← Quay lại trang sách

6: X’s và O’s

Chuyện bắt đầu thế này: Tôi đang ngồi trên ghế băng trong Tompkins Square Park, đọc cuốn tạp chí Spin mà tôi vừa nẫng ở cửa hàng Hudson News, quan sát những người phụ nữ khu East Village băng qua công viên trên đường đi làm về và tự hỏi (tôi vẫn thường thế) làm sao vợ cũ của tôi có thể xoay sở mà sống được ở New York giữa hàng nghìn phụ nữ dù chẳng có nét nào giống nàng nhưng lại vẫn gợi nghĩ về nàng, thì tôi khám phá ra điều này: cậu bạn cũ Bennie Salazar là một nhà sản xuất âm nhạc! Nó ở ngay trong cuốn Spin, cả một bài báo về Bennie và chuyện cậu đã làm nên tên tuổi cùng với một nhóm có tên là Conduits đã được đĩa bội bạch kim ba bốn năm về trước. Có một bức ảnh Bennie nhận giải thưởng gì đó, trông rất bảnh bao và hơi làm bộ mắt lác - một trong những khoảnh khắc sung sướng đê mê chỉ có được khi gắn với cả một cuộc đời hạnh phúc.

Tôi nhìn lướt bức ảnh, rồi gập cuốn tạp chí lại. Tôi quyết định không nghĩ về Bennie. Giữa nghĩ tới ai đó và nghĩ về việc không nghĩ tới ai đó chỉ là một ranh giới mong manh, nhưng tôi có sự kiên nhẫn và bình tĩnh để đi trên lằn ranh đó hàng giờ - hàng ngày, nếu buộc phải vậy.

Sau một tuần không nghĩ tới Bennie - nghĩ về không nghĩ tới Bennie nhiều tới nỗi gần như chẳng còn khoảng trống nào trong não bộ cho ý nghĩ nào khác nữa - tôi quyết định viết cho cậu một lá thư. Tôi gửi nó tới địa chỉ hãng băng của cậu, không ngờ hãng đó nằm trong tòa nhà kính xanh giữa Park Avenue và Fifty-second Street. Tôi đón tàu điện ngầm lên đó và đứng bên ngoài tòa nhà, ngửa đầu nhìn lên, lên mãi, tự hỏi văn phòng của Bennie có thể cao tới chừng nào. Tôi vẫn dán mắt vào tòa nhà khi tôi thả lá thư vào hộp thư ngay trước đó. Chào, Benjo, tôi viết (tôi từng gọi cậu ấy như vậy). Lâu quá không gặp. Tớ nghe nói giờ cậu thành đạt lắm. Chúc mừng. May mắn quá nhỉ. Chúc mọi điều tốt đẹp nhé, Scotty Hausmann.

Cậu ấy hồi đáp! Thư cậu ấy tới trong hòm thư ọp ẹp của tôi trên East Sixth Street khoảng năm ngày sau, đánh máy, tôi đoán thế có nghĩa là thư ký đã soạn nó, nhưng rồi tôi nhận ra ngay đó là Bennie:

Scotty baby - Ôi cảm ơn về lá thư. Cậu đã trốn ở đâu bấy nay vậy? Đôi khi tớ vẫn nghĩ về những ngày của Dildos. Mong là giờ cậu vẫn đang chơi chiếc slide guitar đó. Thân, Bennie, cùng với chữ ký nho nhỏ uốn lượn của cậu phía trên dòng tên đánh máy.

Lá thư của Bennie tác động mạnh mẽ tới tôi. Mọi thứ trở nên - biết nói thế nào nhỉ? Khô. Mọi thứ trở nên khô khan với tôi. Tôi đang làm lao công cho một trường tiểu học ở khu bên cạnh trong thành phố này, và vào mùa hè thì thu gom rác rưởi trong công viên dọc East River gần cầu Williamsburg. Không có điều gì trong những việc này khiến tôi mảy may xấu hổ, vì tôi hiểu điều mà hầu như chẳng ai khác nhận thức ra: chỉ có một chút khác biệt bé xíu xiu, một sự khác biệt nhỏ tới nỗi gần như chẳng là gì hơn một mẩu tưởng tượng của con người, giữa làm việc trong một tòa nhà kính xanh chọc trời trên Park Avenue và đi nhặt rác trong công viên. Thật ra thì nhiều khi chẳng hề có chút khác biệt nào cả.

Tình cờ tôi được nghỉ ngày hôm sau - sau ngày lá thư của Bennie tới - thế nên từ tinh mơ tôi đi ra East River để câu cá. Tôi đi câu suốt, cá câu được tôi cũng ăn. Bây giờ đã ô nhiễm rồi, phải, nhưng điều tốt đẹp ở đây là ta biết rõ về sự ô nhiễm ấy, chẳng như bao nhiêu chất độc ta ăn vào bụng hàng ngày mà chẳng hay biết gì. Tôi câu cá, và Thượng đế hẳn đã đứng về phía tôi, mà cũng có thể sự may mắn của Bennie đã truyền sang tôi, tôi kéo được lên từ sông chiến lợi phẩm tuyệt nhất từ trước tới nay: một con cá vược to đùng! Mấy người bạn đi câu của tôi, Sammy và Dave, kinh ngạc khi thấy tôi bắt được con cá to thế. Tôi đập đầu con cá, lấy báo bọc nó lại, cho vào túi, rồi cắp dưới tay đưa về nhà. Tôi mặc bộ đồ gần giống comple nhất mà tôi có: cái quần kaki và chiếc jacket mà tôi giặt suốt. Tuần trước, tôi đưa nó tới tiệm giặt hấp khi nó vẫn còn ở trong túi giặt, khiến cô gái sau quầy tức điên lên - “Sao anh phải giặt? Anh mới giặt, túi còn nguyên, anh đang phí tiền đấy.” Tôi biết tôi đang nói lan man rồi, nhưng cho tôi nói thêm một chút, tôi đã mở khóa cái túi nhựa thật mạnh khiến cô gái im bặt, rồi tôi cẩn thật đặt chiếc áo lên quầy của tiệm giặt hấp. “Merci por vous consideración, madame”[4] tôi nói, rồi cô nhận lấy món đồ mà không thêm lời nào nữa. Nói vậy để biết rằng chiếc jacket tôi mặc vào buổi sáng tới thăm Bennie Salazar là một chiếc jacket sạch.

Tòa nhà của Bennie trông như một nơi mà người ta có thể kiểm tra an ninh nghiêm ngặt nếu họ cần, nhưng ngày hôm đó tôi đoán là họ không cần. Thêm sự may mắn của Bennie rót xuống tôi như mật ong. Nói vậy không có nghĩa là cung may mắn của tôi về cơ bản quá tệ - tôi cho rằng nó ở tầm trung, đôi khi ngấp nghé tệ. Ví dụ, tôi bắt được ít cá hơn Sammy, nhưng tôi hay đi câu hơn và có cần câu tốt hơn. Nhưng nếu vì hôm đó tôi có được sự may mắn của Bennie, thì phải chăng may mắn của tôi cũng là may mắn của cậu ấy? Phải chăng việc tôi bất ngờ tới thăm cũng là may mắn cho cậu ấy? Hay bằng cách nào đó tôi sẽ làm trệch hướng sự may mắn của cậu ấy và xua nó đi chỗ khác một thời gian, bỏ lại cậu không còn chút may mắn nào vào ngày hôm đó? Và nếu thật tình tôi gây ra trường hợp sau, thì tôi đã làm điều đó như thế nào, và (quan trọng nhất) làm sao tôi có thể làm điều đó mãi mãi?

Tôi kiểm tra bảng hướng dẫn, thấy rằng Sow’s Ear Records nằm ở tầng bốn mươi lăm, rồi đi thang máy lên đó, lướt qua hai cánh cửa kính màu be vào phòng chờ, một căn phòng hết sức phô trương. Thiết kế gợi tôi nghĩ tới căn hộ đơn những năm bảy mươi: ghế da màu đen, thảm thô dày, bàn kính bằng crôm nặng trịch để la liệt đủ loại tạp chí như Vibe và Rolling Stone. Ánh sáng u trầm cẩn trọng. Điều sau cùng này là bắt buộc, tôi biết, để các nhạc sĩ có thể ngồi đợi ở đây mà không trưng ra đôi mắt đỏ lòm và những lỗ kim tiêm.

Tôi đặt bộp con cá lên mặt quầy tiếp tân bằng cẩm thạch. Nước ướt nhẹp bắn ra đánh soạt - tôi thề rằng nghe đúng là tiếng cá không lẫn vào đâu được. Cô tiếp tân (tóc đỏ, mắt xanh, miệng chúm chím như cánh hoa, kiểu con gái khiến ta muốn ghé sát vào mà nói với giọng ôi chao ngọt ngào âu yếm, Em chắc là rất thông minh; nếu không thì làm sao có được công việc này?) nhìn lên rồi nói: “Xin chào.”

“Tôi tới gặp Bennie” - tôi nói. - “Bennie Salazar.”

“Anh ấy có hẹn với anh không?”

“Ngay lúc này thì không.”

“Tên anh?”

“Scotty.”

Cô đeo bộ tai nghe mà khi cô nói vào một cái móc nối nhỏ xíu kéo ra trước miệng thì tôi nhận ra thật tình đó là một chiếc điện thoại. Sau khi cô nói tên tôi, tôi thấy môi cô thoáng cong lên, như đang giấu đi một nụ cười. “Anh ấy đang họp” - cô nói với tôi. - “Nhưng tôi có thể để lại lời nhắn...”

“Tôi sẽ đợi.”

Tôi đặt con cá lên chiếc bàn kính, bên cạnh đống tạp chí, rồi ngồi xuống chiếc ghế da đen. Lớp vải bọc tỏa ra mùi da hết sức ngọt ngào. Một cảm giác vô cùng thư giãn len qua tôi. Tôi bắt đầu cảm thấy buồn ngủ. Tôi muốn ở lại đó mãi mãi, rời bỏ căn hộ trên East Sixth Street và sống phần đời còn lại trong phòng chờ của Bennie.

Sự thật: đã lâu rồi tôi không giao tiếp xã hội. Nhưng phải chăng chuyện như thế cũng là bình thường trong “thời đại thông tin” này, khi ta có thể lượn lờ quanh hành tinh và vũ trụ mà chẳng phải nhích mông khỏi cái sofa nhung xanh lá mà ta đã moi được từ đống rác rồi biến nó thành điểm nhấn cho căn hộ trên East Sixth Street? Hàng đêm tôi bắt đầu bằng việc gọi đậu đũa Hồ Nam, rồi chiêu sạch món đó bằng rượu Jägermeister. Tôi có thể ăn được nhiều đậu đũa tới lạ lùng: bốn suất, năm suất, có khi hơn. Qua số gói sốt đậu nành và đôi đũa gửi kèm, tôi biết Fong Yu tin rằng tôi đang làm tiệc đậu đũa cho tám chín người ăn chay. Phải chăng thành phần hóa học của Jägermeister gây ra cơn thèm đậu đũa? Tôi cứ hỏi mình những câu này khi tôi vừa nhồi đậu đũa vào mồm, những cọng to tướng giòn rau ráu, vừa xem tivi - những show kỳ lạ, đa phần tôi chẳng phân biệt nổi mà cũng chỉ xem qua loa. Bạn có thể cho rằng tôi đã sáng tạo ra một show của riêng mình từ tất cả những show đó, một show mà tôi đồ là hay hơn các show kia bao nhiêu. Thật ra, tôi tin chắc như thế.

Đây là câu chốt: Nếu con người là những bộ máy xử lý thông tin, đọc các mã X’s và O’s rồi dịch thông tin đó thành thứ mà họ gọi với cảm giác ôi chao ngột thở là “trải nghiệm”, và nếu tôi nhập tất cả các thông tin tương tự như thế vào truyền hình cáp và hàng đống tạp chí tôi đọc trộm ở Hudson News trong chừng bốn năm tiếng liên tục trong những ngày nghỉ (kỷ lục của tôi là tám tiếng, trong đó có nửa tiếng tôi đứng thanh toán cho khách ở quầy thu ngân trong giờ nghỉ trưa của một nhân viên trẻ, vốn tưởng tôi làm việc ở đó) - nếu tôi không chỉ có thông tin đó mà còn có kỹ năng định dạng thông tin đó bằng cách sử dụng máy tính trong não bộ tôi (máy tính thật khiến tôi sợ chết khiếp; nếu ta có thể tìm ra Họ, rồi Họ có thể tìm ra ta, mà tôi thì chả muốn bị tìm ra), thì về mặt kỹ thuật mà nói, phải chăng tôi không có chung những trải nghiệm như những người khác?

Tôi kiểm tra giả thuyết của tôi bằng cách đứng bên ngoài một thư viện công cộng trên giao lộ Fifth Avenue và Forty-second Street suốt một gala quyên tiền cho quỹ bệnh tim. Tôi đưa ra lựa chọn này một cách ngẫu nhiên: Vào lúc cuối buổi, khi tôi đang ra khỏi Phòng Tạp chí, tôi để ý thấy những người ăn mặc rất chải chuốt đang phủ khăn trải trắng tinh lên các mặt bàn và mang những chùm hoa lan vào trong đại sảnh ngay cửa vào thư viện, và khi tôi hỏi một cô gái tóc vàng tay cầm sổ ghi chép xem có chuyện gì, thì cô nói với tôi về gala quyên tiền cho quỹ bệnh tim. Tôi đi về nhà ăn món đậu đũa, nhưng tối đó tôi không bật tivi mà đón tàu điện ngầm trở lại thư viện, ở đó lúc bấy giờ gala bệnh tim đang vào lúc cao trào. Tôi nghe thấy bản “Satin Doll” đang mở bên trong, tôi nghe thấy tiếng khúc khích rì rào và cả những tràng cười ầm ĩ, tôi thấy khoảng một trăm chiếc limousine dài đen bóng và những chiếc siêu xe ngắn hơn cũng màu đen đậu bên hè, và tôi nhận ra rằng chẳng có gì hơn một loạt nguyên tử và phân tử kết hợp theo cách riêng tạo nên một thứ được gọi là tường đá chặn giữa tôi và những con người bên trong thư viện công cộng kia, đang nhảy nhót theo dàn kèn mà trong đó nhóm tenor sax chơi yếu lạ lùng. Nhưng khi lắng nghe, một điều kỳ quặc xảy ra với tôi: tôi thấy đau. Không phải trong đầu, không phải trong tay, không phải trong chân; mà là mọi chỗ cùng một lúc. Tôi tự nhủ rằng không có gì khác biệt giữa ở “bên trong” và ở “bên ngoài”, rằng tất cả đều thu gọn lại thành X’s và O’s, những mã vốn có thể được tạo ra từ muôn ngàn cách khác nhau, nhưng cơn đau bùng lên tới độ tôi nghĩ mình sắp gục xuống, và tôi lết đi.

Như mọi thí nghiệm thất bại, thí nghiệm ấy dạy cho tôi một điều không mong đợi: nhân tố chủ chốt của trải nghiệm chính là niềm tin ảo giác rằng nó là duy nhất và đặc biệt, rằng tất cả những gì ở trong nó đều mang đặc ân và tất cả những gì ở ngoài nó đều thua thiệt. Và tôi, giống như một nhà khoa học miễn cưỡng hít vào khí độc từ chiếc ống nghiệm đang sôi lên trong lòng mình, qua sự gần kề đơn thuần về mặt thể xác, đã bị đầu độc bởi chính ảo giác kia, và trong trạng thái phê thuốc đờ đẫn, tôi đã trở nên tin rằng tôi Ở Ngoài: buộc phải đứng run lẩy bẩy bên ngoài thư viện công cộng ở giao lộ Fifth Avenue và Forty-second Street mãi mãi, tưởng tượng về những kẻ huy hoàng ở bên trong.

Tôi đi tới bên quầy của cô tiếp tân tóc đỏ hung, giữ chặt con cá trên hai bàn tay. Nước nhớt đã bắt đầu thấm qua giấy. “Đây là cá” - tôi bảo với cô.

Cô nghiêng đầu, có vẻ như bỗng nhiên nhận ra tôi là ai.

Cô nói: “A”.

“Báo với Bennie sớm là con cá sắp ươn.”

Tôi ngồi xuống. “Hàng xóm” của tôi trong phòng đợi là một người đàn ông và một phụ nữ, cả hai đều tới thương thảo làm ăn. Tôi cảm nhận thấy họ khinh khỉnh với tôi. “Tôi là nhạc công” - tôi nói, làm điệu bộ giới thiệu. - “Chơi slide guitar.”

Họ chẳng hé răng nửa lời.

Cuối cùng Bennie đi ra. Cậu ta trông chỉn chu. Cậu ta trông bảnh bao. Cậu ta mặc quần đen và áo sơ mi trắng cài khuy ở cổ nhưng không đeo nơ. Tôi hiểu ra một điều ngay khi tôi nhìn thấy chiếc áo ấy: tôi hiểu rằng áo sơ mi đắt tiền trông đẹp hơn áo sơ mi rẻ tiền. Vải không bóng, không đâu - bóng là rẻ tiền. Mà nó sáng bừng, giống như có ánh sáng tỏa ra từ bên trong. Điều tôi đang nói là: chiếc áo sơ mi đó đẹp khủng khiếp.

“Scotty, ôi trời, cậu thế nào?” - Bennie nói, nhiệt tình vỗ lưng tôi khi chúng tôi bắt tay. “Xin lỗi để cậu phải chờ. Hy vọng là Sasha đã chăm sóc cậu cẩn thận.” - Cậu ta chỉ về phía cô gái mà tôi vừa đối mặt, nụ cười phởn phơ trên môi cô có thể dịch trắng ra là: Anh ta chính thức chẳng còn là rắc rối của tôi nữa. Tôi gửi cho cô một cái nháy mắt ý là: Đừng chắc mẩm thế, cô em.

“Nào, quay lại phòng tớ đi” - Bennie nói. Cậu ta quàng tay qua vai tôi và đưa tôi về phía hành lang.

“Ê chờ chút, quên mất!” - Tôi kêu lên rồi chạy trở lại để lấy con cá. Khi tôi hất cái túi từ bàn nước lên tay mình, một chút nước nhớt của cá rỏ ra từ một góc túi, và cả hai thương nhân đều nhảy dựng lên như thể phóng xạ vừa chảy ra. Tôi nhìn về phía “Sasha”, nghĩ cô sẽ co rúm lại, nhưng cô đang quan sát với vẻ mặt có thể gọi là buồn cười.

Bennie chờ tôi bên sảnh. Tôi để ý thấy, với cảm giác đắc ý, rằng da cậu ta đã sạm đi so với thời trung học. Tôi đã đọc được điều này: làn da ta đen dần đi qua nhiều năm tiếp xúc với ánh nắng cộng dồn lại, và Bennie đã đen đi tới mức gọi cậu ta là người da trắng là mở rộng nghĩa của từ này.

“Đi chợ à?” - Cậu ta hỏi, nhìn cái bọc trên tay tôi.

“Đi câu” - tôi đáp.

Phòng làm việc của Bennie tuyệt vời, và tôi nói từ ấy không phải với cái nghĩa của một cậu bé tuổi teen chơi trượt ván, mà tôi đang nói với nghĩa đen xưa cũ. Chiếc bàn hình oval đen tuyền với bề mặt bóng loáng như những chiếc piano đắt nhất. Nó gợi tôi nghĩ tới những sân băng màu đen. Phía sau bàn chẳng có gì ngoài quang cảnh - cả thành phố đung đưa phía trước chúng tôi theo cái cách mà những người bán dạo đung đưa những dải khăn buộc hàng đống thắt lưng và đồng hồ rẻ tiền sáng chóe. New York trông như vậy đấy: giống như một thứ lộng lẫy dễ dàng có được, ngay cả với tôi. Tôi đứng ngay cạnh cửa chính, ôm khư khư con cá. Bennie đi vòng qua bên kia cái bàn làm việc hình oval đen láng. Trông nó trơn mướt, như thể nếu trượt một đồng xu trên bề mặt thì đồng xu sẽ trôi tới mép bàn và rơi xuống sàn. “Ngồi đi, Scotty” - cậu ta nói.

“Chờ chút” - tôi nói. - “Cái này cho cậu.” Tôi đi tới, nhẹ nhàng đặt con cá lên bàn làm việc của cậu ta. Tôi cảm thấy như mình đang đặt lễ vật lên một đền thờ Thần đạo trên đỉnh núi cao nhất Nhật Bản. Quang cảnh ấy khiến tôi đờ đẫn.

“Cậu cho tớ con cá ư?” - Bennie nói. - “Đó là cá hả?”

“Cá vược sọc. Tớ mới bắt ở East River sáng nay.”

Bennie nhìn tôi như thể cậu ta đang chờ có cớ để cười phá lên.

“Nó không ô nhiễm như người ta nghĩ đâu” - tôi nói, ngồi xuống chiếc ghế nhỏ màu đen, một trong hai chiếc đối diện bàn của Bennie.

Cậu ta đứng dậy, nhấc con cá lên, đi vòng qua bàn, rồi đưa nó cho tôi. “Cảm ơn, Scotty” - cậu ta nói. - “Tớ đánh giá cao suy nghĩ đó, thực lòng đấy. Nhưng một con cá chắc chắn sẽ phí phạm, ở trong văn phòng của tớ.” “Mang về nhà mà ăn!” - Tôi nói.

Bennie nở nụ cười bình thản, nhưng cậu ta chẳng nhúc nhích gì để nhận lại con cá. Được thôi, tôi nghĩ, tự tôi sẽ ăn nó vậy.

Cái ghế đen của tôi trông có vẻ không thoải mái - tôi đã nghĩ thế này khi hạ người ngồi lên nó, Đây sẽ là một trong những cái ghế kinh khủng khiến người ta đau mông rồi trở nên tê liệt. Nhưng không ngờ nó là chiếc ghế thoải mái nhất tôi từng ngồi, còn thoải mái hơn cả chiếc sofa da trong phòng chờ. Chiếc sofa kia khiến tôi buồn ngủ - còn chiếc ghế này đang khiến tôi lâng lâng.

“Nói tớ nghe nào, Scotty” - Bennie nói. - “Cậu có đĩa demo muốn tớ nghe à? Cậu mới có một album, một ban nhạc? Cậu có những bài hát đang muốn tìm người sản xuất? Ý tưởng của cậu là gì đây?”

Cậu ta đang dựa người vào phía trước chiếc bàn hình thoi đen bóng, hai chân vắt tréo ở mắt cá - một trong những tư thế tỏ ra hết sức thư thái nhưng thực tình đang rất căng thẳng. Khi tôi nhìn lên cậu, tôi nhận ra một số điều, tất cả ùa đến như thác lũ: (1) Bennie và tôi không phải là bạn nữa và sẽ không bao giờ còn là bạn. (2) Cậu ta đang muốn xua tôi đi càng nhanh càng tốt với ít rắc rối nhất. (3) Tôi đã biết chuyện sẽ thế này. Tôi đã biết từ trước khi tới đây. (4) Đó chính là lý do tôi tới để gặp cậu ta.

“Scotty? Cậu vẫn ở đấy chứ?”

“À” - tôi nói. - “Giờ cậu thành ông nọ bà kia rồi nên ai cũng muốn thứ gì đó từ cậu nhỉ.”

Bennie vòng trở lại chiếc ghế sau bàn làm việc và ngồi xuống đối diện tôi với hai tay khoanh ngực trong một tư thế trông có vẻ kém thư giãn hơn tư thế đầu, nhưng thực tình lại thoải mái hơn. “Thôi nào, Scotty” - cậu ta nói. - “Cậu đột ngột viết thư cho tớ, rồi giờ cậu xuất hiện ở văn phòng tớ - tớ đoán là cậu tới đây không chỉ để mang cho tớ một con cá.”

“Không, đó là một món quà” - tôi nói. - “Tớ tới vì lý do này: tớ muốn biết điều gì đã xảy ra giữa A và B.” Bennie chừng như chờ đợi tôi nói tiếp.

“A là khi hai chúng ta cùng một ban nhạc, cùng theo đuổi một cô gái. B là lúc này.”

Tôi biết ngay đó là một nước đi chính xác để gợi nhắc về Alice. Tôi nói điều này với nghĩa đen, phải, nhưng ẩn dưới đó tôi cũng nói một điều khác nữa: hai chúng ta từng là một cặp giẻ rách, sao giờ chỉ còn mình tớ là giẻ rách; tại sao? Và ẩn dưới điều đó lại có một điều nữa: đã từng là giẻ rách thì mãi mãi là giẻ rách. Và điều ẩn sâu nhất là: Cậu là kẻ theo đuổi. Nhưng tớ là người cô ấy chọn.

“Tớ làm việc như điên” - Bennie bật lại. - “Điều đã xảy ra là thế.”

“Vẫn thế nhỉ.”

Chúng tôi nhìn nhau qua chiếc bàn đen, chỗ ngồi quyền uy của Bennie. Một khoảng im lặng kéo dài, và trong khoảng im lặng ấy tôi thấy mình kéo Bennie - mà cũng có thể chính cậu kéo tôi - về San Francisco, nơi chúng tôi là hai trong bốn thành viên của Flaming Dildos, Bennie có lẽ là một trong những tay bass tệ hại nhất người ta từng nghe, một thằng bé có nước da nâu và hai cánh tay lông lá, người bạn thân nhất của tôi. Tôi cảm thấy một cơn giận trào sôi khiến tôi choáng váng. Tôi nhắm mắt lại, tưởng tượng mình vòng qua bàn tới chỗ Bennie và bẻ đầu cậu ta, gãy rụp ngay chỗ cổ áo trắng lộng lẫy kia, giống như một cây cỏ gà chỉ còn trơ lại phần thân mình dài ngoằng xơ xác. Tôi hình dung cảnh túm mớ tóc bù xù của cậu ta mà xách cái đầu đó ra căn phòng chờ phô trương và thả xuống quầy của Sasha.

Tôi đứng lên khỏi ghế, nhưng ngay lúc ấy Bennie cũng đứng lên - bật dậy, phải nói thế mới đúng, vì khi tôi nhìn cậu ta thì cậu ta đã đứng rồi.

“Tớ nhìn ra cửa sổ của cậu có phiền không?” - Tôi hỏi.

“Không sao.” Tôi nghe thấy giọng cậu không e sợ, nhưng tôi cảm thấy cậu ta có cảm giác đó. Nỗi sợ hãi có mùi như giấm.

Tôi đi tới bên cửa sổ, giả vờ nhìn ra quang cảnh, nhưng mắt tôi nhắm nghiền.

Một lát sau, tôi cảm thấy Bennie đã lại gần tôi. “Cậu vẫn làm nhạc đấy chứ Scotty?” - Cậu ta hỏi nhẹ nhàng.

“Tớ cũng cố” - tôi đáp. - “Chủ yếu tự mình thôi, chỉ để thư giãn.” Tôi đã có thể mở mắt, nhưng không phải để nhìn cậu ta.

“Cậu đã chơi cái guitar đó rất tuyệt” - cậu ta nói. Rồi hỏi - “Cậu kết hôn chưa?”

“Ly dị rồi. Với Alice.”

“Tớ biết” - cậu ta nói. - “Ý tớ là tái hôn cơ.”

“Nó kéo dài được bốn năm.”

“Tớ rất tiếc, chiến hữu.”

“Thế cũng tốt” - tôi đáp. Rồi tôi quay lại nhìn Bennie. Cậu ta đang đứng quay lưng lại cửa sổ, và tôi nghĩ không biết đã bao giờ cậu bận lòng nhìn ra đây chưa, nếu việc có bao nhiêu thứ đẹp đẽ ngay bên mình có nghĩa lý đối với cậu ta. “Cậu thì sao?” - Tôi hỏi.

“Lấy vợ rồi. Con trai ba tháng tuổi.” Cậu ta mỉm cười, rồi tới một nụ cười ngượng nghịu thoáng lướt qua trước ý nghĩ về đứa con trai, như thể cậu biết cậu không xứng đáng với nó cho lắm. Và sau nụ cười của Bennie, nỗi sợ vẫn nguyên đó; rằng tôi đã lần mò ra cậu để cuỗm sạch tất cả những ân huệ này mà cuộc đời ban cho cậu, cuốn chúng đi trong một khoảnh khắc ngắn ngủi dữ dội. Điều này khiến tôi phá lên cười và gào to: Này ‘chiến hữu’, cậu không hiểu à? Chả có cái gì cậu có mà tôi chả có sất! Tất cả chỉ là X’s và O’s thôi, và ta có thể có những mã đó bằng hàng triệu cách khác nhau. Nhưng hai ý nghĩ khiến tôi phân tâm khi tôi đứng đó, ngửi mùi sợ hãi của Bennie: (1) Tôi không có điều Bennie có. (2) Cậu ta đúng.

Vậy là tôi nghĩ tới Alice. Đây là một điều mà tôi hầu như không bao giờ cho phép mình làm - nghĩ về nàng, chứ không phải nghĩ về không nghĩ về nàng, điều mà tôi làm thường xuyên. Ý nghĩ về Alice bùng lên trong đầu tôi, rồi tôi để nó tỏa ra cho tới khi tôi thấy mái tóc nàng trong nắng - vàng óng, tóc nàng vàng óng - và ngửi thấy những loại tinh dầu mà nàng rỏ lên tay bằng cái ống nhỏ giọt. Hoắc hương? Xạ hương? Tôi chẳng nhớ nổi những tên ấy. Tôi thấy gương mặt nàng vẫn chan chứa yêu thương, không giận dữ, không sợ hãi - không một thứ tệ hại nào mà tôi đã khiến nàng phải cảm nhận. Vào bên trong đi, gương mặt nàng như nói, và tôi làm theo. Trong một thoáng, tôi vào bên trong.

Tôi nhìn xuống thành phố. Sự trang hoàng của nó thật hoang phí, giống như xức dầu thơm đầm đìa hay một thứ xa hoa nào khác mà Bennie đang tích trữ cho riêng mình, dùng tới cạn kiệt để chẳng ai có thể kiếm được chút nào nữa. Tôi nghĩ: Nếu có một góc như thế này hàng ngày nhìn xuống thì tôi sẽ có năng lượng và cảm hứng để chinh phục cả thế giới. Vấn đề là, khi ta cần một view như thế này nhất, chẳng ai tặng nó cho ta cả.

Tôi hít một hơi thật sâu rồi quay sang Bennie. “Chúc cậu mạnh khỏe và hạnh phúc, người anh em” - tôi nói, rồi nở với cậu nụ cười đầu tiên và duy nhất: Tôi hé mở đôi môi và kéo bạnh ra, một điều tôi hầu như chẳng bao giờ làm vì tôi đã mất gần hết cả hai hàm răng. Những chiếc răng còn lại to và trắng, thế nên những khoảng trống đen ngòm đó thật sự rất đáng kinh ngạc. Tôi thấy vẻ kinh ngạc trên mặt Bennie khi cậu ta nhìn thấy. Thế là ngay lập tức tôi cảm thấy mình mạnh, như thể một cán cân nào đó đã nghiêng trong căn phòng này và tất cả quyền lực của Bennie - chiếc bàn, view, chiếc ghế lâng lâng - bỗng nhiên đều thuộc về tôi. Bennie cũng cảm thấy thế. Quyền lực là vậy; mọi người cảm thấy nó ngay tức thì.

Tôi quay người bước về phía cửa, vẫn cười nhăn nhở. Tôi cảm thấy ánh sáng, như thể tôi đang mặc chiếc áo trắng của Bennie và ánh sáng đang rót ra từ bên trong nó.

“Này, Scotty, chờ chút” - Bennie nói, giọng nghe run run. Cậu ta quay lại bàn làm việc, nhưng tôi vẫn bước đi, nụ cười dẫn lối ra sảnh và trở lại khu tiếp tân, nơi Sasha ngồi, giày tôi khẽ lạo xạo trên tấm thảm với từng bước chân chậm rãi trang nghiêm. Bennie đuổi kịp tôi và đưa cho tôi một tấm card: giấy lộng lẫy với chữ in nổi. Cảm giác rất xa hoa. Tôi cầm nó thật cẩn thận. “Chủ tịch” - tôi đọc.

“Đừng làm ra người xa lạ thế, Scotty” - Bennie nói. Cậu ta có vẻ rất bối rối, như thể cậu quên mất tôi đã tới đây ra sao; như thể chính cậu ta đã mời tôi tới và tôi đang bỏ về sớm. - “Bao giờ cậu có nhạc muốn tớ nghe, cứ gửi tới nhé.”

Tôi không thể cưỡng được nhìn Sasha một lần cuối. Đôi mắt cô nghiêm trang, như buồn bã, nhưng vẫn có nét tươi tắn trong nụ cười xinh đẹp đó. “Bảo trọng, Scotty” - cô nói.

Ra bên ngoài tòa nhà, tôi đi thẳng tới hòm thư mà tôi đã thả lá thư gửi cho Bennie mấy ngày trước. Tôi ngửa cổ ra và nheo mắt nhìn lên tòa tháp kính xanh đó, cố đếm tầng bốn lăm. Điều duy nhất tôi nhận ra lúc đó là hai bàn tay tôi trống không - tôi đã bỏ con cá lại văn phòng của Bennie! Điều này khiến tôi vui rộn rã, và tôi cười phá lên, tưởng tượng cảnh các thương gia nọ ngồi xuống những chiếc ghế lâng lâng trước bàn làm việc của Bennie, một người nhấc cái bịch nặng trịch ướt nhẹp đó lên khỏi sàn rồi nhận ra nó là gì - Ôi, Chúa ơi, có phải là con cá của gã ấy đây không - rồi thả rơi đánh bịch, kinh hãi. Và Bennie sẽ làm gì nhỉ? Tôi tự hỏi, khi tôi khoan thai đi tới ga tàu điện ngầm. Cậu ta sẽ quẳng béng con cá ngay lúc ấy và ở đó, hay cậu ta sẽ cho nó vào tủ lạnh trong văn phòng rồi tối ấy đưa nó về nhà cho vợ và đứa con trai bé bỏng, và kể cho họ nghe về chuyến thăm của tôi? Và nếu cậu ta làm thế thật, có khả năng nào cậu ta sẽ mở cái bịch và nhìn một lần gọi là cho có?

Tôi hy vọng là vậy. Tôi biết cậu ta sẽ rất ngạc nhiên. Đó là một con cá lấp lánh tuyệt mỹ.

Vì lên giường từ lúc chập chiều, tôi thức dậy và ra khỏi nhà, tới đứng dưới cầu Williamsburg với cây cần câu thòng xuống East River từ khi trời còn chưa tỏ. Chẳng bao lâu sau Sammy và Dave cũng tới. Dave không quan tâm lắm tới câu cá - cậu ta tới đây để ngắm phụ nữ ở East Village chạy bộ sáng sớm, trước khi họ tới trường NYU hoặc tới làm việc ở một cửa hàng quần áo hay bất cứ chỗ nào khác mà các cô gái East Village thường làm hàng ngày. Dave phàn nàn về áo nịt chạy bộ của họ, thứ áo không cho phép độ nảy đủ để khiến cậu thỏa lòng. Sammy và tôi chỉ im lặng lắng nghe.

Sáng đó khi Dave bắt đầu bình luận, tôi bỗng muốn nói.

“Cậu biết không, Dave” - tôi nói - “Tôi nghĩ đó là mấu chốt.”

“Mấu chốt là gì?”

“Là ngực họ không nảy” - tôi nói. - “Nảy thì họ đau. Từ đầu chính vì thế mà họ mặc áo nịt chạy bộ.”

Cậu ta nhìn tôi e dè. “Anh thành chuyên gia hồi nào vậy?”

“Vợ tôi từng hay chạy bộ?” - Tôi đáp.

“Từng hay? Ý anh là giờ cô ấy đã thôi chạy?”

“Cô ấy đã thôi là vợ tôi. Có thể cô ấy vẫn chạy.”

Đó là một sáng tĩnh mịch. Tôi nghe thấy tiếng bộp chầm chậm, tiếng bộp của bóng trên những sân tennis phía sau cầu Williamsburg. Ngoài những người chạy bộ và chơi tennis, còn có một số dân nghiện bên bờ sông vào sáng sớm. Tôi luôn tìm kiếm một cặp đôi nọ, một thanh niên và một cô gái đều mặc áo da dài tới đùi, đều có đôi chân gầy gò và khuôn mặt nhàu nhĩ. Họ hẳn là nhạc sĩ. Tôi đã thôi cái nghề đó từ lâu, nhưng tôi có thể điểm ra mặt nhạc sĩ ở bất cứ chỗ nào.

Mặt trời lên, to tròn và sáng trưng, giống như một thiên thần đang nhô mái đầu của nàng lên. Tôi chưa bao giờ thấy mặt trời ở đây rực rỡ tới vậy. Ánh sáng bạc rót xuống khắp mặt sông. Tôi muốn nhảy vào bơi. Ô nhiễm thì sao? Tôi nghĩ. Cho tôi thêm nữa đi. Rồi tôi nhìn thấy cô gái nọ. Tôi luôn phát hiện ra cô từ xa vì cô nhỏ bé và chạy với dáng bật cao, nhấp nhô, khác hẳn mọi người. Cô có mái tóc nâu nhạt, và khi ánh nắng tỏa lên mái tóc ấy, có điều gì đó xảy ra mà ta không thể bỏ qua. Rumpelstiltskin[5], tôi nghĩ. Dave đang há hốc mồm nhìn cô, ngay cả Sammy cũng quay lại nhìn, nhưng tôi vẫn dán mắt vào dòng sông, quan sát chờ đợi cái cần câu giật. Tôi thấy cô gái đó mà không cần nhìn.

“Này Scotty” - Dave nói - “tôi nghĩ vợ anh vừa chạy qua đấy.”

“Tôi ly dị rồi” - tôi đáp.

“À thì đã từng là vợ anh.”

“Không” - tôi nói. - “Cô ấy sống ở San Francisco.”

“Có thể cô ấy là vợ tiếp theo của anh” - Sammy gợi ý.

“Cô ấy là vợ tiếp theo của tôi” - Dave đáp. - “Và các anh biết điều đầu tiên tôi dạy cô ta là gì không? Đừng có ép chúng xuống. Hãy để chúng nảy.”

Tôi nhìn cái cần câu phản chiếu ánh nắng. May mắn rời bỏ tôi rồi; tôi biết mình sẽ chẳng bắt được gì. Mà tôi cũng sắp tới giờ làm. Tôi thu cần câu lại rồi bắt đầu đi ngược bờ sông. Cô gái đó đã ở rất xa phía trước, tóc cô tung lên theo từng bước chạy. Tôi đi theo cô, nhưng ở một khoảng cách mà tôi không đi theo cô, theo nghĩa đen. Chỉ là tôi đang đi cùng hướng. Mắt tôi mải dõi nhìn cô tới nỗi tôi không để ý thấy cặp đôi nghiện ngập trên con đường tôi đang đi, cho tới tận khi họ sắp lướt qua. Họ đang rúc vào nhau, trông tiêu điều và sexy theo cách mà những người trẻ chỉ có được trong một khoảng thời gian, trước khi họ chỉ còn trông tiêu điều. “Chào” - tôi nói, bước tới trước mặt họ.

Chúng tôi hẳn phải gặp nhau hai mươi lần bên dòng sông này rồi, nhưng hắn giương cặp kính râm lên nhìn tôi như thể hắn chưa từng trông thấy tôi, còn cô gái thì chẳng nhìn tôi luôn. “Các bạn là nhạc sĩ phải không?” - Tôi hỏi.

Gã thanh niên quay mặt đi, phớt lờ tôi. Nhưng cô gái ngước nhìn. Đôi mắt cô đỏ quạch, mạch máu ở mắt nổi chằng chịt, và tôi tự hỏi phải chăng mặt trời làm nó đau, và tại sao gã bạn trai hoặc chồng hay gì gì đó kia không đưa cặp kính của hắn cho cô. “Anh ấy tuyệt lắm đấy” - cô nói, sử dụng từ ấy với nghĩa một cậu bé tuổi teen chơi trượt ván. Mà cũng có thể không phải thế, tôi nghĩ. Biết đâu cô dùng nghĩa đen.

“Tôi tin cô” - tôi nói. - “Tôi tin cậu ấy là một nhạc sĩ tuyệt vời.”

Tôi thò tay vào túi áo sơ mi rút ra chiếc card của Bennie. Tôi đã dùng một mảnh khăn giấy Kleenex để lấy nó ra khỏi chiếc jacket hôm qua và đặt nó vào trong chiếc sơ mi hôm nay, nhằm đảm bảo nó không bị cong gập hay nhem bẩn. Những con chữ rập nổi của nó gợi tôi nghĩ tới một đồng xu La Mã. “Gọi cho người này” - tôi nói. - “Anh ấy là chủ một hãng đĩa. Nói với anh ấy Scotty giới thiệu các bạn.”

Cả hai người bọn họ cùng nhìn tấm card, nheo mắt lại trước ánh nắng chói chang.

“Gọi cho anh ấy” - tôi nói. - “Anh ấy là chiến hữu của tôi.”

“Được thôi” - gã thanh niên nói, chẳng hề tin.

“Tôi rất mong các bạn sẽ gọi” - tôi nói, nhưng tôi cảm thấy vô vọng. Tôi chỉ có thể làm việc này một lần; tôi sẽ không bao giờ có lại chiếc card đó nữa.

Trong khi gã kia săm soi tấm card, cô gái nhìn tôi. “Anh ấy sẽ gọi” - cô nói, rồi cô mỉm cười: những chiếc răng nhỏ nhắn ngay ngắn mà người ta chỉ có được sau khi niềng răng. “Tôi sẽ bảo anh ấy gọi.”

Tôi gật đầu rồi quay đi, bỏ lại cặp nghiện phía sau. Tôi tiếp tục đi ngược bờ sông, dõi mắt ra xa hết mức. Nhưng cô gái chạy bộ đã mất hút trong khi tôi quay đi.

“Này” - tôi nghe sau lưng mình hai giọng lào khào. Khi tôi quay lại, họ gọi với, cả hai đồng thanh: “Cảm ơn”.

Đã lâu lắm rồi mới có người cảm ơn tôi vì điều gì đó. “Cảm ơn” - tôi nói, với chính mình. Tôi nói đi nói lại từ đấy, muốn lưu giữ mãi trong tâm trí mình chính giọng họ, để cảm nhận lại cảm giác ngạc nhiên dội lên trong lồng ngực khi ấy.

Có phải vì chút gió xuân ấm áp mà chim chóc hót vang lừng hơn? Tôi tự hỏi mình điều ấy khi tôi lên cầu vượt băng qua đường FDR vào East Sixth Street. Hoa vừa mới nở trên những cành cây. Tôi rảo bước dưới hoa, ngửi thấy mùi phấn hoa khi tôi vội vã trở về căn hộ của tôi. Trên đường đi làm tôi muốn tạt qua tiệm giặt hấp gửi cái jacket - tôi đã muốn làm việc này từ hôm qua. Tôi đã vứt chiếc jacket một đống trên sàn nhà bên cạnh chân giường, và tôi sẽ mang nó đi như thế, đã dùng đến kiệt quệ. Tôi sẽ thả nó xuống quầy một cách ôi chao vô cùng cẩn thận, thách cô gái đó dám vặn vẹo tôi. Mà cô ấy lấy đâu ra cớ?

Tôi đã ra ngoài, và tôi cần giặt sạch chiếc áo, tôi sẽ nói, giống bao người khác. Và cô ấy sẽ làm nó mới lại cho tôi.