4: Thám hiểm châu Phi I. Cỏ
“Nhớ không, Charlie? Ở Hawaii? Lần chúng ta đi ra biển ban đêm và trời đổ mưa?”
Rolph đang nói chuyện với chị nó, Charlene, con bé ghét cái tên thật ấy. Nhưng vì chúng đang lom khom quanh đống lửa bên cạnh những người khác trong chuyến khám phá châu Phi, và vì Rolph không thường nói lên tất cả những chuyện này, cả vì bố nó, Lou, đang ngồi phía sau chúng trên một cái ghế gấp (trong khi chúng dùng que nhỏ vẽ nguệch ngoạc lên đất), một nhà sản xuất băng đĩa có đời sống riêng tư ồn ào, thế nên những người ở gần đều đang dỏng tai nghe.
“Nhớ không? Mẹ và bố đã ngồi nán lại bên bàn để uống một ly nữa...”
“Không được đâu” - bố chúng nói ngang, nháy mắt với các bà đang ngắm chim ở phía bên trái anh. Cả hai bà đều đeo ống nhòm dù trời tối bưng, như thể đang mong phát hiện ra những con chim đậu trên cái cây phản chiếu ánh lửa sáng rực trên đầu họ.
“Nhớ không, Charlie? Lúc đó bãi biển vẫn ấm và gió thổi lồng lộng?”
Nhưng Charlie đang để ý đôi chân cha nó phía sau lưng nó, đang xoắn lấy đôi chân của cô bạn gái, Mindy. Chỉ chốc nữa thôi hai người họ sẽ chúc cả nhóm ngủ ngon rồi rút vào trong lều của họ, làm tình trên một trong những cái giường nhỏ ọp ẹp trong đó, mà cũng có thể là trên đất. Từ cái lều bên cạnh mà nó và Rolph ở chung, Charlie có thể nghe thấy - chính xác không phải tiếng động, mà là cử động. Rolph còn nhỏ nên không biết.
Charlie quay ngoắt đầu lại nhìn cha nó chằm chằm. Lou gần bốn mươi, gương mặt có khuôn hàm vuông vức đã hơi xệ xuống vùng quanh mắt. “Bố đã cưới mẹ trong chuyến đi ấy,” nó nhắc bố nó, giọng nó nghèn nghẹt do nghẹo cổ, cái cổ vốn được đeo chiếc vòng vỏ sò ôm sát.
“Phải, Charlie” - Lou nói. - “Bố nhớ rõ chứ.”
Mấy bà già đang ngắm chim nở nụ cười buồn bã. Lou là kiểu đàn ông mà sức quyến rũ bất tận đã tạo ra một chặng đời tư biến động hiển hiện rõ ràng trong quá khứ của anh: hai cuộc hôn nhân thất bại và hai đứa nhỏ khác ở LA, chúng quá nhỏ nên không thể đưa đi trong chuyến thám hiểm châu Phi ba tuần này. Chương trình thám hiểm châu Phi này là dự án kinh doanh mới của Ramsey, người bạn cũ trong quân đội của Lou, người mà Lou đã từng uống say rồi đánh lộn, điều khó tránh khỏi ở Hàn Quốc gần hai mươi năm trước. Rolph lay lay vai chị nó. Nó muốn chị nó nhớ lại, cảm nhận lại tất cả cảnh ấy: cơn gió, biển đen vô tận, hai chị em nó nhìn vào biển đen như thể chờ đợi một tín hiệu từ cuộc đời trưởng thành xa xôi của chúng. “Nhớ không, Charlie?”
“Có” - Charlie nói, nheo mắt. - “Chị nhớ chứ.”
Các chiến binh Samburu vừa tới - bốn người liền, hai người cầm trống, một đứa bé tô vẽ trông như một con bò vàng sừng dài. Họ cũng đến tối qua, sau khi kết thúc buổi đi săn ban sáng, khi Lou và Mindy đang “chợp mắt”. Đó là khi Charlie thẹn thùng trao ánh mắt với chiến binh đẹp nhất, anh chàng có tấm khăn thiết kế vặn thừng giống như đường ray chạy qua công trình sừng sững của ngực, vai và lưng cậu.
Charlie đứng lên đi lại gần các chiến binh hơn: một cô gái gầy gò mặc soóc và áo sơ mi cotton thô có hàng cúc gỗ tròn bé xíu. Răng nó hơi chìa. Khi các tay trống đánh trống, chiến binh của Charlie và người còn lại cất tiếng hát: giọng yết hầu của họ phát ra từ bụng. Charlie đung đưa trước mặt họ. Qua mười ngày ở châu Phi, nó bắt đầu cư xử như một đứa con gái khác hẳn - kiểu đe dọa nó khi ở nhà. Trong một thị trấn họ ghé qua mấy hôm trước, nó đã uống một ly cocktail trông như nước bùn trong một quán bar và kết quả là phải tháo đôi bông tai hình con bướm bằng bạc (quà sinh nhật của cha nó) trong chòi của một phụ nữ rất trẻ có bộ ngực căng sữa. Nó trở lại xe jeep muộn; Albert, phụ tá của Ramsey, đã tìm ra nó. “Chuẩn bị tinh thần đấy” - anh nói. - “Bố em đang hoảng hốt lắm.” Từ lúc đó cho tới bây giờ Charlie đều chẳng bận tâm; đó là cái giá cho mong mỏi giản đơn được thấy gương mặt nghệt ra vì lo lắng của cha nó, được cảm nhận nỗi bất an của cha nó khi nó nhảy nhót một mình bên đống lửa.
Lou thả bàn tay Mindy ra rồi đứng bật dậy. Anh muốn chộp lấy cánh tay khẳng khiu của con gái và lôi tuột nó ra khỏi mấy gã đàn ông da đen đó, nhưng anh chẳng làm thế, tất nhiên. Làm vậy thì con bé sẽ thắng.
Anh chàng chiến binh kia mỉm cười với Charlie. Cậu ta mười chín tuổi, chỉ hơn nó năm tuổi, và đã sống xa làng của cậu từ năm lên mười. Nhưng cậu đã hát cho nhiều khách du lịch Mỹ nên biết rằng trong thế giới của Charlie, con bé còn là trẻ con. Ba mươi lăm năm sau ngày hôm nay, năm 2008, chiến binh này sẽ bị bắt trong cuộc xung đột giữa các bộ lạc Kikuyu và Luo rồi sẽ chết trong hỏa hoạn. Lúc đó cậu sẽ có bốn người vợ và mười ba đứa cháu nội ngoại, một trong số đó, thằng bé tên là Joe, sẽ thừa kế lalema của cậu: con dao găm đi săn bằng sắt cậu đang mang bên mình hiện nay. Joe sẽ tới trường đại học Columbia học ngành cơ khí, trở thành chuyên gia trong lĩnh vực kỹ thuật rô-bốt thị giác, phát hiện ra những dấu hiệu mờ nhạt nhất của chuyển động không đều (hệ quả của tuổi thơ trườn trên cỏ nghe ngóng sư tử). Cậu sẽ cưới một cô gái Mỹ tên là Lulu và sống ở New York, ở đó cậu sẽ phát minh ra một thiết bị dò quét, thứ sẽ trở thành chuẩn mực cho an ninh đám đông. Cậu và Lulu sẽ mua một căn hộ tầng thượng ở Tribeca, ở đó con dao găm đi săn của ông cậu sẽ được trưng bày trong khối lập phương thủy tinh plêxi, đặt ngay dưới cửa sổ áp mái.
“Con trai” - Lou nói thầm vào tai Rolph. - “Chúng ta đi dạo đi.”
Thằng bé đứng lên cùng bố đi khỏi đống lửa. Mười hai cái lều, mỗi lều dành cho hai khách thám hiểm ngủ, tạo thành một vòng tròn, kèm với ba nhà vệ sinh và một nhà tắm, ở đó nước được làm nóng bằng lửa và chảy ra từ bọc đựng khi kéo một sợi dây. Khuất tầm mắt, bên cạnh bếp, là một số lều nhỏ cho nhân viên, rồi tới vùng bụi rậm đen đặc rì rầm, nơi họ đã cẩn thận không bao giờ đi vào.
“Chị gái con đang hành động ngu ngốc” - Lou nói, sải bước vào vùng tối.
“Tại sao?” - Rolph hỏi. Nó chẳng thấy cư xử của Charlie có gì ngu ngốc. Nhưng cha nó lại hiểu câu hỏi ấy thành ý khác.
“Phụ nữ rất điên rồ” - anh nói. - “Con sẽ phải dành vô khối thời gian của cuộc đời để hiểu tại sao.”
“Mẹ không như vậy.”
“Phải” - Lou ngẫm nghĩ, giờ đã bình tĩnh hơn. - “Nói đúng hơn, mẹ con không điên tới độ đấy.”
Tiếng hát và tiếng đập trống bỗng lùi xa, bỏ lại Lou và Rolph một mình giữa ánh trăng ma quái.
“Mindy thì sao?” - Rolph hỏi. - “Cô ấy có điên rồ không?”
“Câu hỏi hay” - Lou nói. - “Con nghĩ sao?”
“Cô ấy thích đọc. Cô ấy mang theo rất nhiều sách?”
“Quả vậy.”
“Con thích cô ấy” - Rolph nói. - “Nhưng con không biết cô ấy có điên không. Cũng không biết chính xác cỡ nào là điên.”
Lou vòng tay quanh Rolph. Nếu là người sống nội tâm, thì hẳn từ nhiều năm trước anh đã hiểu rằng cậu con trai là người duy nhất trên đời có sức mạnh để trấn an anh. Và dù mong Rolph sẽ giống mình, nhưng điều anh thích thú nhất ở cậu con trai là nó khác anh rất nhiều thứ: lặng lẽ, suy tư, hòa hợp với thế giới tự nhiên và nỗi đau của người khác.
“Ai quan tâm chứ” - Lou nói. - “Đúng không?”
“Đúng” - Rolph đồng tình, rồi mấy người phụ nữ cũng khuất dần như tiếng trống, để nó và cha nó cùng nhau, một tổ hợp vĩnh cửu. Năm mười một tuổi, Rolph biết rõ hai điều về bản thân: Nó thuộc về cha nó. Và cha nó thuộc về nó.
Họ đứng im, xung quanh là tiếng bụi cây rì rào. Bầu trời lấp lánh ngàn sao. Rolph nhắm mắt rồi lại mở ra. Nó nghĩ, mình sẽ nhớ đêm nay tới trọn đời. Quả là như thế.
Khi cuối cùng họ trở lại trại, các chiến binh đã đi. Chỉ còn mấy người cố thủ nhất từ Phoenix Faction (như Lou gọi những thành viên của đoàn thám hiểm tới từ những vùng đáng ngờ) vẫn còn ngồi bên đống lửa, so sánh những con vật trông thấy trong ngày hôm ấy. Rolph lẻn vào lều, cởi quần dài, mặc áo phông và quần lót leo lên chõng. Nó đoán Charlie đã ngủ. Khi con bé nói, nó biết con bé đang khóc.
“Em đã đi đâu thế?” - Con bé nói.
II. Đồi“Cô mang cái quái gì trong ba lô thế?”
Đó là Cora, trợ lý du lịch của Lou. Cô ghét Mindy, nhưng Mindy không coi đó là chuyện cá nhân - đó là Xu hướng Ghét bỏ, một thuật ngữ mà Mindy tự đặt ra và thấy nó rất hữu ích trong chuyến đi này. Một phụ nữ độc thân tuổi bốn mươi mặc áo sơ mi cao cổ để lộ những đường gân cổ chằng chịt sẽ có xu hướng ganh ghét với người tình hai mươi ba tuổi của một người đàn ông quyền lực, kẻ không chỉ thuê người phụ nữ trung niên nói trên mà còn trả tiền cho cô ta tham gia chuyến đi này.
“Sách Nhân học” - cô nói với Cora. - “Tôi đang học chương trình Ph.D. ở Berkeley.”
“Sao cô chẳng đọc?”
“Say xe” - Mindy nói, điều này rất hợp lý, hiển nhiên rồi, trên những chiếc jeep xóc nảy như thế, nhưng không phải sự thật. Cô không rõ tại sao mình không nổ về Boas hay Malinowski hay Julian Jaynes, nhưng cô đoán hẳn là mình phải nghĩ theo những hướng khác rằng điều đó sẽ mang lại lợi ích tương đương. Trong những khoảnh khắc bốc đồng, đầy phấn khích nhờ cà phê đen nóng hổi mà người ta phục vụ mỗi sáng trong lều ăn, Mindy thậm chí còn nghĩ biết đâu những suy nghĩ sâu xa của cô về mối liên hệ giữa xu hướng xã hội và phản ứng cảm xúc có thể còn đáng giá hơn tổng tập Lévi-Strauss tinh tuyển; một sự ứng dụng đương đại. Cô mới học tới năm hai.
Xe jeep của họ xếp hàng năm chiếc, phì phò suốt con đường đất băng qua vùng đất rợp cỏ, nơi màu nâu nổi bật điểm xuyết muôn màu trong tâm trí: các tông tím, các tông xanh, các tông đỏ. Albert, một người Anh cáu kỉnh, tay phó của Ramsey, lái xe. Mindy đã xoay sở tránh được xe của Albert trong nhiều ngày, nhưng mọi người cứ tán dương anh ta phát hiện được những con thú tuyệt nhất, thế nên dù hôm nay không có lịch săn bắn - họ đang đi lên đồi, nơi họ sẽ qua đêm trong khách sạn lần đầu tiên trong chuyến đi này - nhưng lũ trẻ năn nỉ được đi cùng xe anh ta. Mà làm cho các con của Lou hạnh phúc, hay gần với hạnh phúc nhất có thể, lại là một phần việc của Mindy.
Xu hướng Oán hận: Cô con gái tuổi teen của một người đàn ông hai lần ly dị sẽ không thể khoan dung với sự có mặt của bạn gái mới của bố, và sẽ làm mọi thứ trong khả năng hạn chế của mình để khiến ông bố lơ là sự hiện diện của cô bạn gái nói trên, bản năng giới tính mới chớm là vũ khí chính của nó.
Xu hướng Tình thương: Đứa con trai trước ngưỡng tuổi teen (và là đứa con yêu quý nhất) của ông bố hai lần ly dị sẽ che chở và chấp nhận bạn gái mới của bố vì nó chưa học tách biệt tình yêu và khao khát của bố và của chính nó. Về mặt nào đó, nó cũng sẽ yêu và khao khát cô, và cô sẽ có cảm giác mẫu tử với nó, dù cô không đủ già để làm mẹ nó.
Lou mở một cái hộp nhôm rộng, trong đó chiếc camera mới được đặt giữa đệm xốp giống như một khẩu súng trường chưa lắp. Anh dùng cái camera đó để xua đuổi cảm giác buồn chán xâm chiếm cơ thể khi anh không thể duỗi chân đi loanh quanh. Anh đã mang theo một cái cát-xét bé tí với một đôi tai nghe nhỏ để nghe các băng demo và các bản mix thô. Thỉnh thoảng anh đưa tai nghe cho Mindy, muốn nghe ý kiến của cô, và mỗi lần như thế, thứ âm nhạc rót thẳng vào màng nhĩ của cô - sự cô độc của cô - lại khiến cô bàng hoàng tới nỗi hai mắt mở to; sự riêng tư của nó, cách nó biến mọi thứ quanh cô thành một thước phim vàng ruộm, như thể cô đang xem lại chuyến thám hiểm châu Phi kỳ thú này cùng với Lou vào một ngày không xa.
Xu hướng Xung khắc: Một người đàn ông hai lần ly dị đầy quyền lực sẽ không thể chấp nhận, càng không ủng hộ, những tham vọng của người bạn gái trẻ hơn nhiều. Nghiễm nhiên, mối quan hệ của họ sẽ chỉ là tạm thời.
Xu hướng Khao khát: Cô bạn gái tạm thời trẻ trung hơn nhiều tuổi đó của người đàn ông quyền lực sẽ bị thu hút mạnh mẽ bởi người đàn ông độc thân nào coi thường quyền lực của bạn trai cô.
Albert lái xe, một tay gác ra ngoài cửa sổ. Trong suốt chuyến thám hiểm này, anh hết sức lặng lẽ, ăn thật nhanh trong lều ăn, trả lời câu hỏi của mọi người thật ngắn gọn. (“Anh sống ở đâu?” “Mombasa.” “Anh ở châu Phi bao lâu rồi?” “Tám năm.” “Cái gì khiến anh tới đây?” “Cái này cái kia.”) Anh chẳng mấy khi ngồi chung với cả nhóm bên đống lửa sau bữa tối. Một hôm trên đường ra nhà vệ sinh, Mindy thoáng thấy Albert ngồi bên một đống lửa khác gần các lều của nhân viên, uống bia và cười to với những tay tài xế người Kikuyu. Với nhóm khách du lịch, anh hiếm khi mỉm cười. Mỗi khi ánh mắt anh đụng phải ánh mắt Mindy, cô cảm thấy xấu hổ cho mình: vì cô xinh đẹp; vì cô ngủ với Lou; vì cô hay nói cô đi chuyến này để thực hiện nghiên cứu nhân học đối với các động lực nhóm và những vùng đất biệt lập về mặt dân tộc, trong khi cái cô thực sự theo đuổi là sự xa hoa, phiêu lưu, và một khoảng thời gian rời xa bốn đứa bạn cùng phòng luôn khiến cô mất ngủ.
Ngồi bên Albert, cạnh ghế lái, Chronos đang ba hoa về động vật. Anh ta là tay bass của Mad Hatters, một trong các ban nhạc của Lou, tham gia chuyến đi này với tư cách khách mời của Lou, cùng với một tay guitar và hai cô bạn gái của họ. Bốn người này đang âm thầm dự vào một cuộc thi phát hiện động vật (Xu hướng Cắm chốt: Một ám ảnh tập thể, cảm sinh theo hoàn cảnh, trở thành nơi khu trú tạm thời của tham lam, tranh đấu, tị hiềm). Đêm nào họ cũng đấu với nhau xem ai đã phát hiện được nhiều con vật hơn và thuộc loài gì, đề nghị chứng nhận từ những chiếc xe jeep của từng người trong bọn họ và hứa hẹn sẽ có bằng chứng xác thực khi họ dựng lại phim lúc đã về nhà.
Sau lưng Albert là Cora, trợ lý du lịch, ngồi bên cạnh cô và đang nhìn chăm chú ra cửa sổ là Dean, một diễn viên tóc vàng là thiên tài trong việc tuyên bố những điều hiển nhiên - “Nóng quá” hay “Mặt trời đang lặn” hay “Không có nhiều cây cối nhỉ” - một nguồn vui thú to lớn của Mindy. Dean đang đóng một bộ phim mà phần âm thanh do Lou hỗ trợ thực hiện; có thể dự đoán rằng bộ phim công chiếu sẽ đưa Dean vụt trở thành một tên tuổi sáng chói đến kệch cỡm. Ngồi phía sau anh ta, Rolph và Charlie đang khoe tờ tạp chí Mad với Mildred, một trong các bà hay quan sát chim. Bà và bạn đồng hành, Fiona, thường lởn vởn cạnh Lou, vì anh không ngừng tán tỉnh họ và ghẹo bảo họ cho anh ngắm chim cùng. Sự say mê của anh với những bà bảy mươi này (vốn là người lạ với anh trước chuyến đi) gây ngạc nhiên bối rối cho Mindy; cô không tìm ra nguyên nhân mang tính xu hướng nào cho nó.
Ở hàng cuối cùng, bên cạnh Mindy, Lou vươn người ra khỏi trần xe mở để chụp ảnh, phớt lờ quy tắc ngồi yên trong khi xe jeep chạy. Albert đột ngột đổi hướng, Lou rơi bịch trở lại ghế, chiếc camera chấn vào trán anh. Anh chửi thề với Albert, nhưng những lời ấy chìm mất giữa tiếng gầm gào của chiếc jeep vượt qua bãi cỏ cao vút. Họ vừa rời khỏi đường mòn. Chronos nhoài ra ngoài cửa kính mở, và Mindy nhận ra rằng hẳn là Albert rẽ ngoặt như vậy là vì Chronos, cho anh ta một cơ hội để vượt lên các đối thủ của anh ta. Hay cám dỗ được hất ngã Lou quá ngọt ngào để có thể khước từ?
Sau một vài phút động cơ kêu ầm ĩ, chiếc jeep tiến tới cách một đàn sư tử chừng mấy mét. Mọi người đột ngột im lặng, nhìn trân trân - suốt hành trình đây là lần đầu họ gần con vật tới vậy. Chiếc ô tô vẫn chạy, bàn tay Albert ngập ngừng trên vô lăng, nhưng đàn sư tử có vẻ rất thảnh thơi, rất thờ ơ, nên anh tắt máy. Trong sự im lặng của tiếng động cơ ro ro lịm dần, họ nghe thấy cả tiếng sư tử thở: hai con cái, một con đực, ba con con. Đám sư tử con và một con cái đang nhai xác một con ngựa vằn còn đỏ máu. Các con khác đang ngủ lơ mơ.
“Chúng đang ăn” - Dean nói.
Bàn tay Chronos run rẩy khi anh ta lắp cuộn băng vào trong máy quay. “Mẹ kiếp” - anh ta lẩm bẩm liên mồm. - “Mẹ kiếp.”
Albert châm thuốc - việc cấm kỵ trong vùng bụi rậm - và chờ, thờ ơ với cảnh tượng đó như thể anh đang đứng chờ ngoài phòng vệ sinh.
“Bọn con đứng dậy được không?” - Hai đứa trẻ hỏi. - “Có an toàn không?”
“Chắc là chả làm sao đâu” - Lou đáp.
Lou, Charlie, Rolph, Chronos và Dean đều trèo lên ghế, vươn nửa thân trên lên khỏi trần xe để mở. Lúc này Mindy chỉ còn lại mỗi một mình bên trong xe jeep cùng với Albert, Cora, và Mildred - người đang quan sát đàn sư tử qua ống nhòm ngắm chim.
“Làm sao anh biết?” - Mindy hỏi, sau một hồi im lặng.
Albert quay người nhìn suốt dọc lòng xe jeep xuống phía cô. Anh có mái tóc phóng túng và bộ ria mép màu nâu mềm mại. Một thoáng hài hước hiện trên gương mặt anh. “Đoán thôi.”
“Từ cách nửa dặm?”
“Có lẽ anh ta có giác quan thứ sáu sau nhiều năm ở đây.” - Cora nói.
Albert quay lại và nhả một làn khói ra ngoài cửa sổ để mở.
“Anh đã nhìn thấy gì à?” - Mindy khăng khăng.
Cô nghĩ Albert sẽ không quay lại, nhưng anh quay lại, nhoài người qua lưng ghế, mắt anh gặp mắt cô giữa những cặp chân trần của bọn trẻ. Mindy cảm thấy một cơn mê đắm cuộn lên mạnh mẽ như thể có ai nắm lấy ruột cô mà vặn. Giờ thì cô hiểu cảm giác ấy có từ hai phía; cô thấy điều ấy trên gương mặt Albert.
“Các bụi cây tẽ ra” - anh nói, khóa lấy ánh mắt cô. - “Giống như có con gì bị rượt đuổi. Nhưng cũng có thể chẳng có gì.”
Cora cảm nhận được mình là người thừa nên thở dài yếu ớt. “Có ai ngồi xuống cho tôi leo lên nhìn với được không?” - Cô gọi với lên đám người trên nóc.
“Đây này” - Lou nói, nhưng Chronos nhanh hơn, đã ngồi trở lại ghế trước và thò đầu ra ngoài cửa sổ. Cora đứng dậy trong chiếc váy in phùng phình. Máu dồn lên gương mặt Mindy. Cửa sổ của cô, giống cửa sổ của Albert, đều ở bên mạn trái của xe, không nhìn ra hướng đàn sư tử. Mindy quan sát anh ta làm ướt mấy ngón tay rồi dập tắt điếu thuốc. Họ ngồi trong yên lặng - tay đặt trên cửa sổ, một làn gió ấm thổi qua lớp lông măng trên cánh tay họ - phớt lờ cảnh ngắm động vật ngoạn mục nhất của chuyến thám hiểm này.
“Em đang làm tôi phát điên” - Albert nói, rất nhẹ. Âm thanh bay ra khỏi cửa sổ của anh lượn ra sau rồi ùa vào cửa sổ của Mindy, như đi qua ống nói. - “Chắc em biết điều ấy.”
“Em chưa biết” - cô thì thào lại.
“Em biết rồi đó.”
“Tay em đã bị trói.”
“Cả đời sao?”
Cô mỉm cười. “Thôi nào. Là đi nghỉ thôi.”
“Rồi sau đó?”
“Trường sau đại học. Berkeley.”
Albert cười khùng khục. Mindy không chắc tiếng cười đó có nghĩa là gì - thật buồn cười vì cô học ở trường sau đại học, hay vì Berkeley và Mombasa, chốn anh sống, là những nơi chẳng có gì chung?
“Chronos, cậu điên mẹ nó rồi, quay lại đây ngay.”
Đó là giọng Lou, từ phía trên cao. Nhưng Mindy cảm thấy đờ đẫn, như thể nghiện thuốc, và chỉ tỉnh ra khi cô nghe thấy giọng Albert thay đổi. “Không” - anh rít khẽ. - “Không! Trở lại xe đi.”
Mindy quay sang cửa sổ bên kia. Chronos đang len lén đi giữa đám sư tử, dí camera sát mặt con đực và con cái đang ngủ để chụp ảnh.
“Đi giật lùi” - Albert thì thào khẩn thiết. - “Đi giật lùi, Chronos, khẽ thôi.”
Chuyển động tới từ hướng không ai mong đợi: con sư tử cái đang ăn thịt con ngựa vằn. Nó chồm về phía Chronos với một cú bay lẹ làng như không trọng lượng mà ai có nuôi mèo cũng sẽ nhận ra. Nó vồ lấy đầu anh ta, quật anh ta ngã tức thì. Có nhiều tiếng kêu, một phát súng, rồi tất cả mọi người phía trên ngồi thụp xuống ghế mạnh tới nỗi thoạt đầu Mindy tưởng là họ bị bắn. Nhưng đó là con sư tử; Albert đã giết nó bằng khẩu súng mà anh giấu đâu đó, có thể là dưới ghế của anh. Những con sư tử khác đã bỏ chạy; tất cả những gì còn lại là xác con ngựa vằn và thân thể con sư tử cái, đôi chân của Chronos oằn dưới mình nó.
Albert, Lou, Dean và Cora nhảy ra khỏi xe. Mindy định ra theo, nhưng Lou đẩy cô lại, và nhận ra rằng anh muốn cô ở bên bọn trẻ. Cô dựa lưng vào ghế rồi đưa tay ôm mỗi đứa một bên. Khi họ nhìn ra ngoài những ô cửa sổ để mở, một cơn buồn nôn cuộn lên trong lòng Mindy; cô cảm thấy như sắp ngất. Mildred vẫn ngồi nguyên ở chỗ bên bọn trẻ, và Mindy lơ mơ nghĩ rằng bà già ngắm chim này đã ở trong xe suốt thời gian cô và Albert nói chuyện.
“Chronos chết à?” - Rolph hỏi thẳng.
“Chị tin anh ấy không chết” - Mindy đáp.
“Sao anh ấy không nhúc nhích?”
“Con sư tử đang ở trên anh ấy. Nhìn xem, họ đang cố kéo nó ra. Có lẽ ở dưới đó anh ấy vẫn ổn.”
“Trên mồm con sư tử có máu” - Charlie nói.
“Đó là từ con ngựa vằn. Nhớ không, nó đang ăn xác ngựa?” - Phải nỗ lực vô cùng mới có thể không đánh răng lập cập, nhưng Mindy biết mình phải giấu nỗi sợ hãi trước bọn trẻ, cô tin rằng tất cả những gì vừa xảy ra là lỗi của cô.
Họ chờ đợi trong không gian cô lập, tim đập thình thịch, bao bọc xung quanh là sự trống rỗng của một ngày nóng nực. Mildred đặt bàn tay chai sần lên vai Mindy, và Mindy cảm thấy mắt mình ứa lệ.
“Cậu ấy sẽ ổn thôi” - bà già nói khẽ. - “Rồi cô xem.”
Khi cả nhóm kéo vào quán bar của khách sạn trên núi sau bữa tối, ai nấy đều như vừa giành được một điều gì đó. Chronos giành được một chiến thắng vang dội trước cậu bạn cùng ban nhạc và cả hai cô bạn gái của hai người, và trả giá bằng ba mươi hai mũi khâu trên má trái mà ta có thể cho đó cũng là một chiến lợi phẩm (dù gì anh ta cũng là ngôi sao nhạc rock) và mấy viên thuốc kháng sinh to đùng được kê bởi một bác sĩ người Anh có đôi mắt lồi và hơi thở đầy mùi bia - một người bạn cũ của Albert, người mà anh khai quật ra trong một thị trấn cách chỗ đàn sư tử một giờ lái xe.
Albert đã giành được vị thế của một anh hùng, nhưng nếu nhìn anh thì người ta chẳng nhận ra điều đó. Anh uống cạn một ly bourbon và khe khẽ trả lời muôn ngàn câu hỏi của Phoenix Faction. Tuy nhiên chưa ai hỏi anh những câu căn bản tầm thường như: Sao anh lại ở trong bụi rậm đó? Làm sao anh tới được gần bầy sư tử thế? Sao anh không ngăn Chronos ra khỏi xe? Nhưng Albert biết rằng Ramsey, ông chủ của anh, sẽ hỏi những câu này, và rằng những câu ấy chắc hẳn sẽ dẫn tới chỗ anh bị sa thải: thất bại mới nhất trong chuỗi thất bại mang lại từ thứ mà mẹ anh, sống ở quê nhà Minehead, gọi là “xu hướng tự hủy hoại bản thân”.
Các thành viên trong chuyến thám hiểm của Ramsey thu được một câu chuyện mà họ sẽ kể đi kể lại suốt cả đời. Nhiều năm sau ngày hôm nay, một số người trong bọn họ sẽ háo hức tìm nhau trên Google và Facebook, không cưỡng được ảo vọng thỏa mãn mọi ước nguyện mà những cổng thông tin này mời mọc: Bấy nay cuộc đời đã ra sao với...? Trong một số trường hợp, họ sẽ gặp lại nhau để hồi tưởng lại và để ngạc nhiên trước sự thay đổi hình dáng của nhau, một chuyện hẳn sẽ nhạt đi trong chốc lát. Dean - người mà thành công sẽ né tránh anh cho tới tận tuổi trung niên, khi anh vào vai một ông thợ sửa ống nước bụng phệ tính tình bộc trực trong một sitcom nổi tiếng - sẽ gặp để uống một cốc espresso với Louise (lúc này là một cô bé mười hai tuổi mũm mĩm của Phoenix Faction), người sẽ Google ra anh sau cuộc ly dị của cô. Sau buổi cà phê, họ sẽ đền bù bằng việc gặp gỡ ở một quán rượu ban ngày dưới đường San Vicente cho cuộc yêu nồng nhiệt ngoài mong đợi, rồi đi Palm Springs đánh golf cuối tuần, và cuối cùng là giáo đường thành thân, đi kèm là bốn đứa con trưởng thành của Dean và ba đứa tuổi teen của Louise. Nhưng kết quả này sẽ là một ngoại lệ hoàn toàn - phần lớn các cuộc tái ngộ sẽ dẫn tới chỗ hai bên cùng nhận ra rằng cùng tham gia hành trình khám phá châu Phi ba mươi lăm năm trước không có nghĩa là có nhiều điểm chung, rồi họ sẽ ai đi đường nấy, tự hỏi chính xác thì họ mong đợi điều chi.
Đoàn người trên xe của Albert đã giành được vị thế người chứng kiến, được mọi người hỏi liên tu bất tận xem họ đã thấy, nghe và cảm nhận những gì. Một đám trẻ con, trong đó có Rolph, Charlie, hai đứa con trai sinh đôi lên tám từ Phoenix, và Louise, con bé mười hai tuổi béo tròn, chạy tán loạn dọc một con đường lát phiến gỗ tới bên một chỗ khuất cạnh một đầm nước: một cái chòi gỗ đầy những chiếc ghế dài có một cái lỗ để chúng nhìn xuyên qua mà muông thú không thấy được. Bên trong tối om. Chúng chạy tới bên cái lỗ, nhưng lúc đó chẳng có con vật nào đang uống nước.
“Các cậu đã nhìn thấy sư tử thật đấy à?” - Louise ngờ vực hỏi.
“Sư tử cái” - Rolph đáp. - “Hai con sư tử cái, một con đực. Ba con con.”
“Ý em ấy là con đã bị bắn cơ” - Charlie sốt ruột nói. - “Tất nhiên là bọn chị đã nhìn thấy. Bọn chị cách đó có vài phân!”
“Mét” - Rolph sửa lời chị nó.
“Mét thì cũng từ phân mà lên” - Charlie nói. - “Bọn chị thấy mọi thứ.”
Rolph đã bắt đầu ghét những cuộc trò chuyện này - cảm giác phấn khích run rẩy ẩn phía sau, cách nói dường như quá khoa trương của Charlie. Có một suy nghĩ cứ khiến nó khó chịu nãy giờ. “Em tự hỏi chuyện gì sẽ xảy ra với đàn con” - nó nói. - “Con sư tử cái bị bắn chắc là mẹ đang ăn cùng với lũ con.”
“Đâu nhất thiết” - Charlie nói.
“Nhưng nếu nó là...”
“Có lẽ con sư tử bố sẽ chăm sóc chúng” - Charlie ngờ vực nói. Mấy đứa trẻ kia đều im lặng, suy ngẫm về câu hỏi.
“Sư tử thường nuôi con chung trong cả đàn” - một giọng cất lên từ đầu kia của căn chòi. Mildred và Fiona đã ở đó từ trước hoặc là vừa mới lẻn vào; vì vừa già vừa là phụ nữ nên họ dễ không được để ý. “Cả đàn sẽ chăm sóc chúng” - Fiona nói - “dù con bị giết có là mẹ chúng đi nữa.”
“Mà cũng có thể là chẳng phải thế” - Charlie nói thêm.
“Mà cũng có thể là chẳng phải thế” - Mildred đồng tình.
Bọn trẻ không nghĩ tới chuyện hỏi Mildred, người cũng ở trên chiếc jeep đó, xem bà đã thấy gì.
“Em quay lại đây” - Rolph nói với chị gái.
Nó đi theo con đường gỗ trở lại khách sạn. Bố nó và Mindy vẫn đang ở trong quán bar nghi ngút khói thuốc; cảm giác ăn mừng, khác lạ khiến Rolph mụ mị. Nó trăn trở về chuyện trên xe jeep, nhưng ký ức của nó rất hỗn độn: con sư tử chồm lên; khẩu súng giật mạnh; Chronos rên rỉ suốt chặng đường tới bác sĩ, máu từ đầu anh ta đọng thành vũng trên sàn jeep, giống như trong tạp chí comic. Tất cả tràn ngập cảm giác khi Mindy ôm nó từ phía sau, má cô tựa lên đầu nó, mùi của cô: không phải mùi bánh mì, như mẹ nó, mà là mùi muối, nhân nhẩn đắng - một mùi rất gần với mùi của loài sư tử.
Nó đứng bên cạnh bố nó, người vừa ngừng lại khi đang kể dở câu chuyện trong quân đội cho Ramsey nghe.
“Con mệt à, con trai?”
“Muốn chị đưa em lên lầu không?” - Mindy hỏi, và Rolph gật đầu: nó thực sự muốn thế.
“Màn đêm xanh thẫm, kêu vo vo, ùa vào qua các ô cửa sổ khách sạn. Ra khỏi bar, Rolph bỗng nhiên thấy đỡ mệt hẳn. Mindy lấy chìa khóa phòng từ bàn lễ tân, rồi nói: “Chúng ta ra ngoài hiên đi.”
Họ bước ra ngoài. Trời đã tối, bóng núi in trên nền trời còn sẫm màu hơn. Rolph nghe thấy láng máng tiếng của lũ trẻ ở phía dưới chòi gỗ. Nó thấy nhẹ người vì thoát được khỏi chúng. Nó đứng bên Mindy trên mép sân hiên và nhìn ra núi non. Mùi hương mặn nồng của cô bao phủ quanh nó. Rolph cảm thấy cô đang mong đợi gì đó và nó cũng mong đợi, tim nó đập thình thịch.
Ở phía cuối sân có một cái ghế dài. Rolph thấy một đốm thuốc màu cam đung đưa trong bóng tối, rồi Albert đi về phía họ với tiếng giày cọt kẹt. “Xin chào” - anh nói với Rolph. Anh không nói với Mindy, thế nên Rolph cho rằng câu xin chào đó là dành cho cả hai người họ.
“Xin chào” - nó chào lại Albert.
“Em đang làm gì vậy?” - Albert hỏi.
Rolph quay sang hỏi Mindy. “Chúng ta đang làm gì vậy?”
“Ngắm đêm” - cô nói, vẫn nhìn về phía núi non, nhưng giọng cô căng thẳng. - “Chúng ta nên lên thôi” - cô nói với Rolph, rồi quay ngoắt người đi vào trong khách sạn. Rolph bực bội với sự thô lỗ của cô, nó hỏi Albert: “Anh có vào không?”
“Sao không?”
Ba người họ đi lên cầu thang, tiếng nhạc vui vẻ rộn ràng đưa lên từ dưới bar. Rolph cảm thấy một áp lực kỳ cục phải trò chuyện. “Phòng anh cũng trên này à?” - Nó hỏi.
“Dưới sảnh” - Albert đáp. - “Số ba.”
Mindy mở cửa phòng Rolph rồi bước vào, bỏ mặc Albert ngoài sảnh. Rolph bỗng thấy tức giận với cô.
“Muốn xem phòng em không?” - Nó hỏi Albert. - “Phòng của em và Charlie?”
Mindy cười một tiếng cụt lủn, đúng điệu mẹ nó vẫn cười khi mọi thứ khiến bà tức điên tới độ mất lý trí. Albert bước vào phòng. Căn phòng đơn sơ, với đồ gỗ và những tấm mành hoa bám bụi, nhưng sau mười đêm trong lều thì cảm giác căn phòng này thật xa hoa.
“Đẹp lắm” - Albert nói. Với mái tóc nâu dài và hàng ria mép, anh ấy trông giống một nhà thám hiểm thực sự, Rolph nghĩ. Mindy khoanh tay, nhìn chằm chằm ra cửa sổ. Có một cảm giác gì đó trong căn phòng này mà Rolph không thể định danh. Nó đang giận Mindy và nghĩ rằng chắc hẳn Albert cũng thế. Phụ nữ rất điên rồ. Cơ thể Mindy mảnh khảnh và mềm dẻo; cô có thể chui qua một ổ khóa, hoặc phía dưới cánh cửa. Chiếc áo len mỏng màu tím của cô phập phồng lên xuống thật mau theo nhịp thở. Rolph ngạc nhiên không hiểu sao mình tức giận đến thế.
Albert rút một điếu thuốc ra, nhưng không châm. Điếu thuốc đó không có đầu lọc, thuốc lá nhô ra ở cả hai đầu. Anh nói: “Thôi, chúc cả hai ngủ ngon.”
Lúc trước Rolph đã tưởng tượng ra Mindy kéo nó lên giường, cánh tay cô lại ôm lấy nó như khi ở trên xe. Giờ thì điều đó xem ra không được nữa rồi. Nó không thể thay pyjamas khi có Mindy ở đây; nó thậm chí chẳng muốn cô thấy pyjamas của nó, bộ đồ in hình những người lùn bé xíu xanh lơ.
“Em ổn” - nó nói với cô, nghe được cả sự lạnh nhạt trong giọng mình. - “Chị về đi.”
“Được rồi” - cô nói, rồi cúi xuống bên giường nó, vỗ vỗ gối, khép cửa sổ lại. Rolph cảm thấy cô đang kiếm cớ không đi.
“Bố em và chị sẽ ở ngay phòng bên cạnh” - Mindy nói. - “Em biết, đúng không?”
“Ừ” - nó lầm bầm. Rồi kiềm chế lại, nó nói - “Em biết.”
III. CátNăm ngày sau, họ lên một con tàu dài rất cũ chạy xuyên đêm tới Mombasa. Cứ chốc chốc tàu lại chậm lại vừa đủ cho người ta nhảy ra khỏi cửa, đồ đạc ôm chặt trước ngực, và cho những người khác bò lên. Nhóm của Lou và Phoenix Faction chui cả vào trong một khoang bar chật chội, ở đó còn có những người đàn ông châu Phi mặc vest và đội mũ quả dưa. Charlie được phép uống một cốc bia, nhưng nó lén uống thêm hai cốc nữa với sự trợ giúp của anh chàng Dean điển trai, người đang đứng cạnh chiếc ghế nhỏ bên quầy bar của nó. “Em rám nắng rồi” - anh ta nói, ấn một ngón tay vào má Charlie. - “Nắng châu Phi chói chang thật.”
“Phải” - Charlie nói, cười phì khi uống một ngụm bia. Giờ đây khi đã nhận ra Dean rất tẻ nhạt, Charlie thấy anh ta thật buồn cười.
“Em phải bôi kem chống nắng” - anh ta nói.
“Em biết. Em đã bôi.”
“Một lần không đủ. Em phải bôi lại.”
Charlie bắt được ánh mắt của Mindy và bật cười khúc khích. Bố nó tới gần. “Có chuyện gì vui thế?”
“Cuộc sống” - Charlie nói, ngả người về phía bố nó.
“Cuộc sống!” - Lou khịt mũi, nói. - “Con mấy tuổi đấy?”
Anh ôm con vào lòng. Khi Charlie còn nhỏ anh ôm nó suốt, nhưng khi nó lớn lên thì ít hơn. Charlie thấy bố nó thật ấm, gần như là nóng, nhịp tim của bố nó nghe như người ta đang đập sầm sầm vào cửa.
“Á” - Lou kêu. - “Cái lông nhím của con đâm bố.” Đó là một cái lông nhím màu đen pha trắng, con bé đã tìm thấy nó ở trên đồi và dùng nó làm ghim cài tóc. Lou lấy cái lông ra, và mái tóc vàng óng của Charlie bung xõa trên vai con bé như ô cửa sổ bật mở. Con bé nhận ra Dean đang ngắm nhìn.
“Bố thích thế này” - Lou nói, liếc mắt nhìn đầu nhọn trong suốt của cái lông nhím. - “Đây là một vũ khí nguy hiểm.” “Vũ khí là cần thiết” - Dean đáp.
Chiều hôm sau, đoàn thám hiểm đã ổn định trong một khách sạn cách bờ biển nửa giờ. Một bãi cát trắng tinh, những người đàn ông với bộ ngực nở nang đi qua đi lại bán vòng và trái bầu. Mildred và Fiona táo bạo xuất hiện trong những bộ đồ tắm in hoa, ống nhòm vẫn ở trên cổ họ. Hình xăm Medusa giận dữ trên ngực Chronos còn chưa gây sốc bằng cái bụng phệ nho nhỏ của anh ta, một đặc điểm gây vỡ mộng mà anh ta có chung với nhiều người đàn ông khác, nhất là các ông bố. Nhưng không phải Lou; anh săn chắc, hơi mình dây, rám nắng do thỉnh thoảng lướt sóng. Anh đi về phía bãi biển màu kem, một tay choàng qua người Mindy, trông cô còn tuyệt hơn mong đợi (dù những mong đợi vốn đã cao ngất) trong bộ bikini xanh dương lóng lánh.
Charlie và Rolph nằm cạnh nhau dưới một cây dừa. Charlie ghét bộ một mảnh màu đỏ của Danskin mà nó đã chọn cùng mẹ nó cho chuyến đi này nên quyết định mượn một cái kéo sắc ở quầy lễ tân để cắt nó ra thành bikini.
“Chị chẳng bao giờ muốn về nhà” - nó mơ màng nói.
“Em nhớ mẹ” - Rolph đáp. Bố nó và Mindy đang bơi. Nó có thể thấy bộ đồ bơi của cô lấp lánh qua làn nước xanh nhạt.
“Giá mẹ có thể đi cùng nhỉ.”
“Bố không yêu mẹ nữa” - Rolph nói. - “Mẹ không đủ điên rồ.”
“Nói thế nghĩa là sao?”
Rolph nhún vai. “Chị có nghĩ bố yêu Mindy không?”
“Không đời nào. Bố phát mệt với Mindy.”
“Nếu Mindy yêu bố thì sao?”
“Ai bận tâm?” - Charlie đáp. - “Ai mà chẳng yêu bố.”
Sau khi bơi, Lou đi tìm mấy cái xiên và thiết bị lặn, cố cưỡng lại ham muốn theo Mindy về phòng, dù rõ ràng cô muốn anh về cùng. Cô đã trở nên phát rồ từ khi họ rời lều (phụ nữ có thể rất nực cười với chuyện ở lều) - lúc nào cũng đói khát, lột đồ của Lou vào những lúc rất kỳ cục, sẵn sàng bắt đầu lại khi mà anh còn chưa kịp kết thúc. Cô đang học gì đó ở Berkeley, và trước đây Lou chưa từng đi du lịch với phụ nữ. Có lẽ rồi anh sẽ không còn ngó ngàng tới cô nữa.
Rolph đang đọc sách trên bãi cát thì Lou đi tới với thiết bị lặn trên tay, thằng bé bỏ cuốn The Hobbit qua bên mà không cự nự gì, rồi đứng lên. Charlie phớt lờ họ, và Lou thoáng nghĩ lẽ ra anh nên cho con bé đi cùng. Anh và Rolph đi xuống mép nước, đeo mặt nạ và chân vịt, treo cái xiên vào một bên thắt lưng. Rolph trông gầy guộc; thằng bé cần luyện tập thêm. Nó e dè với nước. Mẹ nó là người ham đọc sách và làm vườn, thế nên Lou phải không ngừng chống lại ảnh hưởng của mẹ nó. Anh ước rằng Rolph có thể sống cùng anh, nhưng luật sư chỉ lắc đầu mỗi lần anh nhắc tới chuyện đó.
Cá rất nhiều màu, những mục tiêu dễ dàng, đang rỉa san hô. Lou đã xiên được bảy con thì nhận ra Rolph chưa giết con nào.
“Có chuyện gì thế, con trai?” - Anh hỏi, khi họ ngoi lên mặt nước.
“Con chỉ thích ngắm chúng thôi” - Rolph nói.
Họ vừa dạt tới một bãi đá nhô ra biển. Họ thận trọng trèo lên. Thủy triều để lại trên bãi đá rất nhiều vũng nước với bao nhiêu sao biển, nhím biển và thờn bơn; Rolph cúi xuống mải mê ngắm chúng. Cá của Lou lủng lẳng trong một cái giỏ lưới đeo bên hông anh. Từ trên bãi biển, Mindy đang quan sát họ qua ống nhòm của Fiona. Cô vẫy tay, Lou và Rolph vẫy lại.
“Bố” - Rolph nói, lôi một con cua xanh bé tí lên khỏi một vũng nước - “bố nghĩ gì về chị Mindy?”
“Mindy rất tuyệt. Sao?”
Con cua khua khoắng mấy cái càng bé xíu; Lou hài lòng khi thấy con trai biết cách cầm nó sao cho an toàn.
Rolph nheo mắt nhìn bố. “À, chị ấy có đủ độ điên rồ không?”
Lou phì cười. Anh đã quên mất cuộc chuyện trò lúc trước, nhưng Rolph chẳng quên gì cả - một điều khiến cha nó rất hài lòng. “Cô ấy đủ điên rồ. Nhưng điên rồ không phải là tất cả.”
“Con nghĩ chị ấy thô lỗ” - Rolph nói.
“Thô lỗ với con à?”
“Không. Với Albert.”
Lou quay sang con, nghiêng đầu. “Albert?”
Rolph thả con cua ra rồi bắt đầu kể chuyện. Nó nhớ rành mạch từng thứ - sân hiên, cầu thang, “số ba” - khi kể nó nhận ra rằng nó đã muốn nói với bố nó chuyện này biết bao nhiêu, như một hình phạt với Mindy. Bố nó lắng nghe chăm chú, không ngắt lời. Nhưng càng nói, Rolph càng nhận thấy câu chuyện hiện ra một cách nặng nề, theo một cách mà nó không hiểu.
Khi nó ngừng lời, bố nó hít một hơi thật sâu rồi thở ra. Anh quay lại nhìn bãi biển. Lúc đó mặt trời sắp lặn, mọi người đang rũ lớp cát trắng mịn khỏi khăn tắm và thu dọn ra về. Khách sạn có phòng disco, cả nhóm đã định đi nhảy sau bữa tối.
“Chính xác thì chuyện đó đã xảy ra khi nào?” - Lou hỏi.
“Vào ngày gặp đàn sư tử - tối hôm đó.” - Rolph im lặng một lát rồi hỏi - “Bố nghĩ xem vì sao chị ấy lại thô lỗ như thế?”
“Đàn bà là lũ điếm” - bố nó đáp. - “Vậy đấy.”
Rolph há hốc miệng nhìn bố. Bố nó đang tức giận, cơ hàm rung bần bật, và đột nhiên Rolph cũng thấy tức giận: bị điều khiển bởi cơn giận sâu thẳm cồn cào thỉnh thoảng lại khuấy đảo bên trong nó, khi nó và Charlie trở về nhà sau một dịp cuối tuần náo nhiệt bên hồ bơi nhà bố, các ngôi sao nhạc rock chen chúc trên gác mái, bơ dầm và những bát sốt thịt bò trộn ớt và đậu to đùng, thì thấy mẹ nó đang ngồi cô đơn trong căn nhà nhỏ, uống trà bạc hà cay. Cơn giận với người đàn ông luôn gạt mọi người qua một bên này.
“Họ không phải...” - Nó không thể ép mình nhắc lại chữ đó.
“Phải đấy” - Lou đáp chắc nịch. - “Rồi con sẽ sớm nhận ra thôi.”
Rolph quay người. Vì chẳng có chỗ nào để đi, nó nhảy xuống biển và bắt đầu chầm chậm bơi trở vào bờ. Mặt trời xuống thấp, biển có sóng mạnh và nhiều bóng tối. Rolph tưởng tượng cá mập ở ngay dưới chân nó, nhưng nó không quay lại nhìn. Nó tiếp tục bơi về phía bãi cát trắng, bản năng mách bảo rằng nỗ lực trôi nổi trên mặt nước là đòn tra tấn mạnh mẽ nhất nó có thể đặt lên cha nó - nhược bằng, nếu nó mà chìm, Lou sẽ nhảy xuống ngay để cứu nó.
Đêm hôm đó, Rolph và Charlie được phép uống rượu trong bữa tối. Rolph không ưa vị chua, nhưng thích không gian lơ mơ mà rượu tạo ra quanh nó: những bông hoa thiên điểu to đùng ở khắp phòng ăn; chỗ cá mà bố nó xiên được đã được đầu bếp nấu với ô liu và cà chua; Mindy trong chiếc váy xanh lục lóng lánh. Bố nó vòng tay quanh cô. Bố nó không tức giận nữa; nó cũng không.
Một giờ qua Lou đã ở trên giường, làm tình với Mindy một cách vô cảm. Giờ anh đang đặt một tay lên cái đùi mảnh dẻ của cô, luồn dưới viền váy cô, chờ đợi vẻ mặt mơ màng thường trực của cô. Lou là người đàn ông không chấp nhận thất bại - không thể nhìn nhận nó là gì khác ngoài một cú huých tới chiến thắng hiển nhiên của chính anh. Anh phải thắng. Anh coi Albert chẳng ra gì - Albert vô hình, Albert là con số không (thật ra, Albert đã rời nhóm và trở về nhà anh ta ở Mombasa). Vấn đề lúc này là Mindy hiểu điều đó.
Anh liên tục rót rượu vào ly của Mildred và Fiona cho tới khi má họ đỏ hồng. “Hai bà vẫn chưa đưa tôi đi ngắm chim đâu nhé” - anh trách họ. - “Tôi đề nghị mãi mà vẫn chưa được đi.”
“Ngày mai chúng ta đi nhé” - Mildred nói. - “Có mấy loài chim biển chúng tôi đang muốn xem.”
“Có phải là lời hứa không đây?”
“Một lời hứa nghiêm túc.”
“Thôi nào” - Charlie thì thầm với Rolph. - “Chúng ta ra ngoài đi.”
Chúng lách ra khỏi phòng ăn đông đúc rồi lang thang trên bãi biển lấp lánh. Những hàng dừa vỗ rì rào như tiếng mưa, nhưng không khí khô ráo.
“Giống Hawaii nhỉ” - Rolph nói, ước gì đó là sự thật. Mọi thứ vẫn nguyên: bóng tối, bãi biển, chị gái. Nhưng cảm giác thì khác hẳn.
“Không có mưa” - Charlie nói.
“Không có mẹ” - Rolph nói.
“Chị nghĩ bố sẽ cưới Mindy” - Charlie nói.
“Không thể nào! Chị bảo bố không yêu Mindy cơ mà.”
“Thế thì sao? Bố vẫn có thể cưới chị ấy.”
Chúng ngồi phịch xuống bãi cát, vẫn còn hơi ấm, phản chiếu ánh trăng. Vùng biển ma mị vỗ rạt rào lên cát.
“Chị ấy cũng không quá tệ” - Charlie nói.
“Em không thích chị ấy. Mà sao chị cứ như chuyên gia về thế giới này vậy?”
Charlie nhún vai. “Chị hiểu bố.”
Charlie không hiểu bản thân nó. Bốn năm sau ngày hôm nay, ở tuổi mười tám, nó sẽ tham gia một giáo phái ở biên giới Mexico, tay lãnh tụ giỏi thuyết phục đã đề ra bữa ăn chỉ có trứng sống; nó suýt chết vì nhiễm độc khuẩn salmonella trước khi Lou tới cứu nó. Thói nghiện cocaine sẽ khiến nó phải phẫu thuật một bên mũi, làm thay đổi ngoại hình của nó, và một loạt gã đàn ông trịch thượng vô dụng sẽ bỏ mặc nó trong cô đơn lúc gần ba mươi tuổi, nó cố gắng hòa giải Rolph và Lou, người mà tới lúc ấy đã thôi không nói nữa.
Nhưng quả là Charlie hiểu bố nó. Bố nó sẽ kết hôn với Mindy vì điều đó mang lại ý nghĩ chiến thắng, và vì niềm hăng hái của Mindy khép lại chương đời lạ lùng này để trở về với công việc học hành sẽ kéo dài tới đúng khoảnh khắc cô mở cửa căn hộ của cô ở Berkeley và bước vào không gian sặc mùi đậu lăng luộc: một trong những món hầm rẻ tiền mà cô và đám bạn cùng phòng ăn qua ngày đoạn tháng. Cô sẽ sụp xuống cái ghế bập bênh mà họ đã tìm được trên vỉa hè và tháo đống sách ra khỏi túi rồi nhận ra rằng trong những tuần tha lôi chúng đi khắp châu Phi, cô đã chẳng đọc được chữ nào ra hồn. Và khi điện thoại reo, tim cô sẽ đập rộn lên.
Xu hướng Bất mãn: Trở lại với môi trường từng khiến ta hài lòng, vừa được trải nghiệm một cuộc đời hứng thú hoặc giàu sang hơn, và nhận ra rằng ta không chịu nổi nơi ấy nữa. Nhưng chúng ta sẽ kết thúc chủ đề này ở đây.
Rolph và Charlie chạy lon ton xuống bãi biển, cuốn theo ánh sáng và âm thanh bập bùng từ khu disco ngoài trời. Chúng chạy chân trần tới chỗ đám đông, rũ cát tơi xốp lên mặt sàn nhảy trong suốt trải trên những mảng đèn màu hình thoi lấp lóa. Tiếng nhạc bass line rung chuyển như đối chọi với nhịp tim của Rolph.
“Nào” - Charlie nói. - “Nhảy đi.”
Nó bắt đầu uốn éo phía trước thằng bé, cái cách mà con người Charlie mới dự định sẽ nhảy khi trở về nhà. Nhưng Rolph thấy ngượng; nó không thể nhảy theo cách đó được. Mọi người trong đoàn vây quanh chúng; Louise béo mập, lớn hơn Rolph một tuổi, đang nhảy với Dean, tay diễn viên. Ramsey vòng tay quanh một trong các bà mẹ của Phoenix Faction. Lou và Mindy nhảy cặp kè, thân thể quấn lấy nhau, nhưng Mindy đang nghĩ về Albert, như cô thỉnh thoảng sẽ nghĩ tới sau khi đã kết hôn với Lou và có hai cô con gái, đứa con thứ năm và thứ sáu của anh, trong thành công thoáng chốc, như thể đang nỗ lực chống lại sự xa lánh không thể tránh khỏi của anh. Trên giấy tờ, rồi anh sẽ không còn cắc bạc nào, và rốt cuộc Mindy sẽ phải làm trợ lý du lịch để nuôi hai đứa con gái nhỏ. Trong một khoảng thời gian, đời cô chẳng có gì vui; hai con bé sẽ khóc lóc quá nhiều, và cô sẽ nghĩ hoài nghĩ mãi về chuyến đi châu Phi này như khoảnh khắc hạnh phúc cuối cùng của cuộc đời cô, khi cô vẫn còn được lựa chọn, khi cô tự do và không vướng bận. Cô sẽ mơ mộng vẩn vơ phù phiếm về Albert, tự hỏi anh đang làm gì ngay lúc đó, đời cô đã ra sao nếu cô bỏ đi cùng anh như anh đề nghị, nửa đùa, khi cô tới với anh ở phòng số ba. Tất nhiên về sau, cô sẽ nhận ra rằng “Albert” chẳng là gì ngoài chuyện tập trung nỗi hối tiếc vào sự non nớt và những lựa chọn bất hạnh. Khi hai con đã vào trường trung học, cuối cùng cô cũng trở lại học hành, hoàn thành Ph.D. ở UCLA, và bắt đầu công việc học thuật ở tuổi bốn lăm, dành nhiều khoảng thời gian dài của ba mươi năm tiếp theo đi điền dã ở rừng mưa Brazil để nghiên cứu về các xu hướng xã hội. Cô con gái út của cô sẽ tới làm việc cho Lou, trở thành người thừa kế cơ nghiệp của anh.
“Nhìn kìa” - Charlie nói với Rolph, qua tiếng nhạc. - “Mấy bà ngắm chim đang ngắm chúng ta.”
Mildred và Fiona mặc váy in dài, đang ngồi trên ghế bên cạnh sàn nhảy, vẫy tay với Rolph và Charlie. Đây là lần đầu tiên hai đứa trẻ thấy họ không dùng ống nhòm.
“Em nghĩ là do họ quá già để nhảy” - Rolph nói.
“Cũng có thể chúng ta khiến họ nghĩ tới chim chóc” - Charlie nói.
“Cũng có thể khi không thấy chim chóc thì họ ngắm người” - Rolph nói.
“Lại đây nào, Rolphus” - Charlie nói. - “Nhảy với chị.”
Nó nắm bàn tay em trai. Khi chúng lắc lư bên nhau, Rolph cảm thấy sự e dè ngượng ngập của nó biến mất một cách lạ thường, như thể nó đang lớn lên ngay trên sàn nhảy, trở thành một chàng trai nhảy với những cô gái giống như chị nó. Charlie cũng cảm thấy thế. Thật tình, chính kỷ niệm đặc biệt này rồi đây sẽ lặp đi lặp lại trong nó, trong suốt phần đời còn lại, rất lâu sau khi Rolph tự bắn vào đầu mình trong nhà bố nó ở tuổi hai mươi tám: em trai nó như một cậu bé, mái tóc mượt mà, đôi mắt lấp lánh, bẽn lẽn học nhảy. Nhưng người phụ nữ nhớ kỷ niệm ấy sẽ không phải là Charlie; sau khi Rolph chết, cô sẽ trở lại với tên thật - Charlene - giải phóng mình vĩnh viễn khỏi cô bé đã nhảy cùng em trai ở châu Phi. Charlene sẽ cắt tóc ngắn rồi vào trường luật. Khi sinh con trai, cô muốn đặt tên con là Rolph, nhưng bố mẹ cô vẫn còn quá đau buồn. Thế nên cô sẽ gọi cái tên ấy lặng thầm, trong đầu cô, và nhiều năm sau đó, cô sẽ đứng cùng mẹ cô giữa đám đông phụ huynh đang cổ vũ bên sân, ngắm thằng bé chơi, có một vẻ mơ màng trên gương mặt nó khi nó liếc nhìn bầu trời.
“Charlie!” - Rolph nói. - “Đoán xem em vừa nghĩ ra điều gì.”
Charlie ngả về phía em trai, thằng bé đang cười khì khì với thông tin của mình. Nó khum tay lên tóc chị gái để con bé nghe được qua tiếng nhạc thùm thụp. Hơi thở ấm áp ngọt ngào của nó trong tai con bé.
“Em nghĩ mấy bà ấy chưa bao giờ ngắm chim” - Rolph nói.