← Quay lại trang sách

2: Bài thuốc vàng

Những ký ức đáng thẹn bắt đầu trỗi lên trong Bennie từ đầu ngày, trong cuộc họp buổi sáng, khi anh lắng nghe một trong các quản lý cấp cao giải thích tại sao nên chấm dứt hoạt động với Stop/Go, một ban nhạc chị em mà Bennie đã ký kết hợp đồng thu ba đĩa từ vài năm trước. Sau đó, vụ Stop/Go đã tỏ ra là một canh bạc tuyệt vời; chị em họ trẻ trung và đáng yêu, tiếng hát của họ mạnh mẽ, giản dị và lôi cuốn (“Cyndi Lauper gặp Chrissie Hynde” là lời mô tả của Bennie hồi đầu), với một cây bass lớn và một dụng cụ gõ vui tai nào đó - anh nghĩ tới cái lục lạc. Hơn nữa họ còn viết ra những bài hát hay; ôi chao, họ đã bán được mười hai nghìn CD trước khi Bennie nghe họ biểu diễn lần đầu. Một chút thời gian để phát triển những giọng hát đơn tiềm năng, vài chiêu marketing khôn ngoan, một video tử tế là đủ đẩy họ lên đỉnh.

Nhưng mấy chị em này đã sắp ba mươi, và không còn được xem là mới tốt nghiệp phổ thông nữa - Collette, người phụ trách sản xuất, vừa thông báo với Bennie - đặc biệt một người đã có con gái lên chín. Các thành viên ban nhạc của họ cùng học trường luật. Họ đã sa thải hai nhà sản xuất, người còn lại trong số ba người thì bỏ giữa chừng. Vẫn chưa có album nào.

“Ai đang quản lý họ?” - Bennie hỏi.

“Bố họ. Tôi vừa có bản mix thô mới của họ” - Collette nói. - “Giọng hát đều bị đè bẹp dưới bảy lớp guitar.”

Chính lúc ấy ký ức ùa về trong Bennie (có phải từ “chị em gái” đã gợi nó lên?): Anh đang ngồi xổm sau một tu viện ở Westchester trong hoàng hôn sau một chiều muộn tiệc tùng - hai mươi năm trước phải chăng? Hay hơn? Nghe những làn sóng âm thanh ngọt ngào man dại, trong trẻo thuần khiết tỏa lên bầu trời xam xám - những nữ tu lánh trần chẳng thấy ai ngoài thấy nhau, những người đã tuyên thệ câm lặng, đang hát nhạc thánh lễ Misa. Cỏ ướt dưới đầu gối anh, màu ngũ sắc của nó dội vào hai nhãn cầu nhức mỏi của anh. Tới tận bây giờ, Bennie vẫn nghe thấy tiếng hát ngọt ngào phi thường của các bà sơ ấy vọng trong tai anh.

Anh đã sắp đặt một cuộc gặp với Mẹ Bề Trên của họ - bà sơ duy nhất mà người ngoài có thể chuyện trò - và mang theo mấy cô gái trong cơ quan để ngụy trang, anh chờ đợi trong một phòng chờ cho tới khi Mẹ Bề Trên xuất hiện sau một ô vuông trổ trên tường trông như ô cửa sổ không có kính. Sơ mặc đồ trắng toàn thân, tấm khăn quấn chặt quanh gương mặt bà. Bennie nhớ sơ cười rất nhiều, đôi má ửng hồng phập phồng sau mảnh vải, có thể do vui sướng vì nghĩ đến chuyện đưa Chúa tới hàng triệu mái nhà, có thể vì sự mới mẻ đến từ một anh chàng làm nghề A&R[1] mặc quần nhung kẻ tím đang ra sức thương thảo. Thỏa thuận hoàn thành trong chớp mắt.

Anh bước tới bên ô vuông trống để chào tạm biệt (tới đây, Bennie đập bộp vào cái ghế xoay, biết trước toàn bộ việc này sẽ dẫn tới đâu). Mẹ Bề Trên khẽ ngả người tới, nghiêng đầu với một dáng vẻ có lẽ đã khơi gợi điều gì đó trong Bennie, bởi lẽ anh hấp tấp thò đầu qua bậu cửa và hôn lên môi bà: lớp lông măng mượt mà, mùi thơm phấn rôm trẻ em thân mật, rồi bà ré lên và chạy vụt đi. Sau đó hắn rụt cổ lại, vừa cười khì khì vừa sợ run, thấy gương mặt bà bàng hoàng, tổn thương.

“Bennie?” - Collette đang đứng trước một bảng điều khiển, trên tay cầm CD của Stop/Go. Mọi người có vẻ như đang chờ đợi. - “Anh nghe cái này không?”

Nhưng Bennie mắc vào cái thòng lọng từ hai mươi năm trước: đu đưa trên bậu cửa sổ về phía Mẹ Bề Trên như một hình thù lắc lư trên đồng hồ treo tường, qua lại. Qua lại.

Qua lại.

“Không” - anh ậm ừ. Anh quay khuôn mặt đẫm mồ hôi vào làn gió sông thổi lồng lộng qua những ô cửa sổ của nhà máy cà phê Tribeca cũ nơi hãng băng đĩa Sow’s Ear đã chuyển tới sáu năm trước và nay chiếm hai tầng lầu. Anh không bao giờ thu đĩa được giọng hát của các sơ đó. Ngay khi trở về từ tu viện ấy, một tin nhắn đã chờ sẵn.

“Không” - anh nói với Collette. - “Tôi không muốn nghe bản mix đó.” Anh thấy run rẩy, nhớp nháp. Chuyện ngừng hợp tác với nghệ sĩ là chuyện ngày thường của Bennie, đôi khi ba người trong một tuần, nhưng giờ đây nỗi xấu hổ của bản thân anh phủ bóng lên sự thất bại của nhóm nhạc chị em Stop/Go, như thể lỗi là ở chính anh. Và cảm giác ấy kéo theo một sự bứt rứt lạ lùng gợi nhắc lại những gì đã khiến anh hứng thú với ban nhạc chị em này hồi đầu, để cảm nhận lại niềm phấn khích ấy. “Sao tôi không tới thăm họ nhỉ?” - Anh đột ngột lên tiếng.

Collette có vẻ ngạc nhiên, ngờ vực, rồi lo lắng, một chuỗi biểu hiện hẳn sẽ khiến Bennie thích thú nếu anh không căng thẳng tới vậy. Cô hỏi: “Thật sao?”.

“Tất nhiên. Tôi sẽ tới đó ngay hôm nay, sau khi thăm con.”

Trợ lý của Bennie, Sasha, mang cà phê cho anh: có kem và hai viên đường. Anh lôi từ trong túi quần ra một cái hộp nhỏ xíu tráng men đỏ, lẫy cái chốt khó nhằn, nhón mấy mảy vàng giữa những ngón tay run rẩy, rồi thả vào cốc. Anh bắt đầu chế độ dinh dưỡng này từ hai tháng trước, sau khi đọc thấy trong một cuốn sách y học của người Aztec rằng sự kết hợp vàng và cà phê sẽ đảm bảo duy trì khả năng sinh dục đàn ông. Mục đích của Bennie căn bản hơn so với chuyện ngăn chặn liệt dương: ham muốn tình dục, dục vọng của anh đã vãn hồi một cách bí ẩn. Anh không biết rõ cụ thể khi nào và chính xác tại sao điều này xảy ra: Vụ ly dị Stephanie? Cuộc chiến giành quyền nuôi Christopher? Vừa qua tuổi bốn tư? Những vết bỏng hình tròn còn lờ mờ trên cánh tay trái, bị vào “Bữa tiệc” - một thảm họa mới đây được điều hành bởi chính bà sếp cũ của Stephanie, người giờ đây đang chịu án tù?

Mảy vàng hạ trên bề mặt trắng sữa của tách cà phê và xoay mòng mòng. Bennie bị mê hoặc bởi cuộn xoáy ấy, thứ mà anh xem như bằng chứng của tác động hóa học mang tính bùng nổ của cà phê vàng ròng. Cảm giác nao nức rồ dại khiến anh gần như nhảy đổng lên: chẳng phải đó là một miêu tả hết sức chính xác về lòng hám dục? Đôi khi Bennie thậm chí chẳng bận tâm về sự biến mất của nó; kể ra cũng thật nhẹ người khi không phải lúc nào cũng muốn làm tình với ai đó. Thế giới rõ ràng là một nơi thanh bình hơn nhiều khi chỉ còn phân nửa cảm giác hứng tình vốn luôn đồng hành cùng anh từ năm mười ba tuổi, nhưng Bennie có muốn sống trong một thế giới như thế không? Anh uống một ngụm cà phê ánh vàng rồi liếc nhìn bầu ngực của Sasha, hành động này đã trở thành thứ quỳ tím anh thường dùng để đo độ tiến triển của mình. Trước đây anh từng cảm thấy ham muốn cô sau gần một năm cô làm việc với anh, ban đầu là ở vị trí thực tập, tiếp đến là tiếp tân, cuối cùng là trợ lý của anh (vị trí mà cô cứ làm mãi, khăng khăng một cách khó hiểu không vào ban quản trị theo quyền lợi của mình) - bằng cách nào đó cô lảng tránh được ham muốn ấy mà không bao giờ từ chối bằng lời, hay làm tổn thương cảm xúc của Bennie, hoặc mắng mỏ anh. Còn lúc này: bộ ngực của Sasha in hằn sau lần áo len vàng mỏng mảnh, thế mà Bennie chẳng cảm thấy gì. Không cả một chút háo hức vô hại. Dù có muốn đi chăng nữa, anh có thể vực dậy cảm giác đó không?

༺༒༻

Trong lúc lái xe đi đón con trai, Bennie chuyển qua chuyển lại giữa Sleepers và Dead Kennedys, hai ban nhạc San Francisco mà anh yêu thích từ nhỏ. Anh lắng nghe mê muội, cảm giác mang lại khi những nhạc sĩ thực thụ chơi nhạc cụ thực thụ trong một căn phòng thực thụ. Ngày nay chất lượng ấy (nếu nó còn tồn tại chút nào) thường là kết quả của tín hiệu analog chứ không phải băng cát-xét, tất cả chỉ còn một là hiệu ứng của những hòa âm vô cảm mà Bennie và đồng nghiệp của anh đang sản xuất đại trà. Anh làm việc hối hả không ngơi để làm mọi thứ đâu ra đó, giữ vị trí đỉnh cao, tạo ra những bài hát được mọi người yêu thích muốn mua và tải về làm nhạc chờ (tất nhiên là cả chôm chĩa nữa) - và trên hết là để làm hài lòng những ông trùm dầu mỏ đa quốc gia mà anh đã bán hãng của mình cho vào năm năm trước. Nhưng Bennie biết rằng những gì anh đưa tới thế giới này là mạt hạng. Quá an toàn, quá sạch sẽ. Tệ hại nằm ở sự chính xác, hoàn chỉnh; tệ hại nằm ở sự số hóa, nó đánh bật sự sống ra khỏi mọi thứ vốn bám sâu vào từng tế bào. Phim, ảnh, nhạc: chết cả. Một cuộc hủy diệt mỹ học! Bennie đủ khôn ngoan để không nói thành lời điều này. Nhưng với Bennie, rung động sâu xa của những bài hát xưa cũ này nằm ở những xúc cảm trào dâng cuồng nhiệt tuổi mười sáu mà chúng tạo ra; Bennie và lũ bạn cấp ba - Scotty và Alice, Jocelyn và Rhea - hàng thập kỷ rồi anh không gặp lại ai (ngoài một cuộc gặp bất ngờ bối rối với Scotty trong văn phòng anh mấy năm trước), nhưng vẫn cứ mơ hồ tin rằng anh sẽ thấy chúng đang xếp hàng chờ đợi bên ngoài club Mabuhay Gardens (đóng cửa từ lâu) ở San Francisco, đứa nào đứa nấy tóc xanh lá và xỏ khuyên khắp nơi, nếu anh vô tình ghé qua đó vào tối thứ bảy. Thế rồi khi Jello Biafra gào sang bài “Too Drunk to Fuck”, tâm trí Bennie trôi dạt tới một lễ trao giải mấy năm trước, hôm ấy anh định giới thiệu một jazz pianist là “vô song” nhưng cuối cùng lại lỡ gọi cô là “vô vọng” trước mặt hai nghìn năm trăm khán giả. Lẽ ra anh không bao giờ nên cố dùng từ “vô song” - không phải loại từ anh thường dùng, quá đao to búa lớn; cái từ ấy cứ nghẹt trong miệng mỗi lần anh tập phát biểu trước Stephanie. Nhưng nó rất hợp dành cho nghệ sĩ piano ấy, người có mái tóc dài thướt tha vàng óng, người đã tốt nghiệp Đại học Harvard (theo như cô hé lộ). Bennie đã nuôi ước mơ liều lĩnh được lên giường cùng cô, được cảm nhận mái tóc ấy rủ lên vai và ngực anh.

Lúc này anh dừng xe vẫn nổ máy trước cổng trường, chờ cho dòng ký ức cuồn cuộn ấy trôi qua. Khi tạt xe vào, anh đã thoáng thấy con trai đang ở trên sân thể dục cùng đám bạn. Khi ấy Chris vừa thoáng ngừng - rồi ngừng luôn - việc ném bóng lên không, nhưng khi thằng bé lao vào chiếc Porsche vàng của Bennie, mọi ý niệm khinh suất đều biến mất. Tại sao? Chris bằng cách nào đó đã biết về buổi lễ trao giải hỏng bét đó à? Bennie tự nhủ đó là ý nghĩ ngớ ngẩn, nhưng vẫn mong mỏi được trần tình vụ nói lộn nực cười đó với đứa con học lớp bốn. Ham Muốn Tiết Lộ, bác sĩ Beet gọi cảm giác thôi thúc ấy là vậy, và ông luôn khuyên Bennie viết ra những điều anh muốn kể lể chứ đừng đặt gánh nặng lên con trai bằng những câu chuyện ấy. Giờ Bennie đang làm điều ấy, nguệch ngoạc chữ vô vọng lên mặt sau của một tấm vé đỗ xe anh có từ ngày hôm trước. Rồi khi nhớ lại chuyện bẽ mặt trước đó, anh viết thêm vào dòng hôn Mẹ Bề trên.

“Nào, ông tướng” - anh nói. - “Con thích làm gì?”

“Không biết nữa.”

“Mong muốn đặc biệt nào đó?”

“Không có.”

Bennie bất lực nhìn ra ngoài cửa sổ. Mấy tháng trước, Chris đã đề nghị thôi cuộc hẹn hàng tuần với bác sĩ Beet, thay vào đó dành buổi chiều ấy “làm bất cứ gì”. Từ đó họ chưa quay lại, một quyết định mà giờ đây Bennie thấy hối tiếc; “làm bất cứ gì” đã dẫn tới những buổi chiều rời rã, thường bị rút ngắn khi Chris tuyên bố nó có bài tập về nhà cần làm.

“Uống cà phê nhé?” - Bennie gợi ý.

Một thoáng mỉm cười. “Con uống Frappuccino được không?”

“Đừng nói với mẹ nhé.”

Stephanie không đồng ý cho Chris uống cà phê - cũng hợp lý thôi, vì thằng bé mới lên chín - nhưng Bennie không cưỡng được ý muốn mãnh liệt được thách thức những thỏa thuận với người vợ cũ. Bội Ước, bác sĩ Beet gọi nó là vậy, và cũng giống như Ham Muốn Tiết Lộ, nó thuộc danh sách những điều bất khả.

Hai cha con mua cà phê rồi quay trở lại chiếc Porsche để uống. Chris tu ừng ực cốc Frappuccino. Bennie mở cái hộp tráng men đó, nhón mấy mảy vàng, rồi thả xuống dưới cái nắp nhựa của chiếc cốc.

“Gì vậy ạ?” - Chris hỏi.

Bennie giật mình. Món vàng đã trở nên quá quen thuộc tới nỗi anh chẳng còn giấu giếm nữa.

“Thuốc” - anh đáp sau một hồi ngập ngừng.

“Để làm gì ạ?”

“Vài triệu chứng bố đang có.” - Đúng hơn là không có, anh thầm nói trong đầu.

“Triệu chứng gì vậy ạ?”

Có phải chuyện này do Frappuccino kích động không? Chris đã thôi trạng thái ù lì mà ngồi thẳng dậy, quan sát Bennie bằng đôi mắt to tròn biêng biếc tuyệt đẹp. “Đau đầu” - Bennie nói.

“Con xem nó được không?” - Chris hỏi. - “Thuốc đó? Trong thứ màu đỏ ấy?”

Bennie đưa cái hộp đỏ bé xíu cho thằng bé. Trong chớp mắt, thằng bé lẫy được cái chốt lắt léo rồi mở nắp ra. “Oa, bố” - nó thốt lên. - “Cái này là gì vậy?”

“Bố bảo rồi đấy.”

“Trông giống vàng quá. Những mảnh vàng.”

“Nó có hình mảy bụi.”

“Con nếm một mảnh được không?”

“Con trai. Con đừng...”

“Chỉ một thôi?”

Bennie thở dài. “Một.”

Thằng bé thận trọng lấy một mảnh vàng đặt lên lưỡi. “Vị nó thế nào?” - Bennie tò mò hỏi. Anh chỉ uống vàng trong cà phê, thế nên nó chẳng có vị gì cụ thể.

“Giống kim loại” - Chris nói. - “Tuyệt quá. Con thử một mảnh nữa nhé?”

Bennie khởi động xe. Có phải chuyện thuốc thang giả dối lộ liễu quá không? Rõ ràng là thằng bé không tin. “Một mảnh nữa thôi” - nó nói. - “Đúng một.”

Thằng bé bốc một nhúm to mảnh vàng rồi đặt lên lưỡi. Bennie cố gắng không nghĩ tới tiền. Sự thật là anh đã tiêu tám nghìn đô mua vàng trong hai tháng qua. Có nghiện ma túy cũng không tốn kém tới vậy.

Chris nuốt chỗ vàng và nhắm mắt lại. “Bố” - thằng bé nói. - “Cảm giác như nó đánh thức con dậy từ bên trong.”

“Thú vị thật” - Bennie trầm ngâm. - “Chính xác là nó phải có công dụng như thế.”

“Nó có hiệu nghiệm không ạ?”

“Hình như là có đấy.”

“Nhưng với bố cơ” - Chris hỏi.

Bennie tin chắc là trong mười phút con trai hỏi anh nhiều câu hơn cả một năm rưỡi qua kể từ khi anh và Stephanie chia tay. Phải chăng đó là hiệu ứng phụ của vàng: tò mò?

“Bố vẫn đau đầu” - anh nói.

Anh đang lái xe lòng vòng giữa những ngôi biệt thự ở Crandale (“làm bất cứ gì” thường xuyên có nghĩa là lái xe lòng vòng), trước mỗi tòa nhà lại có bốn năm đứa bé tóc vàng mặc đồ Ralph Lauren đang chơi. Ngắm nhìn những đứa trẻ này, Bennie thấy rõ rành rành rằng anh đã chẳng có cơ mà sống lâu dài ở nơi đây, trông anh đen đúa rối bời ngay cả khi vừa tắm gội và cạo râu xong. Trong khi ấy, Stephanie đã vào tới câu lạc bộ tennis đánh đôi hàng đầu.

“Chris” - Bennie nói. - “Có một nhóm nhạc bố cần tới thăm - một cặp chị em trẻ. À, hai chị em còn trẻ. Bố định lát nữa mới đi, nhưng nếu con hứng thú, chúng ta có thể...”

“Tất nhiên.”

“Chắc chứ?”

“Vâng.”

Phải chăng “tất nhiên” và “vâng” mà Chris thốt ra là để làm hài lòng Bennie, như bác sĩ Beet từng lưu ý với anh là nó rất hay làm vậy không? Hay sự tò mò do vàng tạo nên đã mở rộng thêm ra với niềm hứng thú mới dành cho công việc của Bennie? Chris đã lớn lên giữa những ban nhạc rock, đúng thế, nhưng nó thuộc thế hệ hậu-bản quyền, những đứa chẳng biết tới sự tồn tại của những từ như “copyright” hay “sở hữu sáng tạo”. Bennie không đổ trách nhiệm cho Chris, tất nhiên; những kẻ hủy diệt thương mại âm nhạc là thế hệ trước con trai anh, là người lớn hiện giờ. Tuy nhiên, anh đã nghe theo lời khuyên của bác sĩ Beet, ngừng lên lớp (từ của Beet) Chris về sự cáo chung của nền công nghiệp ấy, thay vào đó chỉ tập trung thưởng thức dòng âm nhạc mà hai cha con đều thích - ví như Pearl Jam, món mà Bennie đang bật ầm ầm suốt dọc đường tới Mount Vernon lúc này.

Hai chị em nhóm Stop/Go vẫn sống chung với bố mẹ trong một ngôi nhà ngổn ngang sập xệ núp dưới những tàng cây ngoại ô rậm rạp. Bennie đã tới đây mấy năm trước, khi anh lần đầu phát hiện ra họ, trước khi anh ủy thác hai chị em cho người đứng đầu trong ban quản trị nhưng rồi người đó chẳng làm được trò trống gì. Khi anh và Chris ra khỏi xe, ký ức về lần tới thăm cuối cùng thổi bùng lên một cơn giận dữ trong Bennie khiến đầu anh nóng bừng, thế quái nào mà bao lâu nay chẳng có cái gì ra hồn xuất hiện vậy?

Anh thấy Sasha đang đứng đợi trước cửa; cô đã đón tàu ở Grand Central sau khi Bennie gọi và đã tới đây trước anh. “Chào Crisco” - Sasha nói, vò tóc con trai anh. Cô đã biết Chris từ khi thằng bé còn ẵm ngửa; cô đã từng tới Duane Reade để mua tã và núm vú giả cho thằng bé. Bennie lén nhìn ngực cô; chẳng có gì. Đúng hơn là chẳng chút ham muốn nhục dục, chứ anh thực sự cảm thấy tràn ngập lòng biết ơn và cảm kích cô trợ lý, trái ngược hẳn với cơn giận sục sôi của anh với cả đám nhân viên còn lại.

Một thoáng ngừng lặng. Ánh sáng màu vàng xuyên qua tán lá. Bennie đưa ánh mắt từ ngực lên mặt Sasha. Cô có gò má cao và đôi mắt lá răm màu lục, mái tóc gợn sóng chuyển đổi từ màu đỏ sang màu tím, tùy theo tháng. Hôm nay tóc cô màu đỏ. Cô đang mỉm cười với Chris, nhưng Bennie nhận thấy đâu đó trong nụ cười ấy nỗi lo âu. Anh hiếm khi nghĩ về Sasha với tư cách cá nhân, và ngoài láng máng biết cô có những người tình đến rồi đi (láng máng thoạt đầu là do tôn trọng sự riêng tư của cô, nhưng về sau là do không bận tâm), anh chẳng hay gì nhiều về cuộc đời cô. Nhưng lúc này đây khi nhìn cô bên ngoài ngôi nhà của gia đình này, Bennie bỗng thoáng thấy tò mò: Sasha đã sống ở NYU từ lần đầu anh gặp cô tại một buổi ký kết hợp đồng ở Pyramid Club; như vậy có nghĩa giờ cô đã ở tuổi ba mươi. Sao cô không kết hôn? Cô không muốn có con à? Bỗng nhiên trông cô già hơn, hay chỉ vì Bennie hiếm khi nhìn thẳng vào gương mặt cô?

“Sao?” - Cô lên tiếng khi thấy anh nhìn chằm chằm.

“Không có gì.”

“Anh ổn chứ?”

“Hơn cả ổn” - Bennie nói, rồi gõ mạnh lên cửa.

Hai chị em trông rất tuyệt vời, nếu không phải mới tốt nghiệp phổ thông, thì ít nhất cũng là vừa tốt nghiệp đại học, nhất là nếu họ đã nghỉ học giữa chừng một vài năm hoặc có thể là đã di chuyển đôi lần. Mái tóc đen của họ buộc gọn sau đầu, đôi mắt sáng lấp lánh, và ở họ có thừa chất liệu mới cho cả một cuốn sách dày - nhìn mà xem! Cơn giận của Bennie với nhóm nhân viên của anh tăng mạnh, nhưng đó là một cơn giận đầy động lực, vui thích. Sự phấn khích căng thẳng của hai chị em tràn ngập cả căn nhà; họ biết cuộc viếng thăm của anh là hy vọng tốt đẹp cuối cùng của họ. Chandra là chị, Louisa là em. Lần cuối cùng Bennie tới thăm thì Olivia - con gái của Louisa - còn đi xe cút kít trên ngõ vào nhà, thế mà giờ con bé mặc quần jean bó và cài cành trâm gắn đá quý, xem ra là một lựa chọn thời trang chứ không phải trang phục thường ngày. Bennie cảm thấy Chris nhìn chăm chú khi Olivia bước vào phòng, như thể một con rắn thôi miên vừa ngóc ra khỏi cái giỏ trong lòng thằng bé. Họ đi thành một hàng đơn xuống cái cầu thang nhỏ hẹp dẫn vào phòng thu dưới tầng hầm của hai chị em. Bố hai cô đã xây căn phòng này nhiều năm trước. Nó bé tí, sàn, trần và tường đều phủ thảm màu da cam. Bennie ngồi xuống chiếc ghế duy nhất, hài lòng khi nhìn thấy một chiếc lục lạc bên cạnh bàn phím.

“Cà phê nhé?” - Sasha hỏi anh. Chandra dẫn cô lên lầu pha cà phê. Louisa ngồi bên bàn điều khiển nghịch ngợm các giai điệu. Olivia cầm một bộ trống nhỏ rồi bắt đầu chậm rãi hòa theo mẹ. Con bé đưa cho Chris một cái trống tambourine, và trước sự kinh ngạc của Bennie, thằng bé lắc món nhạc cụ ấy rất chuẩn nhịp. Hay, anh nghĩ. Hay lắm.

Ngày hôm ấy không ngờ lại trở nên rất tuyệt. Cô con gái gần sang tuổi teen ấy không phải là một rắc rối, anh quyết định; nó có thể gia nhập nhóm với tư cách một cô em gái hoặc em họ, bổ trợ cho khoảng giữa. Chris cũng có thể là một phần của nó, tuy nhiên thằng bé và Olivia sẽ phải đổi nhạc cụ. Một cậu bé mà chơi trống tambourine...

Sasha mang cà phê tới, Bennie lấy cái hộp tráng men đỏ ra rồi thả vào tách một nhón mảy vàng. Khi anh nhấm nháp, một cảm giác vui sướng tràn trề khắp thân mình như thể tuyết rơi bao phủ đất trời. Chúa ơi, anh thấy phấn chấn quá. Anh ủy thác công việc cho người khác nhiều quá. Lắng nghe âm nhạc được tạo ra, vấn đề nằm ở đó: con người và nhạc cụ và trang thiết bị trông xoàng xĩnh bỗng hòa thành một kết cấu âm thanh duy nhất, nhịp nhàng và sống động. Hai chị em ngồi bên bàn điều khiển nhạc, và Bennie thấy trong lòng dạt dào mong đợi; một điều gì đó sắp xảy ra ở đây. Anh biết thế. Cảm thấy nhột nhạt trên cánh tay và trong lồng ngực.

“Các cô có phần mềm Pro Tools ở đó phải không?” - Anh hỏi, chỉ vào chiếc laptop đặt trên bàn, giữa đống nhạc cụ. “Mọi thứ được gắn thu âm đấy chứ? Chúng ta có thể thu lại một số track ngay bây giờ không?”

Hai chị em gật đầu rồi kiểm tra laptop; họ đã sẵn sàng thu âm. “Thu cả giọng chứ?” - Chandra hỏi.

“Dĩ nhiên” - Bennie đáp. - “Làm ngay đi. Hãy thổi bay vèo mái nhà này đi.”

Sasha đang đứng bên phải Bennie. Quá nhiều người khiến căn phòng nhỏ xíu nóng ran, đưa lại từ làn da cô một thoảng hương nước hoa cô đã dùng bao nhiêu năm - hay đó là lotion? Nghe như mùi mơ; không chỉ ở phần ngọt mà ở cả phần nhân nhẩn đắng ở quanh hột mơ. Và khi Bennie hít thở mùi lotion của Sasha, cảm giác nhột nhạt trong anh đột nhiên dựng ngược lên như một con chó già bỗng dưng bị đá. Anh như nhảy cẫng ra khỏi ghế vì kinh ngạc đến giật thột, nhưng anh vẫn giữ bình tĩnh. Đừng đẩy mọi thứ đi, cứ để nó xảy ra. Đừng lẩn tránh nó.

Rồi hai chị em cất tiếng hát. Ôi, âm thanh thô mộc, gần như mòn cũ của giọng hát họ hòa với tiếng nhạc cụ, những cảm giác này đã chạm vào tận sâu thẳm trong Bennie hơn cả sự tri nhận hay thậm chí là niềm vui sướng; chúng đang giao tiếp trực tiếp với cơ thể anh, chủ nhân của những hồi đáp ngập tràn run rẩy khiến anh muốn lịm đi. Và đây là cơn cương cứng đầu tiên của anh sau nhiều tháng, khởi phát bởi Sasha, người đã ở quá gần Bennie trong suốt những năm qua tới mức anh không thể thực sự nhìn thấy cô, giống như trong những cuốn tiểu thuyết thế kỷ mười chín mà anh hay đọc lén lút, vì người ta cho rằng chỉ có con gái mới đọc thể loại ấy. Anh chộp lấy cái lục lạc và que gõ rồi bắt đầu đập vào nó những nhát hấp tấp. Anh cảm thấy âm nhạc trong miệng, trong tai, trong mạn sườn của mình, hay đó chính là mạch máu anh? Anh đang bốc hỏa!

Thế rồi từ cực điểm của niềm vui sướng dữ dội và tráng kiện này, anh nhớ lại chuyện mở một lá thư anh vô tình sao chép được giữa hai người đồng nghiệp và nhận ra anh thích là một “cục lông” hơn. Chúa ơi, khi đọc đến từ ấy, anh cảm thấy y như có thứ rượu cực bốc đổ vào ruột mình. Anh không chắc nghĩa từ đó là gì: Là anh nhiều lông? (Đúng.) Bẩn thỉu? (Sai!) Hay nó mang nghĩa đen, kiểu như: Anh chẹn cổ họng người ta khiến họ nghẹn thở, giống cái cách Syiph - con mèo của Stephanie - đôi khi rũ lông ra thảm? Ngay ngày hôm ấy Bennie đi cắt tóc và suy nghĩ nghiêm túc về việc tẩy lông ở lưng và bắp tay, nhưng rồi Stephanie gạt bỏ ý nghĩ ấy khỏi anh, lướt bàn tay mát lạnh lên vai anh trên giường, nói với anh rằng cô thích anh nhiều lông, rằng thế giới này hoàn toàn chẳng cần thêm một anh chàng tẩy sạch lông nữa.

Âm nhạc. Bennie đang lắng nghe âm nhạc. Hai chị em đang gào thét, căn phòng nhỏ nổ tung trong âm thanh của họ, và Bennie cố tìm lại cảm giác thỏa mãn sâu sắc mà anh vừa có một phút trước. Nhưng “cục lông” đã khiến bên trong anh đảo lộn. Căn phòng cảm giác nhỏ tới khó chịu. Bennie đặt cái lục lạc xuống rồi lôi cái vé xe trong túi quần ra. Anh nguệch ngoạc chữ cục lông với hy vọng xua đuổi được ký ức ấy. Anh chầm chậm hít một hơi rồi dừng mắt ở Chris, thằng bé đang lắc mạnh cái trống tambourine, cố gắng sao cho hòa hợp với nhịp điệu biến hóa liên tục của hai chị em, và ngay lập tức điều đó lại xảy ra: đưa con trai đi cắt tóc mấy năm trước, khi ấy Stu - người nhiều năm cắt tóc cho anh - đã đặt cây kéo xuống rồi kéo Bennie qua một bên.

“Có vấn đề với tóc của con trai anh” - ông nói.

“Vấn đề ư!”

Stu kéo Bennie tới bên ghế của Chris, rẽ tóc của thằng bé để lộ những sinh vật màu nâu nhạt nho nhỏ cỡ như hạt hoa anh túc lồm cồm bò khắp đầu thằng bé. Bennie thấy mình muốn ngất.

“Chấy” - ông thợ tóc thì thào. - “Tụi trẻ hay lây chấy ở trường.”

“Nhưng nó học trường tư!” - Bennie thốt lên. - “Ở Crandale, New York!”

Chris mở bừng mắt sợ hãi: “Có chuyện gì vậy bố?” Mọi người xung quanh nhìn chằm chằm, và Bennie thấy có trách nhiệm với mái đầu bù xù của chính mình tới mức từ đó tới nay sáng nào anh cũng xịt thuốc diệt côn trùng OFF! vào nách, thậm chí còn để một bình dự trữ ở văn phòng - điên rồ! Anh biết! Cởi áo khoác ra trong khi mọi người đều nhìn, Bennie lúc nào cũng mặt đỏ tía tai; chao ôi, giờ đây khi nghĩ tới chuyện đó anh cảm thấy đau - cái đau thể xác, như thể ký ức ấy cào xới lên trong anh rồi để lại những vết xước. Anh đưa tay vỗ mặt. Anh muốn bịt tai lại, ngăn hỗn âm của nhóm Stop/Go, nhưng rồi anh tập trung vào Sasha, ngay bên phải anh, mùi mồ hôi mặn ngọt của cô, và bỗng thấy mình nhớ tới cô gái mà anh đã đeo đuổi trong một bữa tiệc khi anh lần đầu tới New York và đang bán băng đĩa ở Lower East Side hàng trăm năm trước, một nàng tóc vàng dễ thương nào đó - Abby, phải không nhỉ? Trong quá trình bám càng Abby, Bennie đã nốc bao nhiêu là nước ngọt nên buồn giải phóng bộ lòng kinh khủng. Anh đang ngồi trên bệ xí giải tỏa thứ mà hẳn (thật tình đầu Bennie đau nhói khi nghĩ tới điều này) mang xú khí nồng nặc kinh hoàng, thì cánh cửa phòng vệ sinh vốn không thể đóng bật mở, và Abby đứng đó, nhìn anh chằm chằm. Mắt họ chạm nhau trong một giây thăm thẳm rùng rợn; rồi cô gái đóng cửa lại.

Bennie rời bữa tiệc với một người khác - luôn có một người khác - và buổi tối vui vẻ của họ khiến anh cảm thấy tự tin thoải mái và quên bẵng cuộc chạm trán với Abby.

Nhưng giờ nó trở lại - ôi, nó trở lại, mang theo những con sóng hổ thẹn dữ dội tới mức chừng như nhấn chìm bao nhiêu phần đời của Bennie rồi cuốn phăng đi: thành tựu, công cán, những khoảnh khắc tự hào, tất cả đều bị san bằng chẳng còn dấu tích - anh là con số không - một gã trai ngồi trong toilet ngước nhìn lên gương mặt buồn nôn của cô gái mà anh muốn gây ấn tượng.

Bennie đứng bật dậy khỏi ghế, dẫm chân lên cái lục lạc.

Mồ hôi cay xè mắt anh. Tóc anh bết cả lên trán.

“Anh ổn chứ?” - Sasha giật mình.

“Tôi xin lỗi” - Bennie cau mày lắp bắp. - “Tôi xin lỗi. Tôi xin lỗi. Tôi xin lỗi.”

Trở lên nhà trên, anh đứng bên ngoài cửa chính, hít không khí trong lành vào phổi. Hai chị em Stop/Go và cô con gái bâu quanh anh, rối rít xin lỗi rằng phòng thu quá ngột ngạt, rằng bố họ đã cố thông hơi cho nó nhiều lần nhưng không được, rằng bao nhiêu lần lên giọng cao bản thân họ đều muốn ngất nhưng vẫn phải cố làm việc ở đó.

“Bọn em có thể ngâm nga giai điệu” - họ nói, rồi họ cất tiếng, đồng thanh, cả Olivia, cả ba người đứng cách Bennie không xa, sốt sắng nở nụ cười trên môi. Một con mèo xám lượn vòng số tám quanh gót chân Bennie, sung sướng dụi dụi cái đầu xương xương của nó vào anh. Thật nhẹ cả người khi được trở lại trong xe.

Anh đang lái xe đưa Sasha trở lại thành phố, nhưng anh phải đưa Chris về nhà trước. Con trai anh cuộn người trên ghế sau, nhìn ra cửa sổ để mở. Bennie cảm thấy ý tưởng vui vẻ của anh về buổi chiều này đã thành ra hỏng bét. Anh cố kiềm chế mong muốn nhìn ngực Sasha, chờ cho bình tĩnh, lấy lại cân bằng rồi mới cho phép mình thực hiện phép thử ấy. Cuối cùng, tại một điểm dừng đèn đỏ, anh chầm chậm liếc sang, lơ đễnh nhìn về phía cô, thoạt đầu còn chẳng tập trung, rồi cuối cùng thì nhìn chằm chằm. Chẳng thấy gì. Anh bị hạ gục bởi sự thất bại quá nặng nề ấy tới nỗi phải gồng mình nén không kêu lên. Lúc nãy anh đã thấy nó, anh đã thấy nó! Nhưng giờ nó đi đâu rồi?

“Bố, đèn xanh kìa” - Chris nhắc.

Tiếp tục lái xe, Bennie lấy sức hỏi con trai: “Thế nào, ông tướng. Con nghĩ sao?”

Thằng bé không trả lời. Có thể nó giả vờ không nghe thấy, cũng có thể gió tạt vào mặt nó quá ồn. Bennie liếc sang Sasha. “Còn cô?”

“Ồ” - cô đáp - “họ hát dở quá.”

Bennie chớp mắt, nhức nhối. Anh cảm thấy tức giận với Sasha và phải mất mấy phút sau cơn giận mới nguôi, để lại một sự nhẹ nhõm lạ lùng. Tất nhiên rồi. Họ dở tệ. Vấn đề nằm ở đó.

“Chẳng thể nghe nổi” - Sasha nói tiếp. - “Thế nên anh mới suýt ngất như vậy.”

“Tôi không hiểu” - Bennie nói.

“Sao?”

“Hai năm trước họ hát... khác.”

Sasha nhìn anh bằng ánh mắt giễu cợt. Cô nói: “Đâu phải hai năm. Năm năm rồi.”

“Sao biết chắc thế?”

“Vì lần cuối cùng tôi tới nhà họ là sau một cuộc hẹn ở Windows on the World[2].”

Mất một phút Bennie mới hiểu ra điều này. Cuối cùng anh cất tiếng: “Ồ, có gần...”

“Cách bốn ngày.”

“Ôi. Tôi không hay biết gì chuyện đó.” - Anh im lặng ngẫm ngợi một giây rồi nói tiếp, “Nhưng mà, hai năm, năm năm...”

Sasha quay sang nhìn anh trân trân, vẻ tức giận. Cô hỏi: “Tôi đang nói chuyện với ai vậy? Anh là Bennie Salazar! Đây là thương mại âm nhạc. ‘Năm năm là năm trăm năm’ - lời của anh đấy.”

Bennie không đáp. Họ đang tới ngôi nhà xưa của anh, như cách anh nghĩ về nó. Anh không thể gọi “nhà cũ” mà cũng chẳng thể gọi là “nhà” được nữa, dù hiển nhiên anh là người trả tiền mua nó. Ngôi nhà xưa của anh nằm trên một con dốc rợp cỏ lùi sâu khỏi đường cái, một căn nhà kiểu thuộc địa màu trắng sáng bừng từng khiến anh ngưỡng vọng. Bennie đỗ lại bên lề đường rồi tắt máy. Anh không đủ sức lái lên ngõ. Chris nhoài lên từ ghế sau, đầu nó ở giữa Bennie và Sasha. Bennie không biết chắc thằng bé sẽ ở đó bao lâu. “Con nghĩ bố cần ít thuốc đó, bố ạ” - thằng bé nói.

“Ý hay đấy” - Bennie đáp. - Anh đưa tay vỗ vỗ vào túi quần, nhưng chẳng thấy cái hộp đỏ nhỏ xíu ở đâu.

“Đây, tôi đã nhặt nó” - Sasha nói. - “Anh đã đánh rơi nó trong phòng thu.”

Dạo này cô rất hay làm vậy, tìm ra những thứ anh bỏ sai chỗ, đôi lúc trước cả khi Bennie kịp biết chúng mất. Điều này càng làm tăng thêm cảm giác ỷ lại vào cô đến mụ mị của anh.

“Cảm ơn, Sasha” - anh nói.

Anh mở hộp. Chao ôi những mảy vàng sáng lấp lánh. Vàng không hoen ố, hay là ở đó. Năm năm nữa trông vẫn chẳng khác gì lúc này.

“Bố có nên đặt một ít lên lưỡi như con không?” - Anh hỏi con trai.

“Có. Nhưng con cũng muốn thử một ít.”

“Sasha, cô muốn thử ít thuốc này không?” - Bennie hỏi.

“Ừm, được” - cô nói. - “Nó dùng để làm gì vậy?”

“Trị các vấn đề của cô” - Bennie nói. - “Đau đầu chẳng hạn. Tôi không có ý bảo cô có vấn đề gì.”

“Không bao giờ” - Sasha nói, vẫn với nụ cười ngập ngừng ấy.

Mỗi người nhón một nhúm mảy vàng đặt lên lưỡi. Bennie cố không tính ra đô-la thứ ở trong miệng họ. Anh tập trung vào vị: Có phải vị kim loại không, hay chỉ vì anh nghĩ sẵn như vậy? Là vị cà phê, hay do cà phê còn dư hương trong miệng anh? Anh dùng lưỡi cuộn chặt vàng trong miệng rồi nuốt ực cùng nước bọt; chua, anh nghĩ. Đắng. Ngọt? Mỗi vị đó đúng trong chừng một giây, nhưng cuối cùng Bennie có cảm giác như khoáng chất, giống như đá. Thậm chí là đất.

Rồi nó tan đi.

“Con đi đây, bố” - Chris nói. Bennie đưa con ra xe rồi ôm thằng bé thật chặt. Như mọi lần, thằng bé đứng bất động trong vòng ôm của anh, nhưng đó là vì thằng bé đang chìm đắm hay đang chịu đựng thì Bennie chẳng bao giờ biết chắc. Anh đứng lùi ra nhìn con trai anh. Đứa bé mà anh và Stephanie đã cưng nựng hôn hít, giờ là sự hiện diện đau lòng, bí ẩn này. Bennie muốn nói, Đừng nói với mẹ con về liều thuốc, khao khát có một giây trao đổi với Chris trước khi thằng bé vào nhà. Nhưng rồi anh lưỡng lự, gợi lại một sự cân não mà bác sĩ Beet đã dạy anh: Có thật anh nghĩ thằng bé sẽ nói với Stephanie về vàng không? Không. Và đó là cảnh báo cho anh: Bội Ước. Bennie chẳng nói gì.

Anh vào xe nhưng không mở máy. Anh nhìn theo Chris lượn trên bãi cỏ nhấp nhô về phía ngôi nhà xưa của anh. Cỏ sáng lóa. Con trai anh như trĩu xuống dưới cái ba lô khổng lồ. Trong đó có cái chết tiệt gì thế nhỉ? Bennie thấy nhiều nhiếp ảnh gia chuyên nghiệp còn mang nhẹ hơn. Chris hơi nhòa đi khi tới gần ngôi nhà, cũng có thể là do Bennie ứa nước mắt. Anh cảm thấy đau đớn khi nhìn con trai đi suốt quãng đường dài tới cửa chính. Anh lo Sasha sẽ nói gì đó - những câu như Thằng bé giỏi quá hay Thú vị thật - một điều gì đó sẽ khiến Bennie phải quay sang nhìn nó. Nhưng Sasha đủ hiểu biết; cô hiểu mọi điều. Cô ngồi im lặng bên Bennie nhìn Chris bước lên những cây cỏ tốt tươi sáng bừng, đi tới mở cửa trước rồi bước vào mà không ngoái lại.

Họ không nói gì cho tới lúc rời khỏi Henry Hudson Parkway vào West Side Highway, hướng về Lower Manhattan. Bennie mở mấy bài thời đầu của Who, Stooges, những ban nhạc mà anh đã nghe từ khi anh còn chưa đủ tuổi đi nghe nhạc. Rồi anh bật ban Flipper, Mutants, Eye Protection - những nhóm nhạc vùng Bay Area thập niên bảy mươi mà anh và đám bạn đã nhảy slam-dance cổ vũ ở club Mabuhay Gardens những khi bọn anh không luyện tập với ban nhạc hát chán òm của họ, Flaming Dildos. Anh cảm thấy Sasha chăm chú lắng nghe và anh lật trở trong đầu ý nghĩ tiết lộ với cô về sự vỡ mộng của anh - lòng căm ghét đối với ngành công nghiệp mà anh đã cống hiến cả cuộc đời. Anh bắt đầu đánh giá từng lựa chọn âm nhạc, đưa ra lý luận qua bản thân các bài hát, chất thơ tơi tả của Patti Smith (nhưng tại sao cô ấy thôi hát nhỉ?), dòng nhạc jock hardcore của Black Flag và Circle Jerks cứ thay đổi, sự suy đồi khủng khiếp ấy, xuống, xuống, xuống mãi cho tới những đĩa đơn mà giờ đây ngày ngày anh thỉnh cầu các nhà đài cho phát, những thứ đội lốt âm nhạc, vô hồn vô cảm như những bảng hiệu neon trong ánh chiều tà xanh ngắt.

“Thật kỳ quái” - Sasha nói - “sao ở đó lại trống rỗng thế.”

Ngạc nhiên, Bennie quay qua cô. Có lẽ nào cô đã theo dấu được những tuyên ngôn âm nhạc trong đầu anh để rồi đưa ra kết luận khắc nghiệt ấy? Sasha đang nhìn xuống phố, và anh dõi theo mắt cô tới khu vực trống hoang từng là chỗ của Tòa tháp Đôi trước kia. “Nên có cái gì đó, anh thấy không?” - Cô nói, không nhìn Bennie. - “Như một sự lặp lại. Hoặc một mô hình.”

Bennie thở dài, nói: “Họ sẽ xây dựng lên thôi. Khi họ đã đập phá xong.”

“Tôi biết.” Nhưng cô vẫn cứ nhìn sang tay phải, như thể có một khúc mắc nào đó tâm trí cô không gỡ được. Bennie thấy nhẹ nhõm vì cô không hiểu. Anh nhớ lại ông thầy của mình, Lou Kline, nói với anh vào thập niên chín mươi rằng rock and roll đã lên tới đỉnh cao tại nhạc hội Monterey Pop. Lúc đó họ đang ở nhà của Lou ở LA, với những thác nước, những cô gái trẻ đẹp mà Lou luôn có, bộ sưu tập xe hơi của ông trước mặt, và Bennie đã nhìn vào khuôn mặt thần tượng nổi tiếng của anh và nghĩ, Ông hết thời rồi. Hoài niệm là kết thúc - ai cũng biết điều đó. Lou đã chết ba tháng trước, sau khi bị liệt do đột quỵ.

Ở một giao lộ, Bennie nhớ ra danh sách của mình. Anh lấy cái vé xe ra và hoàn thành nốt.

“Anh cứ nguệch ngoạc cái gì vào tấm vé đó vậy?” - Sasha hỏi. Bennie đưa nó cho cô, cảm giác miễn cưỡng khi bày danh sách đó ra dưới ánh mắt sẽ phủ chụp lấy anh ngay nửa giây sau. Trước nỗi kinh sợ của anh, cô bắt đầu đọc to:

“Hôn Mẹ Bề trên, vô vọng, cục lông, hạt hoa anh túc, trên bệ xí.”

Bennie lắng nghe trong đau đớn, như thể bản thân những từ đó có thể gây ra một tai ương. Nhưng chúng đã được trung tính hóa ngay khi Sasha đọc chúng lên bằng chất giọng lanh lảnh.

“Không tệ” - cô nói. - “Đây là tên bài hát, phải không?”

“Phải” - Bennie nói. - “Cô có thể đọc lần nữa không?” Cô đọc, và lần này anh cũng cảm thấy đó là những tiêu đề. Anh cảm thấy thanh thản, sạch sẽ.

“Tôi thích nhất cái tên Hôn Mẹ Bề trên” - Sasha nói. - “Chúng ta phải tìm cách dùng được nó.”

Họ đỗ lại bên ngoài nhà của cô ở Forsyth. Con đường mang cảm giác tối tăm hoang vắng. Bennie ước gì cô được sống ở một nơi tốt hơn. Sasha cầm chiếc túi hàng chợ của mình lên, một cái giếng ước nguyện không hình thù mà ở đó cô đã xoay sở cất được bất cứ hồ sơ hay con số hay mảnh giấy nào mà anh cần trong suốt mười hai năm qua. Bennie nắm chặt bàn tay xanh xao mỏng mảnh của cô. “Nghe này” - anh nói. - “Nghe này, Sasha.”

Cô ngước lên. Bennie chẳng cảm thấy chút dục vọng nào - anh thậm chí còn không cương cứng. Cảm giác của anh với Sasha là yêu thương, một sự an toàn và gần gũi giống như anh đã từng có với Stephanie trước khi anh khiến cô thất vọng quá nhiều lần tới nỗi cô không thể ngừng nổi giận. “Anh phát điên vì em, Sasha” - anh nói. - “Phát điên.”

“Thôi nào, Bennie” - Sasha khẽ rầy la. - “Làm gì có chuyện đó.”

Anh cầm bàn tay cô giữa hai tay anh. Ngón tay của Sasha lạnh ngắt run rẩy. Một bàn tay kia của cô đặt trên cửa.

“Chờ đã” - Bennie nói. - “Xin em đấy.”

Cô quay sang anh, buồn bã nói: “Không thể nào, Bennie. Chúng ta cần nhau.”

Họ nhìn nhau dưới ánh đèn yếu ớt. Khuôn mặt xương xương duyên dáng của Sasha lấm tấm tàn nhang, gương mặt của một cô bé, nhưng cô không còn là cô bé nữa khi anh không nhìn.

Sasha vươn tới hôn lên má Bennie: một nụ hôn giản dị, nụ hôn giữa anh trai và em gái, mẹ và con trai, nhưng Bennie cảm nhận được sự mềm mại của da cô, chuyển động ấm áp của hơi thở. Rồi cô ra khỏi xe. Cô vẫy anh qua cửa sổ và nói gì đó anh không nghe ra. Bennie nhoài người qua chiếc ghế trống, mặt anh gần sát cửa kính, nhìn chăm chú khi cô nói lại điều đó. Nhưng anh vẫn lỡ. Khi anh chật vật mở được cánh cửa ra, Sasha nói lại một lần nữa, nói to từng từ thật chậm:

“Gặp. Anh. Ngày. Mai.”