quan quan liêu được phân định rõ ràng và vững mạnh, ông đồng thời cũng đảm bảo nắm quyền kiểm soát cá nhân đối với các cơ quan đó. Dựa trên truyền thống cầm quyền trọng dụng nhân tài lâu đời của đất nước, Park tập trung thẩm quyền quản lý bộ máy quan liêu vào Nhà Xanh và thiết lập kỷ luật như quân đội với những quan chức hàng đầu của mình.
Marcos thừa hưởng một bộ máy quan liêu vốn từ lâu được tổ chức kém và bị kiểm soát bởi những ý đồ nắm giữ đặc quyền của nhiều chính trị gia và các gia đình đầu sỏ. Thay vì tìm cách củng cố các cơ quan quan liêu và bảo vệ các cơ quan này khỏi mạng lưới bảo trợ, Marcos tìm cách tập trung hóa mạng lưới bảo trợ dưới sự kiểm soát của mình. Không có chương trình cải cách bộ máy quan liêu lớn nào dưới quyền tổng thống hiến định của ông; nếu có, ông chỉ làm tồi tệ hơn mức độ minh bạch về tổ chức vốn đã ở mức thấp nhất của bộ máy quan liêu này mà thôi. Bên cạnh việc “sử dụng” quân đội cho các dự án bảo trợ có lợi cho chế độ, ông trắng trợn sử dụng thẩm quyền điều tiết của Ngân hàng Trung ương để cứu trợ cho bạn bè ông và trừng phạt kẻ thù. Không như Park, người xây dựng bộ máy quan liêu nhà nước Hàn Quốc để thúc đẩy các mục tiêu phát triển, Marcos làm suy yếu bộ máy quan liêu Philippin để củng cố một chế độ độc tài triệt để hơn nữa.
Quan hệ chính quyền-doanh nghiệp
Thông qua việc kết hợp các mục tiêu kinh tế rõ ràng hơn với các công cụ thể chế vững mạnh hơn, chế độ của Park trước năm 1972 đạt được sự chuyển biến chính trị-kinh tế mạnh mẽ hơn rất nhiều so với chế độ ở Philippin. Tận dụng quyền lực cao hơn đối với lớp doanh nghiệp đang phát triển, chính phủ buộc phải quốc hữu hóa tất cả các ngân hàng thương mại. Bằng cách kiểm soát mọi nguồn tiền, nhà nước khuyến khích lớp doanh nghiệp vừa mới hình thành và phụ thuộc phải bắt đầu tham gia vào hoạt động sản xuất công nghiệp ngày càng phức tạp được tổ chức quanh các tập đoàn gia đình đa dạng hóa khổng lồ. Các doanh nhân không còn bị tuyên bố là “những kẻ kiếm lợi phi pháp” mà trong nhiều năm họ tiếp tục được điều động theo nhịp điệu phát đi từ các cơ quan hoạch định chính sách kinh tế chính. Kể cả khi này, quyền lực của nhà nước Hàn Quốc cũng không hề tuyệt đối; thay vì vậy, mối quan hệ cộng sinh với doanh nghiệp trong những năm này được mô tả là “hoạt động đổi chác chính trị bất cân xứng”. [230]
Tương tự, có thể nhận thấy khoảng cách quyền lực to lớn ở Philippin vào đầu những năm 1960, tuy nhiên cán cân quyền lực thì ngược lại. Nếu tiền bạc thật sự là quyền lực thì những phân tích của giới tài chính một lần nữa lại là những lời định hướng. Trong khi giới doanh nhân ở Seoul đang bị giam giữ và sau đó mất quyền kiểm soát ngân hàng của họ, thì gần như tất cả các gia đình quan trọng ở Philippin lại tận dụng những khuyến khích mới để thiết lập các ngân hàng tư nhân. Về căn bản, các nguồn lực nhà nước được cung cấp cho ngân hàng, từ đó các chủ sở hữu ngân hàng có thể tự do tạo ra các danh mục cho vay vì lợi ích của các tập đoàn gia đình đa dạng hóa. Nếu ở Hàn Quốc chính phủ sử dụng ngân hàng để thực thi “các mục tiêu kinh tế vĩ mô quốc gia, không phải để kiếm lợi thông qua hoạt động cho vay siêu lợi nhuận”, thì ở Philippin hoàn toàn ngược lại. Quá trình quốc hữu hóa các ngân hàng tư nhân chắc hẳn là không được nghĩ đến; trái lại, các gia đình còn được trao cho cơ hội vơ vét ở không gian công hạn hẹp.
Chiến lược phát triển
Những năm 1960 là thời gian quá độ cho cả nền kinh tế chính trị Hàn Quốc và Philippin. Ở Hàn Quốc, sự cắt giảm viện trợ Mỹ khuyến khích nhiều sự quan tâm hơn vào phát triển xuất khẩu. Các cố vấn Mỹ chống lại hoạt động đầu tư quá nhiều vào các ngành công nghiệp nặng và hóa chất, nhưng Park và các cố vấn của ông phát triển kế hoạch riêng của họ khi thúc đẩy các mục tiêu mà người Mỹ xem là tham vọng điên cuồng. Khoản bồi thường 800 triệu đô-la Mỹ từ Nhật Bản, cũng như khoảng 1 tỷ đô-la Mỹ mà Hoa Kỳ thanh toán cho sự tham gia của Hàn Quốc ở Việt Nam, cung cấp nguồn lực cho cả hoạt động thâu tóm chế độ và các dự án công nghiệp khổng lồ. Khi nền kinh tế Nhật Bản tiến đến các ngành công nghiệp công nghệ cao hơn và mức lương cao hơn, Hàn Quốc bắt đầu áp dụng hoạt động sản xuất thâm dụng lao động và lương thấp từ Nhật Bản. Cuộc đua để đuổi kịp Nhật Bản và vượt qua Triều Tiên tạo ra nỗi ám ảnh tăng trưởng kinh tế nhanh trên cả nước. Thông qua kiểm soát ngành tài chính mà theo nhiều cách gợi nhớ tới quá trình công nghiệp hóa Hàn Quốc thời thực dân dưới sự cai trị của người Nhật, Park sử dụng tập hợp “các công cụ thể chế” theo kiểu Gerschenkron, [231] từ đó cho phép Hàn Quốc đồng thời phát triển nền kinh tế và gia tăng sức mạnh quốc gia. Vào những năm 1970, Park tiến đến ngành công nghiệp nặng; theo công thức riêng của ông, “Thép = Sức mạnh Quốc gia”. “Chắc chắn khi đảm nhận nhiệm vụ chính trị thúc đẩy tiềm lực quốc gia của Hàn Quốc,” Kim Byung-kook viết, Park đã theo đuổi “chiến lược tăng trưởng không cân bằng với vài chaebol được chọn làm các doanh nghiệp độc tôn, được hưởng rất nhiều đặc quyền và lợi ích kinh tế được cung cấp thông qua chính trị”. Chế độ của ông theo đuổi cái mà Woo gọi là “tỷ lệ nợ/vốn chủ sở hữu bất khả thi”, từ đó đảm bảo đất nước luôn trên bờ vực khủng hoảng.
Ở Philippin, Hoa Kỳ cũng đóng một vai trò quan trọng khi cố gắng thiết kế chiến lược kinh tế mới những năm 1960. Tuy nhiên, không như ở Hàn Quốc, lời khuyên của Mỹ không bị cản trở nhiều khi đi qua các ý tưởng chính sách thay thế như khi bị suy yếu bởi tình trạng trì trệ chính sách (không như những người đồng cấp Hàn Quốc, các nhà hoạch định chính sách Philippin không quen với quá trình phát triển do nhà nước dẫn dắt theo phong cách Nhật Bản). Quá trình nới lỏng kiểm soát vào đầu những năm 1960 làm giảm đi đáng kể khả năng định hướng trong chính sách kinh tế của đất nước. Từ quan điểm của một tập đoàn gia đình trị đa dạng hóa của Philippin, mọi việc có lẽ không quá u ám - đặc biệt nếu khả năng tiếp cận đến bộ máy chính trị được ưu đãi tạo ra cơ hội hưởng nhiều đặc quyền đặc lợi: các khoản cho vay từ ngân hàng quốc doanh, sự thiên vị đặc biệt của chính phủ cho các ngân hàng của họ, chiếm và khai thác các nhượng bộ, các khoản miễn thuế ưu đãi, thiên vị trong tính và thanh toán thuế, tường thuế quan đặc biệt hoặc các khoản miễn thuế quan, các thỏa thuận có lợi từ Cục Thuế quan và nhiều nữa. Chính vì chế độ chính sách tổng thể quá thiếu định hướng, nên các gia đình có thể đi theo nhiều hướng để được giàu có hơn. Ở Hàn Quốc, các tài năng tư nhân đều bị điều động khá hiệu quả theo các mục tiêu công; ở Philippin, các nguồn lực công bị vơ vét thậm tệ vì lợi ích của giới đầu sỏ hùng mạnh. Trong khi Park thôi cẩn trọng và liều mình theo đuổi mục tiêu công nghiệp hóa nhanh, Marcos đưa đất nước đến khủng hoảng để đảm bảo sự tái đắc cử của mình năm 1969.
Vượt qua sự chống đối và tập trung hóa quyền lực
Bất chấp những tương phản lớn ở nền tảng cá nhân, mục tiêu, bối cảnh thể chế, quan hệ chính quyền-doanh nghiệp, và các chiến lược phát triển, Park và Marcos có cùng biệt tài tập trung quyền lực chính trị vào vị thế tổng thống và duy trì quyền lực này mặc cho vô số trở ngại. Khi đối mặt với chống đối, cả hai chứng tỏ mình là những lãnh đạo nhẫn tâm sẵn sàng dùng bất cứ cách nào - kể cả phá hủy các thể chế dân chủ - để giữ quyền lực cho bản thân.
Ở các cuộc bầu cử năm 1971, Park lần đầu tiên đối mặt với một đối thủ chính trị đe dọa vị trí của ông; ông xoay sở đánh bại Kim Dae-jung với cách biệt nhỏ, nhưng trong quá trình đó Đảng Cộng hòa Dân chủ của ông đã đánh mất vị thế đa số hai phần ba cần thiết để điều chỉnh hiến pháp. Rõ ràng là nền tảng ủng hộ chính trị của Park đã suy yếu, đặc biệt ở các vùng thành thị cũng như ở các vùng nông thôn, nơi sự hiện diện của nhà nước rất không được chào đón. Trong khi đó, Kim Dae-jung tận dụng được nguồn căm tức chống chính phủ khổng lồ ở vùng Jeolla. Khi không còn lựa chọn hợp hiến nào nữa để kéo dài sự cầm quyền, Park dùng đến các phương pháp cực đoan hơn. Ông tuyên bố tình trạng khẩn cấp quốc gia vào cuối năm 1971, và sau đó là thiết quân luật tháng 10 năm 1972. Như David I. Steinberg lý giải, việc chọn thời điểm “không phải không liên quan đến thực tế rằng ba tuần trước đó, khi không có sự phản đối công khai của Mỹ, Tổng thống Marcos ở Philippin cũng đã tuyên bố thiết quân luật. Người ta cho rằng Tổng thống Park đã yêu cầu ban cố vấn của ông theo dõi phản ứng của Mỹ với bước đi đó, và khi Washington không phản đối, Park cảm thấy được tự do đi theo định hướng riêng của ông.”
Tuyên bố thiết quân luật của Marcos ra đời sau những năm khó khăn về kinh tế và hỗn loạn chính trị gia tăng. Suốt những năm 1960, sinh viên Philippin ngày càng bị chính trị hóa và cực đoan hóa, bị kích động bởi các vấn đề ở trường, sự hiện diện của các căn cứ Mỹ, chiến tranh với Mỹ ở Việt Nam và hoạt động triển khai quân đội Philippin ở nước này, cấu trúc xã hội bất công và nhu cầu cải cách ruộng đất, gian lận bầu cử cùng nhu cầu cải cách hiến pháp. Đảng Cộng sản mới của Philippin chính thức khởi động vào cuối năm 1968, tuyên bố thế mạnh của mình là đấu tranh du kích ở nông thôn nhưng lại đạt được thành công lớn nhất ở thành thị, đặc biệt là từ giới sinh viên. Sự kiện tái đắc cử của Marcos là một vấn đề gây rất nhiều tranh cãi, vì tất cả các ứng viên (dẫn đầu là Marcos) đều báo cáo đã sử dụng số tiền tương đương với gần một phần tư ngân sách quốc gia. Khi hoạt động xuất khẩu của đất nước trì trệ, khoản chi tiêu phung phí khổng lồ cho tranh cử này đã gây ra cuộc khủng hoảng cán cân thanh toán, tiếp đó là đợt phá giá tiền tệ làm gia tăng lạm phát. Tình hình này càng làm tăng cao yêu cầu thay đổi từ quần chúng. Đầu năm 1970, các cuộc biểu tình sinh viên trong Cơn bão Quý I mà ngày nay đã trở thành huyền thoại chạm đến cổng Dinh Malacafiang.
Cũng như Park thay đổi hiến pháp năm 1969 để tránh giới hạn hai nhiệm kỳ sẽ truất quyền ông vào năm 1971, Marcos cũng cố gắng điều chỉnh giới hạn hai nhiệm kỳ hiến định vốn có thể sẽ truất quyền ông này vào năm 1973 (dựa trên tinh thần cải cách vốn đã tồn tại theo hướng làm trong sạch chính trị Philippin, đạt đến đỉnh cao ở sự kiện mở màn Hội nghị Lập hiến vào tháng 6 năm 1971). Tuy nhiên, không giống Park năm 1969, Marcos phải đối mặt với một hệ thống bất mãn phát triển hơn nhiều của giới quý tộc trong các thể chế dân chủ lâu đời, cũng như sự chống đối mạnh mẽ từ xã hội hơn nhiều; kết quả là ông bất ngờ gặp phải khó khăn to lớn hơn nhiều khi chuẩn bị cho một quá trình thay đổi hiến pháp nhẹ nhàng và dễ dự đoán. Marcos gặp thiệt hại lớn trong cuộc bầu cử quốc hội năm 1971 với những lợi ích lớn mà phe đối lập giành được và mức độ “chủ nghĩa phản đảng” thậm chí còn cao hơn đối với đảng cầm quyền mà các tổng thống trước đây chưa từng gặp phải ở các cuộc bỏ phiếu giữa nhiệm kỳ. Như Thompson lý giải, Marcos phạm phải “hai tội lỗi chính trị”: Gia đình và bạn bè được thiên vị hơn rất nhiều so với các đồng chí trong đảng khi phân chia sự bảo trợ của nhà nước, và vị tổng thống này đã cố gắng áp đặt ý tưởng đưa Đệ nhất Phu nhân lên kế nhiệm ông làm ứng viên tổng thống của Đảng Quốc gia năm 1973. Các cuộc bầu cử đạt đến những giới hạn bạo lực mới, điển hình là vụ đánh bom vào cuộc họp thượng viện của đảng đối lập vào tháng 8 năm 1971.
Phải đối mặt với sự tụ hợp của một nền kinh tế đình trệ, tình trạng căng thẳng với giới sinh viên, phe đối lập chính trị lớn mạnh và các vấn đề đòi hỏi bản hiến chương phục vụ cá nhân của ông phải thay đổi thông qua Hội nghị Lập hiến, Marcos xem thiết quân luật là lựa chọn tốt nhất để duy trì chế độ của ông. Một bước đi cực đoan như vậy đòi hỏi sự chuẩn bị cẩn thận, đặc biệt vì Marcos không có một yếu tố vô cùng quan trọng ở Park: một mối đe dọa bên ngoài “bao trùm nhưng cũng thuận tiện để đàn áp sự chống đối ở trong và ngoài nước trong bất kỳ hành động nào mà chính phủ định thực thi”. Thay cho năng lực thao túng chính trị của mình, Marcos xây dựng một âm mưu nhằm dấy lên nỗi sợ hãi trong quần chúng rồi từ đó biện minh thiết quân luật là cách duy nhất để đất nước tự bảo vệ được mình khỏi nhiều mỗi đe dọa mất trật tự. Tháng 8 năm 1972, Manila bị chấn động bởi các vụ đánh bom hàng loạt được đổ lỗi cho Đảng Cộng sản tuy vẫn bị nghi ngờ vào lúc đó (và sau này xác nhận lại) là được điều phối bởi chính Dinh tổng thống. Màn kịch cuối diễn ra ngày 21 tháng 9 năm 1972 khi Tổng thống Marcos tuyên bố thiết quân luật và từ đó chấm dứt hơn 35 năm các thể chế dân chủ sau chiến tranh.
So sánh hai chế độ độc tài về chế độ, nhà nước, nền kinh tế và xã hội giai đoạn 1972-1979
Vì vậy, gần như cùng lúc, hai lãnh đạo lớn của châu Á đều sử dụng thiết quân luật để đảm bảo chế độ của họ - Park dùng khi ông không thể có được nhiệm kỳ thứ tư thông qua các phương tiện hợp hiến, và Marcos dùng khi ông phải đối mặt với các khó khăn lớn để có được nhiệm