⚝ II ⚝ SỰ TÍCH NIỀM TIN VÀO THẮNG LỢI CUỐI CÙNG
Dĩ nhiên, niềm tin vào thắng lợi cuối cùng của chúng ta không phải vô căn cứ. Chúng ta đã thắng từ năm 1945, 1954, 1960, 1965, 1968, 1972, 1973,... thắng từng bước - những bước chắc chắn, vững vàng như thế đứng Trường Sơn. Nhưng trước mùa xuân 1975, chúng ta vẫn thường tự hỏi, bao giờ thì thắng lợi hoàn toàn, thắng lợi vĩnh viễn; bao giờ thì ước nguyện cao cả của chúng ta là đất nước được thống nhất mở ra sau đại thắng của cách mạng Việt Nam? Bao giờ đấy hở thời gian?
Không ai tiên đoán được ngày 10 tháng 3 năm 1975 ta giải phóng hoàn toàn thị xã Buôn Mê Thuột buộc địch sau đó phải rời bỏ toàn Tây Nguyên. Không ai tiên đoán được ngày 25 tháng 3 năm 1975 nhiều mũi tiến công đã bao vây chia cắt rồi chọc thủng vào Huế, cắm cờ lên cửa Ngọ Môn. Không ai tiên đoán được chỉ bốn hôm sau ngày 29 tháng 3 năm 1975 chúng ta lại tiêu diệt cả một đạo quân: hàng chục vạn tên ở Đà Nẵng. Lại càng không thể tiên đoán được cái ngày rực rỡ nhất của dân tộc ngày 30 tháng 4 năm 1975 kết thúc chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, lá cờ vinh quang của ta đã phấp phới bay trên dinh "Độc Lập" sào huyệt cuối cùng của ngụy quyền Sài Gòn.
Còn nhớ buổi chiều nắng nỏ ấy, tôi đang quét dọn vệ sinh ngoài đường, chợt thấy nhiều anh em chạy từ sân vào nhà trong tiếng gọi nhau í ới: "Sài Gòn giải phóng rồi! Sài Gòn giải phóng rồi!". Chúng tôi đứng im lặng vòng quanh chiếc đài bán dẫn nghe cô phát thanh viên với giọng xúc động khác thường đọc bản tin chiến thắng. Sau này tôi mới nhớ ra là giữa lúc tiếng vỗ tay hoan hô trong đài cứ vang vang, không hiểu sao anh em chúng tôi ngồi im như tượng. Cho đến khi có một người bạn khóc lên vì sung sướng, mọi người mới sực tỉnh và hầu như ai cũng lau nước mắt. Bây giờ là đến không khí hả hê.
– Trời ơi, tuyệt quá! Thiệt không ngờ!
Thiệt không ngờ! Đấy là một tiếng reo. Không ngờ sự việc vĩ đại ấy lại xảy ra ngày hôm nay, xảy ra mau lẹ như thế? Thốt lên hai tiếng không ngờ vì cảm giác của ta vẫn còn gắn chặt với những ngày cách đây chưa xa. Những ngày còn chịu bom chịu pháo trong những khu rừng sũng nước lầy lội, những ngày phải chôn cất bạn bè, băng bó cho đồng đội. Những ngày chia nhau nửa bánh lương khô, nhường nhau hớp nước trong bi đông để đương đầu với một đội quân tay sai nước ngoài hàng triệu tên. Chao ôi! Chỉ trong thời gian ngắn như thế ta đã đè bẹp hoàn toàn một đạo quân hàng triệu tên với trang bị hiện đại của Mỹ. Thốt lên hai tiếng không ngờ, vì thực ra không ai tiên đoán được cái mốc cụ thể của thời gian xảy ra sự kiện lịch sử. Không tiên đoán được nhưng lại rất tin vào ngày thắng lợi hoàn toàn. Dường như ai cũng linh cảm được điều đó đã tới gần, tới mỗi lúc một gần. Tất yếu lịch sử sẽ như thế. Y như dòng sông nào cũng chảy về biển cả, như trái cây trên cành còn xanh tất một ngày kia sẽ chín... Có thể kể ra hàng trăm hàng nghìn câu chuyện về niềm tin này. Trong hơn hai mươi lăm năm bộ đội, tôi đã nhiều lần chứng kiến giây phút cuối cùng của đồng đội hy sinh, nhiều lần tiễn biệt bạn bè đi làm nhiệm vụ và cẩm chắc sẽ không trở về. Trong những lời trăng trối, những lời dặn dò thật nhất ấy, tự đáy lòng nhất ấy bao giờ cũng lấp lánh niềm tin tất thắng.
Bây giờ không phải vì thắng lợi hoàn toàn rồi ta muốn nói thế nào thì nói, ta tha hồ lý lẽ về niềm tin, ta tha hồ biện luận về sự tiên tri của ước mơ. Đành rằng, cơ sở niềm tin vào thắng lợi cuối cùng của chúng ta là dựa trên tính lô gích của xu thế phát triển xã hội. Nếu ở xa một chút, đứng ngoài rìa cuộc sống một chút mà ngắm nhìn, mà cảm thụ, ta dễ thấy cuộc chiến đấu thật đẹp đẽ, thật lãng mạn. Và với một tấm lòng thành thật, ta sẵn sàng tin vào thắng lợi cuối cùng, một niềm tin còn dễ dãi còn quá mau lẹ. Hãy giáp mặt với cuộc sống, hãy giáp mặt với cuộc chiến đấu khốc liệt có một không hai trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta, ta mới thấy hết giá trị của niềm tin. Có được niềm tin vào thắng lợi cuối cùng quả là một thứ vàng đã thử lửa. Ở chiến trường Trị Thiên - Huế, tôi chưa phải là chiến sĩ lâu năm nhất, có nhiều anh lăn lộn từ những ngày đầu Cách mạng tháng Tám. Tuy vậy, đã qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp rồi chống Mỹ, tôi thấy những thử thách ở chiến trường đối với ý chí chiến đấu của người chiến sĩ thật khắc nghiệt. Giờ đây lớp người chúng tôi còn lại không nhiều, nhưng ít ai dám nói mạnh rằng, suốt bao nhiêu năm vào sống ra chết, không có trường hợp nào hoàn cảnh nào đã có thể ảnh hưởng tới niềm tin sắt đá của mình, dù chỉ trong chốc lát. Hiển nhiên là có những kẻ dao động ngả nghiêng, những người giảm sút lòng tin, thoái thác nhiệm vụ, trốn tránh chui rúc vào những nơi an toàn. Thậm chí có những người mất hết lòng tin, trụy lạc và suy thoái đã trở thành những tên phản bội, chạy sang hàng ngũ địch, làm hại cách mạng. Số người này không nhiều nhưng cũng không phải ít. Lịch sử sẽ lướt đi trên đầu họ như lớp sơn màu quét lên vết bẩn trên bàn. Họ là những kẻ chiến bại, không có gì đáng nói tới. Đáng nói đến là những người đã chết, những người còn sống hôm nay - những người đã đứng vững qua bao nhiêu thử thách để trở thành người chiến thắng.
Quả thật, niềm tin không chỉ là khái niệm, trừu tượng nữa, mà đối với chúng tôi, có khi hầu như quá cụ thể đến nỗi mình có thể nắm bắt được, sờ thấy được. Nó hiện lên trên khuôn mặt từng người khi nổ súng, giữa trận B.52, lúc đói khát, bệnh tật, lúc lọt giữa vòng vây, khi nằm hầm bí mật dưới mũi thuốn đi xăm của thằng địch... Nó còn hiện lên khuôn mặt từng người qua từng bước thăng trầm của cuộc chiến đấu ròng rã ba mươi năm nay. Ba mươi năm chiến đấu với những kẻ thù hung ác và tàn bạo nhất của loài người tiến bộ. ôi! Thời gian! Qua bao nhiêu thắng lợi và đau thương, thời gian hôn lên trán ta những nếp nhăn của tuổi tác, nhưng đồng thời như một phép nhiệm mầu - thời gian ưu ái dành cho ta sự rắn rỏi chín chắn trong suy tư củng cố bồi đắp niềm tin cho ta, dành cho ta sự tích lũy cần thiết về ý chí và năng lực để chiến thắng hoàn toàn.
Lớp người tóc muối tiêu chúng tôi, khi rỗi rãi ngồi uống nước trà tán chuyện với nhau, thường gặp nhau ở một cảm giác chung. Hầu như ai cũng ngạc nhiên không hiểu sao mình còn sống nổi tới ngày hôm nay. Có anh còn nói đùa rằng mình sống như vậy là có lãi. Đấy là một cách nói để so sánh với những người bạn đã hy sinh khi còn trẻ. Dẫu sao, chúng tôi cũng còn thời gian để lập gia đình sinh con đẻ cái. Con cái chúng tôi đã có đứa trưởng thành. Ở cơ quan quân khu bộ, khối trường hợp hai cha con là đồng đội đồng chí của nhau. Rõ ràng là hai thế hệ, đấy là chưa kể trường hợp cá biệt, ba thế hệ cùng có mặt ở chiến trường. Thế mới biết thời gian để chiến đấu đã quá dài, thời gian đủ để sinh sôi hai hoặc ba lớp người. Lớp người đi trước giàu sức sống, giàu nghĩa tình. Lớp người trẻ tuổi đi sau sung sức và nhạy cảm. Hai lớp người hòa chung tiếng súng chiến đấu, hòa chung lời ca truyền thống cách mạng. Những lúc nằm đu đưa trên võng trong rừng, những lúc ngồi quây quần bên ngọn lửa đêm, chúng tôi - lớp người đi trước và lớp người đi sau thường kể về những tên đất, tên người quen biết, tâm sự với nhau về vết sẹo trên mình, về những ấn tượng mạnh mẽ cuộc đời chiến sĩ. Tất cả những tâm sự, những nỗi niềm của chúng tôi đều là những kỷ niệm vui buồn gắn chặt với mảnh đất Trị Thiên - Huế thân yêu. Những lúc tâm hồn dễ rung động nhất, dễ nhạy bén nhất ấy, chúng tôi chợt hiểu ra rằng, niềm tin vào thắng lợi cuối cùng không phải từ ý muốn chủ quan hoặc từ một sự truyền bá nào. Mà chính là từ những kỷ niệm chiến đấu mình tích lũy được và đã biến thành ý chí và tình cảm của bản thân. Mỗi người có những kỷ niệm riêng đã trở thành vốn liếng tình cảm riêng, nhưng đồng thời lại có những kỷ niệm chung của cả vùng đất.
Sau ngày Huế được giải phóng, rất nhiều đồng bào tới thăm bộ đội. Phổ biến nhất là các bà mẹ từ năm mươi tuổi trở lên. Hôm tôi đến công tác ở một đại đội thuộc trung đoàn Phú Xuân cũng gặp một bà mẹ cỡ tuổi như vậy đến thăm. Bà mẹ tóc đã có vài sợi bạc, ăn mặc khá lịch sự, dắt một cháu gái cỡ tám tuổi. Bà xưng hô với cán bộ, chiến sĩ trong đơn vị bằng mẹ và con rất tự nhiên, nhưng khi thấy tôi thì bà gọi tôi bằng cậu và tự xưng bằng chị. Kể cũng phải. Điều đáng chú ý là lúc bà mẹ tặng quà cho đơn vị. Bà lấy trong làn ra một cái khay khảm bạc và đặt lên trên đó hai tút thuốc lá Cáp-tăng, rồi với một dáng dấp kính cẩn, bà nâng cái khay lên ngang tầm mắt y như người ta đang rượu lúc cúng tế. Chính trị viên đại đội - một thanh niên mới ngoài hai mươi tuổi, tỏ ra hết sức lúng túng và ngượng ngùng. Cuối cùng anh ta cũng đỡ lấy cái khay và kêu lên: “Cảm ơn mẹ! Mẹ đừng làm thế”.
“Đừng làm thế”, nghĩa là đừng dâng một cách kính cẩn như vậy. Riêng tôi, tôi lại hết sức xúc động vì đã bắt gặp lại hình ảnh này trong buổi lễ thành lập chi đội Trần Cao Vân lực lượng vũ trang đầu tiên của Thừa Thiên - Huế cũng như trong các buổi úy lạo bộ đội Nam tiến. Đi theo các đoàn đại biểu của mặt trận Việt Minh tỉnh và thành phố là các cô gái cỡ hai mươi. Các cô bận áo dài nâu, tay bưng một cái khay trên đó đặt một lá cờ và một cây kiếm. Sau lời chúc mừng của đại biểu là lễ dâng kiếm dâng cờ. Các cô gái bước tới, tay nâng cái khay lên ngang tầm mắt. Anh đại biểu Vệ quốc đoàn trịnh trọng đến nhận tặng phẩm tượng trưng cho nhận một lời thề danh dự, thề hy sinh chiến đấu cho Tổ quốc. Đấy là chuyện ngày xưa. Nhưng, phải chăng bà mẹ hôm nay là một trong những cô gái đi úy lạo Vệ quốc đoàn ngày xưa. Chắc hẳn người mẹ cũng hết sức xúc động vì đã tìm lại được bóng dáng mình thời con gái. Ngày xưa, đến thăm anh Vệ quốc quân đội mũ ca-lô đeo ngôi sao vàng thêu bằng kim tuyến, vai quàng xiên chiếc chăn đơn. Bây giờ tới thăm anh Giải phóng quân đội mũ tai bèo khoác ba lô con cóc... Cái gạch nối thời gian ở giữa là 30 năm. Ba mươi năm sau, người con gái đã có cháu gọi bằng bà ngoại. Ba mươi năm... Bây giờ tôi có cảm giác như chợt sực tỉnh: thế là mình đã trở về với Huế rồi, trở về thực sự rồi. Tôi đã đứng đây; trong ngôi nhà mà cách vài hôm còn là dinh tỉnh trưởng ngụy. Cờ ta đang bay trên cột cờ thành nội bên kia sông. Huế hoàn toàn yên tĩnh: ngoài kia, xe cộ và đủ các hạng người đi lại bình thường. Những nét mặt vui vẻ hân hoan, những nét mặt ngỡ ngàng và cũng có những mái đầu cúi xuống. Dẫu sao, tất cả đều yên tĩnh, đều trở lại bình thường... Các quân đoàn đang đánh sâu vào trong kia. Ba mươi năm... Những anh Vệ quốc quân chúng tôi và những anh chiến sĩ Giải phóng - lớp đàn em chúng tôi đều đã trở về với Huế thân yêu. Ôi, nào phải ba mươi năm nín lặng đâu mà là ba mươi năm bão táp. Ta đã làm gì để hôm nay có thể nói với Huế rằng, niềm tin tất thắng của ta là chính xác hỡi người anh em?
Ba mươi năm là câu chuyện dài của một đời người. Ba mươi năm chiến đấu càng là câu chuyện quá dài của một vùng đất. Ba mươi năm chiến đấu cho niềm tin có ngày hôm nay thành sự thật là cả một sự tích lạ kỳ...
⚝ ⚝ ⚝
Câu chuyện về những sự tích kỳ lạ của vùng đất Trị Thiên - Huế muốn chép lại phải hàng pho sách, mà kỷ niệm của từng người trong anh em chúng tôi chỉ là những mảnh rời rạc. Thực sự, kỷ niệm rời rạc của từng người đều gắn chặt với những giai thoại đã thành truyền thuyết của hai cuộc chiến đấu chống Pháp và chống Mỹ trên đất Trị Thiên chúng ta.
Khi Trị Thiên - Huế đã được hoàn toàn giải phóng, khi chúng tôi đã thực sự về với Huế rồi, tâm trạng chúng tôi đôi lúc bất chợt xúc động quay về với nỗi khôn nguôi của mình: những kỷ niệm vui buồn cuộc đời chiến sĩ. những bước thăng trầm của cách mạng Trị Thiên - Huế. Những lúc được chút thời giờ rỗi rãi, hoặc đi bách bộ trong khu Mang Cá, hoặc ngồi trong quán nước bên bờ sông Hương, hoặc lên đường đạp xe đi công tác xuống các đơn vị, chúng tôi lớp người ngoài bốn mươi thường nhắc tới chuỗi ngày quá khứ. Từ câu chuyện anh em tự vệ đường phố Huế đem rơm trộn ớt đốt nhà Mô-ranh, hi vọng làm cho giặc Pháp cố thủ ở đấy sặc khói không chịu được phải mò ra, đến chuyện những anh Vệ quốc quân thuộc chi đội Trần Cao Vân chúng tôi dàn ra trên những tuyến chiến hào phòng ngự quá sơ sài ở đèo Phước Tượng, Mũi Né với súng trường “mút-cơ-tông” và mã tấu, để ngăn chặn quân Pháp đổ bộ từ bờ biển Cảnh Dương lên. Thời kỳ hào hùng và ngây thơ ấy được gợi lại với giọng điệu vui vẻ pha đôi chút châm biếm. Để sau đó, câu chuyện của chúng tôi lại trở nên nghiêm chỉnh khi nói về một thời kỳ tự hào và quật khởi. Đấy là câu chuyện về phong trào "ôm hè" - tay không giết giặc khởi đầu từ những đội du kích Ba Lăng - Quảng Xuyên, đã nhanh chóng lan khắp nông thôn Bình Trị Thiên. Đấy là những chiến công lẫy lừng ở Thanh Lam Bồ, Dương Hòa, Thanh Hương, Đồng Dương, Ba Dốc, Xuân Bồ,... và nhất là những đòn tiến công sấm sét trong chiến dịch mùa xuân năm 1954, phối hợp với Điện Biên Phủ. Trong câu chuyện của chúng tôi có cảnh tượng xác lính Pháp trôi đầy sông Dương Hòa, có lửa bom na-pan ném xuống Kê Môn - Đại Lược, có tiếng reo vui khi kéo khẩu pháo 75 ly lấy được của giặc Pháp trong trận Ba Dốc, có những chuyến đò đêm từ Ba Lòng xuống Trầm; có những cuộc hành quân vượt phá Tam Giang. Chuyện gợi lại hồi đánh Pháp của chúng tôi thường không thể bỏ qua những ngày đói cơm đói muối, chấy rận đầy người; những bộ quân phục bằng vải "xi-ta", những khẩu súng "tuyn", súng "mát". Lại càng không thể không nhớ tới những đêm lửa trại ở Phong Chương, ở Cùa; những ngày luyện tập nghỉ ngơi ở vùng biển Mỹ Lợi, Mỹ Á,... cuối cùng, một người bạn trong số chúng tôi nhắc lại cảm giác của mấy tên Pháp tù binh. Đấy là những cảm giác hốt hoảng sợ hãi thường xuyên ám ảnh đầu óc tụi lính thực dân. Tưởng như trên đất Trị Thiên, nơi nào chúng đi, chúng dừng cũng có lửa sẵn sàng bốc cháy ngay từ dưới chân. Trong như trong từng cơn gió Lào cuốn theo cát bụi, có sức mạnh vô hình nào đó có thể cuốn luôn cả tụi chúng ra tuốt Thái Bình Dương. Chúng lấy làm ngạc nhiên tại sao mảnh đất có nhiều cồn cát vàng cồn cát trắng; có nhiều đầm nhiều phá, có cố đô yên tĩnh trầm mặc - cái xứ có nhiều cô gái duyên dáng nghiêng đầu dưới chiếc nón bài thơ, mảnh đất dịu hiền là thế mà không một chỗ đứng ấm chân, một bước đi thanh thản cho đội quân xâm lược nước ngoài.
Thực dân Pháp đã cuốn xéo và những truyền thuyết về chín năm đánh Pháp thì vẫn ở lại với nhân dân ta, ở lại với chúng tôi. Đế quốc Mỹ giàu có và hợm hĩnh đã vào thay chân thực dân Pháp mà không chịu coi trọng những sự tích kỳ lạ của vùng đất này. Trong anh em chúng tôi, có người tập kết ra Bắc, người ở lại tiếp tục xây dựng phong trào. Lúc này, câu chuyện thuộc về người ở lại. Đây là những câu chuyện đau lòng dưới thời Mỹ - Diệm với những vụ thảm sát Hướng Điền, Vĩnh Lộc, với cảnh tượng xác người bị đâm, bị chém, bị bóp cổ, bị dìm nước nổi lềnh bềnh trên các con sông khắp Trị Thiên: sông Thạch Hãn, sông Vĩnh Định, sông Ô Lâu, sông Bồ, sông Hương,... Những người bị giết chỉ có cái tội là dám đòi hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất nước nhà. Có những kỷ niệm đau buồn không được ai nhắc tới vì người mang kỷ niệm đã chết. Trong chúng tôi, không ai có thể nhớ hết các đồng chí trong đảng bộ Trị Thiên đã hy sinh trong thời kỳ đen tối ấy như thế nào đâu. Bây giờ là sự im lặng vĩnh viễn của đất. Chúng tôi bảo nhau, hãy trân trọng nhắc tới những đồng chí đã nằm trong đất thay bằng thắp một nén nhang để báo tin rằng chúng tôi đã làm tròn nhiệm vụ trả thù. Câu chuyện chúng tôi nói về một đồng chí có tuổi có tên nay đã hy sinh. Hồi đó đồng chí đã phải sống những năm cô độc trong rừng, râu tóc dài như người vượn, ăn rau ăn củ rừng, vài ba tháng lại xuôi vùng Đá Bạc quét lớp muối đọng trong các hốc đá, làm quen với chim, quên mất tiếng nói và tập được lối đi như con heo con cọp để xóa dấu tích quanh hang hốc mình ở. Để một ngày kia bắt liên lạc được với Đảng với nhân dân mà chiến đấu! Cuộc chiến đấu được nhen lên khởi đầu từ những đốm lửa hắt hiu như thế.
Ôi, nhớ sao mùa xuân 1960, mùa xuân chúng tôi lại bắt đầu xây dựng chiến khu. Thời kỳ đó, chúng tôi mở đường mòn xuyên rừng mà đi. Có lẽ khó quên cái cảnh chui qua cống rãnh đường 9, đóng bè chuối vượt sông Thạch Hãn rồi lần mò đi đêm này qua đêm khác. Những khẩu súng, viên đạn có khi nằm giữa bó củi để ô tô chở về dưới Ba Lòng, Mai Lĩnh hoặc vô tận Nam Đông, Khe Tre,... Khi con người tỉnh ngộ thì khẩu súng, viên đạn tự khắc biết cách đi tới nơi cần tới. Để có đường dây đầu tiên của cách mạng, để có những đơn vị đầu tiên của Trị Thiên. Đấy là thời kỳ chúng tôi im lặng phát rẫy tự nuôi mình, im lặng đi vào nhân dân trên A Lê Thiêm, A Lê Lốc, miền tây Hương Hóa. Để một thời gian ngắn sau đó, chúng tôi đã đàng hoàng uống rượu doác nhắm với thịt nai nướng cùng các pả, các a-ăm [11*] trong các bản làng Vân Kiều, Pa Cô giải phóng, đàng hoàng cùng nhân dân lập các tuyến phòng thủ bằng chông thò, cạm bẫy để bảo vệ các xu [12*] , các chòi. Vùng rừng đã đỏ lửa cùng với những trận chiến đấu nổi tiếng của Vai, của Kan Lịch.
Trong anh em chúng tôi, có người hoạt động ở cơ sở trong thành phố đã kể về nỗi kinh hoàng của địch khi tiếng tăm của anh bộ đội Giải phóng từ trên rừng bay về. Cùng với tiếng tăm ấy, màu sắc lá cờ Mặt trận giải phóng khi xuất hiện là thắp sáng niềm tin cho đồng bào ta từng để thương để nhớ đến người đi tập kết năm xưa. Đồng chí hoạt động cơ sở trân trọng nhắc lại ngày bà con thành phố Huế xuống đường, trận xuống đường đầu tiên. Những chiếc xe tăng Mỹ mang tên Ngô Đình Khả cùng với cái ký hiệu ngoáo ộp: đầu lâu đặt trên hai xương chéo - tượng trưng cho cái chết, đã chồm lên. Dùi cui báng súng của đủ các loại sắc lính đã bổ xuống. Máu người Huế đổ dưới xích xe tăng Mỹ, dưới sự tàn bạo của Mỹ. Và sau đó là triều đình họ Ngô sụp đổ. Nhân dân Trị Thiên đã nhất tề đứng dậy đồng khởi. Câu chuyện đồng khởi thật giản dị, một đêm nào đó, tiếng mõ vang lên từ đầu thôn đến cuối thôn, nhân dân ùa ra châm lửa đốt hết hàng rào trói, buộc, cắt tung kẽm gai, bắt hết bọn tay sai ác ôn. Sáng mai dậy cờ giải phóng bay khắp thôn, và nhân dân cầm súng(những khẩu súng hôm qua còn trong tay kẻ địch) đề giữ lấy vừng đất, khoảng không gian cùng những con người vừa được tự do.
Năm 1965 là thời kỳ rực rỡ của Trị Thiên, thời kỳ đánh bại chiến tranh đặc biệt của Mỹ. Từng tiểu đoàn, rồi từng trung đoàn bộ đội Giải phóng được thành lập. Chúng tôi đã về đứng chân ở giáp ranh - cái thế chiến lược quan trọng của dải đất miền Trung, cái thế sẵn sàng đổ lên đầu quân địch những đòn sấm sét. Kỷ niệm về những ngày ấy là những kỷ niệm đẹp đẽ còn lưu lại trong trí nhớ chúng tôi như một thời vàng son. Chúng tôi từng tắm mát ở phá Tam Giang, từng đạp xe đi từ Phò Trạch về tận Sịa. Đã về Trương Lưu, Đông Đỗ xây dựng làng chiến đấu chống càn; đã sang Mỹ Lợi ăn cam, ra Gio Lễ, Cam Bình hái chè nấu nước... Chiến tranh đặc biệt của Mỹ đã thảm bại trong thời vàng son của chiến trường Trị Thiên chúng tôi. Và chiến tranh cục bộ bắt đầu khi xuất hiện những thằng Mỹ bằng xương bằng thịt với xe tăng M.48, với đại bác 175 ly, với máy bay các loại A, loại F, với chất độc hóa học bom rải thảm, với bình xăng đặc ném lên mái tranh, với súng phun lửa phụt vào địa đạo. Ở Việt Nam nói chung và ở Trị Thiên ta nói riêng, đứng về mặt toán học mà nhận xét, dường như có một công thức sau đây: những sự tích chiến công kỳ diệu tỷ lệ thuận với cường độ tội ác và tàn bạo của kẻ địch. Bấy giờ là thời kỳ chúng tôi thực hiện khẩu hiệu "nắm lấy thắt lưng Mỹ mà đánh". Câu chuyện của chúng tôi kể về anh xã đội phó Nguyễn Viết Phong đã chỉ huy một tổ du kích quần nhau với hàng tiểu đoàn Mỹ ở ngay sát nách căn cứ Phú Bài và Ấp Năm. Nguyễn Viết Phong đã thắng lợi vẻ vang. Sự tích này thay cho lời kết luận về sức mạnh Mỹ, rồi những sự tích thắng Mỹ vang dội khác lại xảy ra ở Gio An, ở Phong Chương, Động Tòa, khách sạn Hương Giang,v.v. Anh bạn hoạt động cơ sở nội thành lại kể về người Huế liên tiếp xuống đường dùng đá, chai cháy ném vào cảnh sát, đốt nhà thông tin Mỹ, phá hàng rào kẽm gai của Mỹ, tự ý rào đường Duy Tân. Còn chúng tôi thì kể chuyện đường 9, mảnh đất đẫm máu mà sẽ còn là nỗi kinh hoàng từ cả trong giấc chiêm bao của tên lính Mỹ nào may mắn sống sót. Tụi lính cổ da thuộc sư đoàn 3 thủy quân lục chiến, tụi lính dù thuộc sư đoàn 101 Mỹ đều đã no đòn ở đấy. Chắc hẳn nỗi khiếp sợ của lính Mỹ còn lưu truyền lại đời con đời cháu. Vết thương này là ở khe Sanh. Cánh tay kia bỏ lại trên cao điểm 2-11. Thằng Uy-li am này chết vì cối 82 ly. Thằng Đắc-uyn nọ tử thương vì B.41.
Giống như tụi lính Pháp trước kia, những tên lính Mỹ bắt đầu ngạc nhiên về mảnh đất nom dịu hiền này, chúng cảm thấy không yên ổn, hoàn toàn không yên ổn. Chúng đến đây bằng những thằng người hung hãn, và ra về trong những túi ni lông.
Rồi câu chuyện của chúng tôi trở nên rôm rả hẳn lên, sinh động hẳn lên khi nói về mùa xuân 1968, về trận tập kích chiến lược tết Mậu Thân.
Trong câu chuyện này, sự tích kỳ lạ nhất là nghệ thuật giữ bí mật bất ngờ. Chúng tôi xuýt xoa ôn lại với nhau về công tác chuẩn bị chu đáo từ trên rừng đến dưới đồng bằng và trong thành phố. Chợt nhớ ơn các đồng chí địa phương đã lo cho chúng tôi từ bát gạo, cái hầm, con thuyền, đến những đồng chí giao liên được gọi là “hoa tiêu” dẫn chúng tôi đi về thành phố. Chợt cảm ơn và kính cẩn nhắc tới những đồng đội trên đường hành quân bị pháo vùi bom dập, bị sóng nước cuốn trôi, thân chịu chết chứ không hề kêu la một tiếng cố giữ cho cuộc hành quân bí mật. Khó mà tưởng tượng được nhiều mũi tiến quân khổng lồ với lỉnh kỉnh trang bị, vượt qua hàng đồn bốt địch, vượt qua bao nhiêu xóm làng, sông ngòi, kênh rạch, dưới tầm kiểm soát của các loại phương tiện trinh sát trên không, dưới mặt đất của địch mà vẫn giữ được bí mật tuyệt đối cho đến giờ nổ súng. Kỷ niệm về trận tập kích Mậu Thân trong anh em chúng tôi mỗi người một vẻ, nhưng đều gắn chặt với dáng tự hào của lá cờ Giải phóng bay chót vót trên cột cờ thành nội trong hai mươi lăm ngày đêm. Hai mươi lăm ngày đêm ở lại thành phố Huế với những trận chiến đấu đẫm máu, ác liệt. Thành phố rung chuyển trong tiếng bom, tiếng đại bác cùng tiếng súng các loại. Đất dưới chân nóng bỏng. Không khí sặc mùi lưu huỳnh. Cửa Đông Ba và con đường Mai Thúc Loan đã trở thành những chốt thép, nơi bộc lộ đến tột cùng lòng quả cảm của chiến sĩ Giải phóng. Máu đồng đội chúng tôi đã thấm xuống đường phố Huế, để Huế đi vào lịch sử. Để khi trở lại Trường Sơn, nhớ về Huế, chúng tôi nhớ từng khuôn mặt bạn bè khi mờ khi tỏ; nhớ những ánh mắt rụt rè trìu mến các chị, các em; nhớ những sinh viên học sinh, những anh chị tự vệ công nhân tay quàng băng đỏ đã sát vai với chúng tôi nổ súng. Nhớ con đò chở đạn qua sông, nhớ chiếc xe ca chở thương binh về hậu cứ. Nỗi nhớ của chúng tôi dính chặt vào những phút đè bẹp quân thù trên núi Tam Thai, trên cầu Lò Rèn, cầu Bạch Hổ; những lúc giải phóng nhà lao Thừa Phủ, lùng địch ở Phú Cam, bao vây bắt sống bọn ác ôn tay sai vón lại trên Cồn Hến. Nỗi nhớ của chúng tôi còn da diết hơn, là nỗi nhớ tội ác kẻ thù: chúng đã sả súng vào hàng ngàn người tay không đi đòi quyền tự do ở ngã ba quận ly Phong Điền. Chúng đã giội bom xuống những khu phố đông dân trong thành phố Huế.
Câu chuyện tiếp nối của chúng tôi gợi lại những ngày không thể quên được sau đó, những ngày giặc Mỹ tập trung gần bảy chục tiểu đoàn đủ các loại sắc lính để phản kích chúng tôi, để bình định cấp tốc nông thôn. Đấy là thời kỳ tụi kỵ binh bay tác yêu tác quái bằng đủ các thứ trực thăng hiện đại mà nhân dân gọi chúng bằng những cái tên nôm na: u-ti-ti, rọ, gáo, lép, v.v... Những loại trực thăng ấy đã bắn vào từng lùm cây, soi từng khuôn mặt ngoài đường làm một thứ ngoáo ộp dọa nạt những ai yếu bóng vía. Câu chuyện hả hê là của những người không yếu bóng vía, những chiến sĩ Trị Thiên chúng tôi đã cho chúng phơi mặt hàng ba chục chiếc trong một trận A Lưới.
Kỷ niệm về thời kỳ đó của chúng tôi là những kỷ niệm vượt muôn vàn khó khăn gian khổ. Bây giờ có thể xót xa nói lại với nhau về những cảnh đói cơm lạt muối lả người, những cảnh sốt rét ác tính chết nhanh trong chốc lát, về những trận lũ tai quái, về những trận bom B.52 tàn khốc. Thế mà các chiến sĩ Trị Thiên chúng tôi, những người lính xanh xao vì đói cơm thiếu ngủ, vì sốt rét bệnh tật đã đánh cho bọn kỵ binh bay, bọn lính dù và thủy quân lục chiến những đòn trí mạng ở Ca-cô-va, Tam Tanh, A Giơi, A Bia, 935. Sức mạnh được nhân lên gấp bội là sức mạnh con người đứng giữa tột cùng gian khổ để giành lại quyền sống, giành lại thế đứng chân.
Anh bạn hoạt động cơ sở còn kể về nỗi xót xa ở đồng bằng: Đồng bào ta bị chúng nhốt sau tầng kẽm gai, xóm làng ta bị chúng đem máy xúc máy ủi về san bằng. Những người chết nằm dưới mồ không yên, những người còn sống ngồi trong trại tập trung mái tôn nóng bỏng, mỗi bước đi đều có mũi súng rê theo, căm thù muốn nổ con mắt... Nhưng chính cái bối cảnh khốc liệt của nông thôn đồng bằng như thế, mới xuất hiện những sự tích kỳ lạ về những người con gái anh hùng của Trị Thiên: Nguyễn Thị Lài, Trần Thị Tâm,... Nhớ lại những năm 1969-1970, dường như ngay anh em chúng tôi cũng ngỡ ngàng tự hỏi, làm sao ta vẫn là ta - đứng vững và chiến thắng, trưởng thành và dày dạn. Nhớ lại những năm ấy chúng tôi thường xúc động ứa nước mắt: một chút tủi thân, một chút tự hào. Thời kỳ khó khăn đã qua đi, và chúng tôi có dịp làm ăn lớn vào mùa xuân năm 1971, đánh bại cuộc hành quân Lam Sơn 719 của Mỹ - ngụy. Một người bạn từng đi qua Bản Đông, Huội San, Sê Pôn đã đưa ra một nhận xét sau đây: Trên những đồi cỏ tranh ngút ngàn thường có những đám cỏ xanh tốt trội hẳn lên. Đấy lạ chưa, cái màu xanh trội hẳn lên kia lại có hình dáng người. Đấy là dấu vết những tên lính ngụy xấu số đã nằm lại trên đất Lào trong lãng quên.
Câu chuyện của chúng tôi, bắt sang mùa hè 1972 lúc nào không biết. Chúng tôi nói về những trận tiến công, đập vỡ hệ thống phòng ngự kiên cố dầy đặc ở Cồn Tiên, Dốc Miếu, Đầu Mầu, Quán Ngang, Hương Hoa rồi đến trận giải phóng thị xã Đông Hà, trận chiến đấu có tính chất quyết định để sau đó lực lượng của ta ào ào tiến công, đẩy chúng về bên kia sông Mỹ Chánh. Thực ra kỷ niệm của chúng tôi về mùa hè 1972 không phải ở những trận tiến công mà là những ngày giành giữ từng tấc đất từng ngôi nhà trong thành cổ Quảng Trị. Bây giờ đã ba năm qua mà dấu tích khốc liệt còn lưu lại trên những bức tường rỗ tổ ong, trên những mái tôn trở thành tấm lưới sàng đá cuội, trên phố xá đổ nát, trên bờ thành sạt đi từng quãng. Kỷ niệm của chúng tôi là ở những lúc chia nhau sự sống, sự chết, chia nhau từng hỏa điểm và từng viên đạn tiến công: chia nhau một bánh lương khô, vài ba ngụm nước lúc chờ giặc tới; chia nhau những trận bom trận pháo, chia nhau cả từng lúc chợp mắt giữa hai đợt tiến công.
Chúng tôi bảo nhau, sau này khi ta dựng nhà, xây công viên lại trên thị xã Quảng Trị, hãy nhắc nhở con em ta mở từng nắm đất ra mà xem. Đâu chỉ là đất mà còn là cái gì thiêng liêng hơn nữa. Dẫu không cố tình nói cho văn vẻ thì sự thật trần trụi vẫn như thế: nhà đã mọc lên, hoa đang tươi thắm trên xương máu chiến sĩ...
Phải nói chắc với nhau rằng, sự hy sinh tổn thất của ta trong chiến dịch này là lớn. Nhưng sự hy sinh lớn lao ấy cùng với sự hy sinh lớn lao trong cả nước đã làm nên chiến thắng 1972, giáng một chùy nặng nề vào đầu óc ngoan cố của tập đoàn Ních-xơn - Kít-xinh-giơ, khiến chúng phải ký vào Hiệp nghị Pa-ri về Việt Nam. Khiến chúng phải thừa nhận điều mà chúng không muốn: độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam; khiến chúng phải chịu rút quân về nước sau bao năm gây tang tóc cho nhân dân Việt Nam. Ở Trị Thiên, sư đoàn 3 lính thủy đánh bộ Mỹ rồi sư đoàn dù 101 lần lượt xuống tàu về nước. Gút-bai! Xin vĩnh biệt mảnh đất dịu hiền mà gai góc này đã để lại trong lòng từng tên Mỹ những kỷ niệm không vui. Có luyến tiếc chăng, hẳn là chúng chỉ luyến tiếc tuổi thanh xuân bị chôn vùi, bị phí phạm ở đây, vì quyền lợi bọn tư bản độc quyền, bọn ngồi trong Nhà trắng và Lầu năm góc.
Câu chuyện của chúng tôi lúc này bỗng nhiên quay ngược trở về thời kỳ Nguyễn Huệ, Lê Lợi, Trần Hưng Đạo, Lý Thường Kiệt,... Để nói với nhau một điều hẳn không phải là thừa: quả thật, trên dải đất Việt Nam chúng ta, chỉ có chỗ cho bè bạn, không có chỗ cho bất kỳ một đội quân xâm lược nước ngoài nào, thuộc bất kỳ màu da nào, cả trước đây, bây giờ và sau này mãi mãi.
Những tên xâm lược nước ngoài lần lượt đến rồi lần lượt ra đi, mà cuộc chiến đấu của nhân dân ta vẫn còn phải tiếp tục. Đấy là nỗi đau của một dân tộc. Những người đã cầm súng chiến đấu hàng mấy chục năm là những người khát khao hòa bình nhất. Chúng tôi cũng vậy khi hai sắc cờ đã mọc lên trên tuyến tiếp xúc dài hàng trăm ki-lô-mét, chúng tôi vẫn ước ao hai bên ngồi lại với nhau, xóa bỏ hận thù trong mối tình hòa hợp dân tộc. Nhưng ngay sau đó chúng tôi có thể châm biếm về sự mơ hồ này của một số người trong anh em chúng tôi. Bởi vì chúng tôi đã có những kỷ niệm đau xót ở Bồ Điền, Hiền Sĩ- Nam Phổ Cần, ở Cửa Việt. Bạn bè chúng tôi, nhiều đứa đã ngã xuống những nơi đó do những cuộc tiến công lấn chiếm của chúng. Sự ngoan cố của kẻ thù khiến chúng tôi thêm tỉnh ngộ. Trên những tuyến tiếp xúc, chúng tôi sẵn sàng chia chén nước chè, điếu thuốc với binh lính phía bên kia, song cũng biết chuẩn bị sẵn sàng những điểm xạ để khi cần phải giáng trả những đòn trừng phạt đối với những kẻ say mê thuốc súng: Điều chúng tôi hiểu sâu xa trong những ngày sau đó là ta phải mạnh, phải mạnh hơn nữa. Có sức mạnh mới chủ động trong mọi tình huống.
Câu chuyện về kỷ niệm của chúng tôi trong thời gian này là câu chuyện về mở đường Trường Sơn, về huấn luyện đơn vị, về việc tách một số đơn vị chủ lực thuộc quân khu Trị Thiên ra thành lập quân dân cơ động, về những trận đánh trả bọn lấn chiếm, về việc tiếp tục xây dựng cơ sở ở nông thôn đồng bằng và thành phố, về việc củng cố vùng giải phóng hậu phương.
Những năm 1973 - 1974 chưa xa, chưa quên trong trí nhớ chúng tôi. Bây giờ, đất nước đã hoàn toàn giải phóng, ngồi với nhau giữa thành phố Huế, chúng tôi hoàn toàn tâm đắc với nhau về thắng lợi Hiệp nghị Pa-ri. Hiệp nghị Pa-ri nằm trong hồ sơ lưu trữ các bên hữu quan là những điều khoản, những quy ước, những chữ ký; nhưng với chúng ta là thời gian, là cơ hội. Dưới ánh sáng lãnh đạo của Đảng, biết làm chủ thời gian, biết nắm lấy cơ hội, sẽ có tất cả. Có lẽ mãi sau này, cùng với thử thách của thời gian, mỗi lúc chúng tôi càng thấu hiểu thêm, càng thấm thía thêm ý nghĩa điều đó.
⚝ ⚝ ⚝
Tất cả những tâm sự, những kỷ niệm của anh em chúng tôi vừa ôn lại chỉ là những mảnh rời rạc trong hàng pho sách chép về sự tích kỳ lạ của vùng đất Trị Thiên. Tuy nhiên, kỷ niệm rời rạc của chúng tôi đều y như những dấu chân đã in trên một chặng đường dài. Cùng quân dân Trị Thiên - Huế, chúng tôi đã đi trên chặng đường dài đầy gian truân như thế để làm một cuộc chuẩn bị cho thắng lợi cuối cùng khởi đầu từ những ngày mùa xuân năm 1975 lịch sử.