← Quay lại trang sách

B 7: A tới B I

Sống ở Crandale một năm thì Stephanie và Bennie được mời tới một bữa tiệc. Đó không phải là một nơi dễ dàng nồng ấm với người lạ. Họ đã biết trước chuyện đó sẽ xảy ra và chẳng bận tâm - họ có bạn bè của mình. Nhưng điều đó tác động tới Stephanie nhiều hơn cô nghĩ, đưa Chris tới nhà trẻ, vẫy tay mỉm cười với một bà mẹ tóc vàng nào đó đang bế đứa con tóc vàng ra khỏi chiếc SUV hay Hummer của cô ta, nhưng đáp lại là nụ cười cau có mỉa mai với hàm ý: Lại nữa, cô là ai vậy? Sao họ có thể không biết được nhỉ, sau bao nhiêu tháng trời ngày nào cũng trông thấy nhau? Họ là kẻ hợm hĩnh hay trì độn hay cả hai, Stephanie thầm nghĩ, nhưng chẳng hiểu sao cô thấy buồn vì sự lạnh lùng của họ.

Suốt mùa đông đầu tiên trong thành phố, chị của một trong các nghệ sĩ của Bennie bảo trợ cho họ làm hội viên của Crandale Country Club. Sau một quá trình chật vật hơn xin thẻ xanh một chút, họ được chấp nhận vào cuối tháng sáu. Ngày đầu tiên tới club này họ mang theo đồ bơi và khăn tắm, không biết rằng CCC (tên thường gọi của nó) cung cấp khăn tắm đơn sắc riêng để làm giảm tình trạng lộn xộn màu sắc bên hồ bơi. Trong phòng tắm có tủ khóa, Stephanie đi qua một trong những phụ nữ tóc vàng có con học cùng trường với Chris, và lần đầu tiên cô nhận được một câu “Xin chào” đúng nghĩa, sự xuất hiện của chính Stephanie ở hai địa điểm khác nhau rõ ràng đã thỏa mãn những đòi hỏi của Kathy nhằm chứng nhận tư cách con người. Đó chính là tên của người phụ nữ ấy: Kathy. Stephanie vốn đã biết điều đó ngay từ đầu.

Kathy đang cầm một cây vợt tennis. Cô mặc một chiếc váy trắng ngắn cũn, bên dưới là quần soóc tennis màu trắng, chỉ dài hơn tí xíu so với chiếc quần lót vừa đủ ẩn khuất. Sự sinh nở diệu kỳ chẳng để lại vết tích nào trên vòng eo bé xíu và trên bắp tay rám nắng của cô. Mái tóc sáng bóng của cô được buộc cao gọn ghẽ, những sợi không vào nếp được ghim gọn bằng kẹp tăm màu vàng.

Stephanie mặc đồ bơi vào rồi ra gặp Bennie và Chris ở gần hiệu đồ ăn nhanh. Khi họ đứng ngập ngừng ở đó, cầm trên tay những chiếc khăn tắm sặc sỡ, Stephanie nghe thấy tiếng bóng tennis bộp, bộp xa xa. Âm thanh ấy bất chợt gợi lên nỗi nhớ thương da diết. Cô cũng tới từ ngoại tỉnh giống như Bennie, nhưng là một kiểu ngoại tỉnh khác - kiểu của anh là ngoại tỉnh thị thành, từ thành phố Daly, California, nơi bố mẹ anh đã làm việc nhiều tới nỗi chẳng bao giờ ở nhà, trong khi người bà già yếu nuôi dưỡng Bennie và bốn chị em gái. Nhưng Stephanie tới từ ngoại ô, kiểu ngoại tỉnh miền trung tây, nơi có một club có tiệm thức ăn nhanh bán những chiếc burger mỏng dính ngầu mỡ chứ không phải salade niçoise với cá ngừ nướng tươi roi rói, như tiệm này, nhưng ở đấy người ta chơi tennis trên những cái sân nứt nẻ vì nắng, và Stephanie đã giành được một danh hiệu lớn vào khoảng năm mười ba tuổi. Từ bấy tới nay cô không chơi nữa.

Cuối ngày đầu tiên đó, mệt nhoài vì nắng, họ đi tắm, mặc lại quần áo, rồi ngồi trên một sân hiên lát đá, nơi một nghệ sĩ piano đang dạo lên tiếng nhạc vô ưu trên cây đàn piano đứng. Mặt trời bắt đầu lặn. Chris nhào lộn trên bãi cỏ gần đó với hai cô bé cùng lớp mẫu giáo. Bennie và Stephanie nhấm nháp gin, tonic và ngắm lũ đom đóm.

“Vậy ra nó là như thế này đây” - Bennie nói.

Một loạt câu trả lời diễn ra trong đầu Stephanie: ám chỉ thực tế là họ vẫn chưa quen biết ai; sự nghi ngờ rằng chẳng có ai đáng để quen. Nhưng cô để chúng trôi qua. Bennie là người chọn Crandale, và sâu xa trong thâm tâm Stephanie hiểu tại sao: họ đã từng ngồi trên những chiếc máy bay tư tới những hòn đảo thuộc về các rock star, nhưng club thượng lưu này là nơi xa nhất Bennie từng tới từ chỗ người bà mắt mờ chân chậm ở thành phố Daly. Anh đã bán hãng đĩa của mình năm ngoái; còn cách nào tốt hơn là đánh dấu thành công của ta bằng cách đi tới một nơi không thuộc về ta?

Stephanie nắm bàn tay Bennie rồi hôn lên một khớp tay.

“Có thể em sẽ mua cái vợt tennis” - cô nói.

Lời mời dự tiệc tới ba tuần sau đó. Gia chủ, người quản lý một quỹ phòng hộ được gọi là Duck, đã mời họ sau khi biết rằng Bennie đã phát hiện ra ban Conduits - nhóm rock ưa thích của Duck - và đã phát hành các album của ban nhạc đó. Khi trở lại từ buổi tập tennis đầu tiên, Stephanie đã thấy họ đang say sưa nói chuyện bên hồ bơi. “Tôi ước gì họ sẽ tái hợp” - Duck trầm ngâm. - “Tay guitar bị chứng co cứng đó rồi sau thế nào?”

“Bosco à? Cậu ấy vẫn thu đĩa” - Bennie lịch thiệp đáp. - “Vài tháng nữa album mới của cậu ấy sẽ ra: A tới B. Sản phẩm solo của cậu ấy sâu lắng nội tâm hơn.” Anh bỏ qua chi tiết Bosco giờ béo phì, nghiện rượu và đang điều trị ung thư. Anh ta là người bạn lâu năm nhất của vợ chồng họ.

Stephanie ngồi lên thành ghế của Bennie, mặt ửng hồng vì cô đã chơi tốt quá, ngón đánh bóng xoáy của cô không hề mai một, cú giao bóng vẫn sắc lẹm. Cô để ý thấy một hai mái đầu vàng óng ngừng lại bên sân để quan sát và cô cảm thấy tự hào vì trông mình rất khác những phụ nữ ấy: mái tóc tém màu đen và hình xăm bạch tuộc thời Minoan quấn quanh một bắp chân, những chiếc nhẫn to bản. Dù sự thật là cô đã mua một bộ váy tennis cho dịp này, mảnh mai trắng tinh, phía dưới là chiếc quần soóc trắng nhỏ xíu: món đồ màu trắng đầu tiên mà Stephanie sở hữu từ khi trưởng thành.

Trong bữa tiệc cocktail đó, cô nhận ra Kathy - còn ai khác được nữa? - qua một sân hiên rộng bát ngát đông đúc. Khi Stephanie đang băn khoăn liệu cô ta sẽ chào một câu xin chào thật sự nữa hay hạ bậc xuống thành một nụ cười khó chịu Cô là ai?, thì Kathy gặp ánh mắt cô và bắt đầu đi về phía cô. Màn giới thiệu đã xong. Chồng của Kathy, Clay, mặc quần soóc sọc tăm và áo sơ mi hồng, một bộ đồ hẳn sẽ trông rất nực cười nếu khoác lên mình một kiểu người khác. Kathy mặc váy màu navy cổ điển, tương phản với màu mắt xanh sáng của cô. Stephanie cảm thấy ánh mắt Bennie lưu lại ở Kathy và cảm thấy mình trở nên căng thẳng - một cơn co thắt lo âu qua đi nhanh ngang bằng với sự chú ý của Bennie (lúc này anh đang nói chuyện với Clay). Mái tóc vàng óng của Kathy buông hờ, hai bên mái vẫn dùng kẹp tăm bằng vàng. Stephanie vẩn vơ nghĩ không biết cô ta dùng bao nhiêu chiếc kẹp tăm mỗi tuần.

“Tôi đã trông thấy cô trên sân” - Kathy nói.

“Lâu lắm rồi không chơi” - Stephanie đáp. - “Tôi đang cố bắt đầu lại thôi.”

“Hôm nào chúng ta đấu nhé.”

“Được chứ” - Stephanie nhẹ nhàng đáp, nhưng cô cảm thấy tim đập thùm thụp trong mang tai, và khi Clay và Kathy rời đi, cô đờ đẫn vì một cảm giác choáng váng khiến cô phải xấu hổ. Đó là chiến thắng đê mê nhất đời cô.

II

Trong vòng mấy tháng, ai cũng phải nói rằng Stephanie và Kathy là bạn. Họ có hẹn đánh tennis cố định hai buổi sáng mỗi tuần, và họ đã thành một cặp đánh đôi thành công trong một liên hiệp câu lạc bộ thành viên, đánh với những phụ nữ tóc vàng khác mặc những chiếc váy tennis bé xíu, tới từ những phố lân cận. Có một thế đối xứng trong cuộc sống của họ ngay từ cái tên - Kath và Steph, Steph và Kath - và con trai họ, cả hai đều ở lớp mầm. Chris và Colin, Colin và Chris; làm sao mà giữa bao nhiêu cái tên mà Stephanie và Bennie đã cân nhắc khi cô mang thai - Xanadou, Peek-a-boo, Renaldo, Cricket - cuối cùng họ lại chọn một cái tên đơn âm mà kết hợp hoàn hảo với phong cách đặt tên tẻ nhạt ở Crandale thế nhỉ?

Địa vị cao của Kathy trong thứ bậc địa vị của những phụ nữ tóc vàng địa phương mang lại cho Stephanie một lối vào dễ dàng và bằng phẳng, một địa vị an toàn tới mức dung hòa được cả mái tóc đen ngắn và những hình xăm của cô; cô khác biệt nhưng ổn thỏa, tránh được sự soi mói gay gắt diễn ra với một số người khác. Stephanie hẳn sẽ không bao giờ nói rằng cô thích Kathy; Kathy là người Cộng hòa, một trong những người ưa dùng cụm từ không thể chấp nhận nổi là “được định sẵn” - thường vào lúc mô tả vận may của chính mình hoặc những tai họa rơi xuống đầu người khác. Cô ta biết rất ít về cuộc đời của Stephanie - một cuộc đời mà nếu biết rõ thì chắc chắn sẽ phải tái mặt, ví dụ như, tay phóng viên mà mấy năm trước gây chấn động trên khắp các trang nhất do cưỡng hiếp Kitty Jackson, ngôi sao điện ảnh trẻ, trong khi phỏng vấn cô gái cho tờ Details, chính là anh trai của Stephanie, Jules. Đôi khi Stephanie băn khoăn liệu cô bạn của cô có biết nhiều hơn những gì cô tiết lộ cho cô ta hay không; Tôi thừa biết cô ghét chúng tôi, cô tưởng tượng Kathy nghĩ, mà chúng tôi cũng có ưa gì cô, và giờ đây khi đã biết chuyện đó rồi, chúng tôi quyết định xua hết những kẻ cặn bã đó ra khỏi Scarsdale. Stephanie yêu thích trò tennis ở đây với một cảm giác hung hăng hiếu chiến khiến cô cũng phần nào thấy ngượng; cô mơ về những cú đánh bóng sát vạch và những cú đánh bóng trái tay. Kathy vẫn chơi tốt hơn, nhưng khoảng cách đang hẹp dần, một thực tế dường như khiến họ tức tối và thích thú ngang nhau. Là đối tác hay đối thủ, bà mẹ hay hàng xóm, Steph và Kath đều hợp cạ không tì vết. Vấn đề duy nhất là Bennie.

Thoạt đầu Stephanie không tin khi anh nói với cô vào mùa hè thứ hai của họ sau khi hòa nhập được ở Crandale, rằng anh cảm thấy mọi người ở bể bơi nhìn anh rất kỳ cục. Lúc đó cô đã nghĩ anh ám chỉ đám phụ nữ đang ngưỡng mộ những múi cơ màu nâu phía trên chiếc quần bơi, và đôi mắt to đen sẫm của anh, thế nên cô cáu: “Anh dị ứng với chuyện bị nhìn từ bao giờ thế?”

Nhưng Bennie không có ý đó, và Stephanie cũng sớm cảm nhận như vậy: một số người ngập ngừng hoặc hỏi vòng vo về chồng cô. Điều này dường như không khiến Bennie khó chịu nhiều; anh đã bị hỏi: “Salazar là cái họ kiểu gì vậy?” vô số lần trong đời để miễn dịch với sự hoài nghi về xuất thân và dòng máu của anh, và anh đã hoàn thành một kho vũ khí quyến rũ để xóa tan mối hoài nghi kia, đặc biệt là với phụ nữ.

Khoảng giữa mùa hè năm đó, vào một bữa tiệc cocktail của quỹ phòng hộ khác tổ chức, Bennie và Stephanie cùng Kathy và Clay (hay Các-tông, như vợ chồng họ thường bí mật gọi) và mấy người khác đang nói chuyện với Bill Duff, một nghị sĩ của bang vừa trở về từ cuộc họp với Hội đồng Đối ngoại. Chủ đề là sự tồn tại của Al Qaeda ở khu vực New York. Bill hé lộ rằng gián điệp đã có mặt, nhất là ở những khu ngoại ô, có lẽ là để liên lạc với nhau (Stephanie để ý thấy cặp mày xám của Clay nhướng lên, và anh ta giật một cái rất kỳ cục, như thể có nước trong tai), nhưng vấn đề là: mối liên hệ của chúng với băng đảng chính - nói tới đây Bill phì cười - vì bất cứ kẻ gàn dở nào có lòng hằn học đều có thể tự gọi mình là Al Qaeda, nhưng nếu hắn chẳng có tiền, không được huấn luyện, chống lưng (Clay lại lắc đầu nhanh một cái, rồi chớp mắt với Bennie, phía bên phải), chẳng ích gì khi định vị các nguồn lực...

Bill bỏ dở câu, bối rối ra mặt. Một cặp đôi khác chen lời, và Bennie nắm cánh tay Stephanie kéo đi. Mắt anh có vẻ điềm tĩnh, gần như ngái ngủ, nhưng cái siết của anh làm cổ tay cô đau.

Sau đó không lâu, họ rời khỏi bữa tiệc. Bennie trả tiền cho cô trông trẻ, một cô bé mười sáu tuổi có biệt danh là Scooter, rồi chở cô bé về nhà. Anh quay về khi Stephanie còn chưa liếc đồng hồ và nghĩ tới nét xinh tươi của Scooter. Cô nghe thấy anh cài đặt hệ thống báo trộm, rồi lao sầm sầm lên cầu thang khiến Sylph, con mèo của họ, sợ hãi chui tọt vào dưới gầm giường. Stephanie chạy ra khỏi phòng ngủ thì gặp anh ở đầu cầu thang. “Em đang làm cái chết tiệt gì ở đây vậy?” - Anh kêu lên.

“Suỵt. Anh sẽ đánh thức Chris đấy.”

“Thật là một màn diễn kinh hoàng!”

“Thật xấu xa” - cô nói - “dù Clay là một kẻ rất...”

“Em bênh họ đấy à?”

“Tất nhiên là không. Nhưng Clay chỉ là một người.”

“Em nghĩ mọi người trong nhóm đó không biết chuyện gì đang diễn ra à?”

Stephanie cho rằng có thể đúng là như thế - có phải tất cả bọn họ đều biết không nhỉ? Cô muốn Bennie không nghĩ như thế. “Tất cả chỉ là hoang tưởng thôi. Cả Kathy cũng thường nói...”

“Lại nữa! Thôi đi!”

Anh đứng ở đầu cầu thang với hai nắm tay siết chặt. Stephanie bước tới bên cạnh ôm anh trong vòng tay, và Bennie thả lỏng người dựa vào cô, suýt chút làm cô ngã. Họ ôm nhau cho tới khi anh thở chậm lại. Stephanie nói:

“Mình chuyển đi.”

Bennie giật mình lùi lại.

“Em nói thật đấy” - cô nói. - “Em chẳng bận tâm chút nào tới những con người này đâu. Đó là một kinh nghiệm, phải không? Chuyển tới một nơi như thế này.”

Bennie không đáp. Anh nhìn quanh khắp các sàn nhà mà anh đã lọ mọ bò toài tự mình lát những tấm gỗ hoa hồng, không tin tưởng bất cứ ai được thuê để làm một công việc phức tạp như thế; anh đã dành nhiều tuần dùng dao lam tỉa tót phía dưới các lớp sơn ở những ô vuông trên cửa chính trong phòng ngủ của họ; ở các hốc cầu thang, anh trăn trở suy nghĩ, đặt thứ này rồi thứ kia vào trong đó và điều chỉnh ánh sáng. Bố anh vốn là thợ điện; Bennie có thể thắp sáng bất cứ thứ gì.

“Họ phải chuyển đi” - anh đáp. - “Đây là nhà anh.”

“Được thôi. Nhưng nếu tình hình tới vậy, thì em nghĩ chúng ta có thể đi. Ngày mai. Trong một tháng. Trong một năm.”

“Anh muốn chết ở đây” - Ben nói.

“Chúa ơi” - Stephanie nói, tới đó thì hai người bỗng bật ra điệu cười gượng gạo mà chẳng mấy chốc trở nên quá khích, khiến hai người gập cả xuống sàn nhà, phải suỵt nhau im lặng.

Thế là họ ở lại. Sáng hôm sau, khi Bennie để ý thấy Stephanie mặc bộ đồ tennis màu trắng, anh nói: “Đi chơi với bọn phát xít đấy à?” Stephanie biết anh muốn cô thôi chơi, từ bỏ mối quan hệ bạn bè với Kathy để phản đối sự thủ cựu và ngu ngốc của Các-tông. Nhưng Stephanie không có ý định từ bỏ. Nếu họ định tiếp tục sống ở một nơi mà đời sống xã hội của nó xoay vòng quanh một club thượng hạng, thì cô hiển nhiên sẽ duy trì quan hệ bạn bè với người phụ nữ có thể sẽ đảm bảo cho cô thâm nhập dễ dàng. Cô không muốn là một người ngoài lề xã hội như Noreen ở nhà hàng xóm họ, luôn chói lọi những kiểu cách riêng và luôn đeo kính râm to bản, đôi tay run lẩy bẩy - do dùng thuốc chữa bệnh, Stephanie đoán thế. Noreen có ba đứa con xinh đẹp mà cau có, chẳng phụ nữ nào nói chuyện với cô ấy. Cô ấy như một bóng ma. Không đời nào, Stephanie nghĩ.

Sang thu, trời trở lạnh, cô bắt đầu sắp xếp các buổi tập tennis vào thời gian muộn hơn trong ngày, khi đó Bennie không ở nhà để thấy cô thay quần áo. Giờ cô đang làm việc tự do cho hãng PR La Doll, có thể sắp xếp bao nhiêu cuộc gặp ở Manhattan tùy ý, nên việc này dễ dàng. Có một chút lừa dối ở đây, tất nhiên, nhưng chỉ là sự đánh lạc hướng - để tránh cho Bennie biết được một điều khiến anh buồn. Nếu anh hỏi thì Stephanie không bao giờ chối rằng cô không đi chơi. Vả lại, chẳng lẽ anh không có những chuyện nói dối của riêng mình trong những năm qua sao? Chẳng lẽ anh không nợ cô một số điều anh nói dối?

III

Mùa xuân tiếp theo, Jules, anh trai của Stephanie được bảo lãnh ra khỏi nhà tù Attica Correctional Facility và tới sống với vợ chồng cô. Anh đã bị giam năm năm, năm đầu tiên giam ở nhà tù Rikers Island chờ phiên tòa xét xử tội cố gắng cưỡng hiếp Kitty Jackson, bốn năm sau thì án cưỡng hiếp được hủy (theo yêu cầu của Kitty Jackson) nhưng anh bị kết tội bắt cóc và tấn công - hết sức phi lý, vì ngôi sao trẻ ấy đã tự nguyện đi cùng Jules vào Central Park và chẳng hề bị thương. Thực tế, cuối cùng cô gái đã chứng nhận cho lời bào chữa. Nhưng viên công tố quận đã thuyết phục bồi thẩm đoàn rằng việc Kitty nói đỡ cho Jules chính là hội chứng Stockholm. “Việc cô ấy cứ khăng khăng bảo vệ người đàn ông này càng cho thấy hắn đã làm tổn thương cô ấy sâu sắc cỡ nào...” Lúc này Stephanie nghĩ lại ngữ điệu cử chỉ của cô gái trong phiên tòa của anh trai cô, điều mà cô đã quan sát suốt mười ngày đau đớn nhưng vẫn cố tỏ ra lạc quan.

Thời gian ở tù, Jules dường như đã lấy lại được sự bình tĩnh mà anh đã đánh mất một cách lạ thường trong những tháng trước khi xảy ra vụ tấn công. Anh tiếp tục uống thuốc điều trị rối loạn lưỡng cực và bình tâm trước sự từ hôn. Anh biên tập một tờ tuần san trong tù, và bài viết của anh về ảnh hưởng của vụ 11/9 đối với cuộc sống của các bạn tù đã giúp anh giành một giải đặc biệt từ PEN Prison Writing Program. Jules đã được phép tới New York để nhận giải, và Bennie, Stephanie, cùng bố mẹ cô đều rơi nước mắt suốt bài diễn văn nhận giải nhiều khoảng ngừng của anh. Anh chơi bóng rổ lại, khép cửa lòng, và khỏi bệnh chàm bội nhiễm một cách thần kỳ. Cuối cùng, anh dường như đã sẵn sàng để trở lại với sự nghiệp làm báo nghiêm túc mà anh đã tới New York hơn hai mươi năm trước để theo đuổi. Khi hội đồng ân xá đồng ý thả anh trước thời hạn, Stephanie và Bennie đã vui sướng mời anh tới nhà ở cho đến khi anh ổn định trở lại.

Nhưng giờ đây, hai tháng sau khi Jules tới, xuất hiện một tình trạng trì trệ đáng ngại. Trước đó đã có mấy cuộc phỏng vấn mà anh thực hiện trong trạng thái lo sợ toát mồ hôi, nhưng chúng chẳng thu lại kết quả gì. Jules vô cùng yêu quý Chris, anh dành hàng giờ trong khi thằng bé ở trường để lắp ráp những thành phố khổng lồ từ những miếng ghép Lego nhỏ xíu những mong làm thằng bé ngạc nhiên khi về nhà. Nhưng với Stephanie, anh trai cô vẫn giữ một khoảng cách mỉa mai, dường như nhìn sự vội vàng vô nghĩa của cô (ví như sáng nay, khi ba người họ tất bật tới trường và đi làm) với sự ngạc nhiên khôi hài. Tóc anh rối bù còn mặt mũi thì u ám, một vẻ bạc nhược khiến lòng Stephanie đau nhói.

“Em lái xe vào thành phố à?” - Bennie hỏi, khi cô lật đật bỏ những đĩa ăn sáng vào chậu rửa.

Cô không lái xe vào thành phố. Khi thời tiết ấm lên, cô đã trở lại đánh tennis với Kathy vào buổi sáng. Nhưng cô đã nghĩ ra một cách mới khôn ngoan để sắp xếp những trận đánh này khuất mắt Bennie; cô để bộ đồ tennis trắng ở club, mặc quần áo đi làm vào buổi sáng, hôn tạm biệt anh, rồi tới club thay đồ và chơi. Stephanie giảm thiểu sự dối gạt bằng cách chỉ nói dối về mặt thời gian; nếu Bennie hỏi cô đang đi đâu, cô luôn kể về một cuộc gặp có thật sẽ diễn ra vào cuối ngày hôm đó, thế nên nếu buổi chiều anh có hỏi cuộc gặp thế nào, thì cô có thể trả lời thực.

“Em gặp Bosco lúc mười giờ” - cô nói. Bosco là rocker duy nhất mà cô còn lo mảng PR. Thực sự thì cuộc gặp đó vào lúc ba giờ.

“Bosco, trước buổi trưa?” - Bennie hỏi. - “Đó là ý của anh ấy à?”

Stephanie lập tức nhận ra sai lầm của mình; Bosco đêm nào cũng say khướt; khả năng anh ấy tỉnh táo lúc mười giờ sáng là bằng không. “Vâng” - cô đáp, việc nói dối vào mặt chồng khiến cô choáng váng nôn nao. - “Nhưng anh đúng đấy. Kể cũng lạ thật.”

“Đáng sợ ấy chứ” - Bennie đáp. Anh hôn tạm biệt Stephanie rồi cùng Chris đi tới cửa.

“Em sẽ gọi cho anh sau khi gặp anh ấy chứ?”

Vào lúc ấy, Stephanie biết cô sẽ hoãn trận đánh với Kathy - đúng hơn là thất hẹn với Kathy - và lái xe tới Manhattan để gặp Bosco vào lúc mười giờ. Chẳng còn cách nào khác.

Khi chồng con đi rồi, Stephane lại cảm thấy nỗi căng thẳng dường như luôn trào lên mỗi khi cô ở một mình với Jules, những câu hỏi âm thầm của chính cô về các kế hoạch và thời gian biểu của anh khẽ loảng xoảng va chạm với bộ giáp mà anh dùng để xa cách họ. Ngoài trò xếp Lego, thật chẳng thể nào biết được Jules làm gì cho hết ngày. Hai lần, Stephanie về nhà thì thấy tivi trong phòng ngủ của cô đang bật một kênh khiêu dâm, và chuyện này khiến cô bực mình tới nỗi cô đã bảo Bennie mang cả hệ thống cồng kềnh đó sang phòng ngủ của khách, nơi Jules đang ở.

Cô đi lên cầu thang và gửi một tin nhắn thoại vào máy di động của Kathy để hoãn trận đánh của họ. Khi cô trở lại bếp, Jules đang nhìn chăm chú ra ngoài cửa sổ của góc ăn sáng. “Hàng xóm của em đang làm trò gì thế?” - Anh hỏi.

“Noreen à?” - Stephanie đáp. - “Bọn em nghĩ cô ấy lẩn thẩn.”

“Cô ấy đang làm gì đó gần hàng rào nhà em.”

Stephanie đi tới bên cửa sổ. Quả là thế; cô thoáng thấy mái tóc đuôi ngựa tẩy bạc phếch của Noreen - giống như hình biếm họa của những mái tóc highlight tự nhiên tinh tế của những người khác - đang nhấp nhô bên hàng rào. Cặp kính râm màu đen to đùng khiến cô trông như một con bọ trong phim hoạt hình, hoặc là một người ngoài hành tinh. Stephanie nhún vai, bực bội vì Jules còn có thời gian để ý tới Noreen. “Em phải đi đây” - cô nói.

“Anh đi nhờ vào thành phố được không?”

Stephanie cảm thấy ngực hơi thắt lại. “Tất nhiên” - cô nói. - “Anh có hẹn à?”

“Không hẳn. Anh chỉ muốn ra ngoài thôi.”

Khi họ đi bộ ra xe, Jules liếc ra sau và nói: “Anh nghĩ cô ta đang quan sát chúng ta qua hàng rào. Noreen ấy mà.” “Không có gì lạ.”

“Em cứ để mặc chuyện đó diễn ra à?”

“Bọn em làm gì được? Cô ấy không gây hại gì cho bọn em. Cô ấy thậm chí còn chẳng ở trên đất nhà bọn em.”

“Nhỡ đâu cô ta nguy hiểm.”

“Đến đâu hay đó thôi nhỉ?”

“Chẳng tốt đâu” - Jules đáp.

Khi vào trong chiếc Volvo, Stephanie vô thức nhét A tới B, album mới của Bosco, vào đầu đĩa, không biết rằng cô làm vậy để gia cố cho chứng cớ ngoại phạm của mình. Các album gần đây của Bosco gồm những bài hát ngắn gào thét trên nền nhạc ukulele. Bosco ra những album này chỉ vì là chỗ bạn bè.

“Anh tắt nó đi được không?” - Jules hỏi sau khi nghe hai bài, rồi tắt luôn mà chẳng đợi Stephanie trả lời. - “Đây là gã chúng ta sắp tới gặp à?”

“Chúng ta? Em tưởng anh đi nhờ xe thôi.”

“Anh đi với em được không?” - Jules hỏi. - “Làm ơn nhé?”

Giọng anh khúm núm và thiểu não: một người đàn ông chẳng có nơi nào để đi và chẳng có việc gì để làm. Stephanie muốn gào lên; đây có phải là một hình phạt vì đã nói dối Bennie? Trong ba mươi phút qua cô đã miễn cưỡng hoãn trận tennis mà cô vô cùng muốn chơi, khiến Kathy bực mình, đâm đầu vào công việc bịa đặt là tới thăm một người mà chắc chắn hãy còn đang xỉn, và giờ phải đưa ông anh trai vô dụng, khó tính đi cùng để chứng kiến sự kết thúc chứng cớ ngoại phạm của cô. “Em không chắc nó sẽ vui tới đâu” - cô nói.

“Ổn thôi” - Jules nói. - “Anh quen không vui rồi.”

Anh căng thẳng quan sát khi Stephanie cẩn thận rẽ từ đường Hutch lên đường cao tốc Cross Bronx, dường như việc ở trong chiếc xe này khiến anh lo lắng. Khi họ đã hòa hẳn vào dòng xe cộ, anh hỏi: “Em đang ngoại tình đấy à?”

Stephanie nhìn anh chằm chằm. “Anh điên rồi.”

“Nhìn đường kìa!”

“Sao anh lại hỏi em như thế?”

“Em có vẻ bồn chồn. Cả em và Bennie đều thế. Không giống như anh đã nhớ về bọn em.”

Stephanie thấy nghẹn thở. “Bennie có vẻ bồn chồn à?” Nỗi lo sợ cũ ùa lên trong cô rất nhanh, giống như một bàn tay siết lấy cổ họng cô, dù Bennie đã hứa hai năm trước, khi anh bước sang tuổi bốn mươi, và thực tế cô không có lý do gì để nghi ngờ anh.

“Em có vẻ, anh không biết nữa. Lịch sự.”

“So với người trong tù à?”

Jules mỉm cười, nói: “Okay. Có lẽ chỉ là do nơi ấy thôi. Crandale, New York” - anh ngân dài từng chữ. - “Anh cá là ở đó lúc nhúc toàn người Cộng hòa.”

“Năm mươi năm mươi.”

Jules quay sang cô với vẻ hoài nghi. “Em giao du với người Cộng hòa đấy à?”

“Phải thế thôi, Jules.”

“Em và Bennie? Qua lại với người Cộng hòa sao?”

“Anh có nhận ra anh đang hét không đấy?”

“Nhìn đường kìa!” - Jules kêu lên.

Stephanie nhìn đường, hai tay cô run bần bật trên vô lăng. Cô chỉ muốn quay xe đưa anh trai về nhà, nhưng như thế lại làm lỡ cuộc hẹn không tồn tại của cô.

“Anh đi khỏi mấy năm mà cái thế giới chết tiệt này đã đảo lộn tùng phèo rồi” - Jules giận dữ nói. - “Các tòa nhà ấy biến mất. Lần nào tới văn phòng của ai cũng đều phải chịu đựng máy dò quét. Mọi người giọng lạnh như băng, vì họ còn mải email cho người khác trong khi nói chuyện. Tom và Nicole sống với người khác... Giờ thì cô em gái và cậu em rể rock and roll giao du với đám người Cộng hòa. Ôi trời ơi!”

Stephanie hít một hơi thở sâu để trấn tĩnh. “Kế hoạch của anh là gì, Jules?”

“Anh bảo rồi đấy. Anh muốn đi cùng em tới gặp gã...”

“Ý em là sắp tới anh sẽ làm gì.”

Họ im lặng hồi lâu. Cuối cùng Jules nói: “Anh không biết nữa.”

Stephanie liếc nhìn anh. Họ rẽ sang đại lộ Henry Hudson, Jules đang nhìn ra sông, trên gương mặt anh chẳng hề có năng lượng hay hy vọng. Cô cảm thấy một cơn hoảng sợ thắt lại quanh trái tim. “Khi anh tới New York lần đầu” - cô nói - “bao nhiêu năm về trước, anh đã có đầy ý tưởng.”

Jules khịt mũi. “Ai mà chẳng thế, vào tuổi hai tư?”

“Ý em là anh có một phương hướng.”

Anh đã tốt nghiệp Trường Đại học Michigan vài năm trước đó. Một trong những người bạn cùng phòng năm nhất của Stephanie ở NYU đã tạm nghỉ học để đi điều trị chứng chán ăn, thế là Jules chiếm phòng của cô gái đó trong ba tháng, lang thang khắp thành phố với một quyển sổ trên tay, lén vào dự các bữa tiệc ở trụ sở tạp chí Paris Review. Khi cô gái biếng ăn trở về, anh đã tìm được cho mình một công việc ở Harper’s, một căn hộ ở đường York giao với đường Eighty-first, và ba người bạn cùng phòng - hai trong số đó giờ biên tập tạp chí. Người thứ ba thắng một giải Pulitzer.

“Em không hiểu nổi, Jules” - Stephanie nói. - “Em không hiểu chuyện gì đã xảy ra với anh.”

Jules nhìn vô định vào đường viền của nhà cửa lấp loáng in trên nền trời của khu Lower Manhattan. “Anh giống như nước Mỹ” - anh nói.

Stephanie quay mặt sang nhìn anh, kiệt sức, nói: “Anh đang nói gì thế? Anh thôi uống thuốc rồi đấy à?”

“Hai tay chúng ta đều vấy bẩn” - Jules nói.

IV

Stephanie đỗ xe trong một bãi đỗ trên Đại lộ Sixth, rồi cô và Jules len lỏi tới khu Soho qua những đám đông người mua sắm xách những cái túi khổng lồ từ Crate và Barrel.

“Này. Gã Bosco này là ai vậy?” - Jules hỏi.

“Nhớ ban Conduits không? Anh ấy là tay guitar.”

Jules dừng khựng lại. “Đó là người chúng ta đang tới gặp à? Bosco của Conduits? Gã tóc đỏ ốm nhom đó?”

“Ừm, phải. Anh ấy đã thay đổi đôi chút.”

Họ rẽ sang Wooster, đi tới Canal. Ánh nắng loang loáng trên mặt đường lát đá, gợi lên trong tâm trí Stephanie vùng ký ức lơ lửng nhạt nhòa: chụp ảnh bìa cho album đầu tiên của Conduits trên chính con đường này, cười rộn rã, lo âu hồi hộp, Bosco dặm phấn lên đám tàn nhang, trong khi tay nhiếp ảnh chụp ảnh tự nhiên. Ký ức ấy vẩn vơ trong cô khi cô bấm chuông nhà Bosco và chờ đợi, thầm cầu xin: Làm ơn đừng ở nhà làm ơn đừng mở cửa làm ơn. Chừng đó ít nhất khiến phần vờ vịt này của ngày hôm ấy sẽ qua đi.

Điện thoại ở cửa không có tiếng trả lời, chỉ có tiếng rè rè. Stephanie mở cửa với một cảm giác lẫn lộn, phải chăng cô đã sắp xếp cuộc hẹn với Bosco vào lúc mười giờ thật. Hay là cô đã nhấn lầm chuông?

Họ đi vào trong và bấm gọi thang máy. Mất một lúc lâu thang mới xuống, bên trong thang kêu ken két.

“Thứ đó có tốt không vậy?” - Jules hỏi.

“Anh muốn chờ ở đây cũng được.”

“Đừng cố gắng xua anh đi nữa.”

Bosco không còn là một anh chàng gầy nhẳng, mặc quần bó tuýt, chơi thể loại nhạc cuối thập niên tám mươi nghe như pha trộn giữa punk và ska, một kẻ si cuồng có mái tóc bù xù đỏ rực, từng biến Iggy Pop trở thành một người nhạt nhòa trên sân khấu. Hơn một lần, chủ nhân các câu lạc bộ đã phải gọi 911 giữa show của Conduits vì tin rằng Bosco bị co giật.

Hiện nay anh béo phục phịch - vì thuốc, anh khẳng định thế, cả thuốc điều trị ung thư giai đoạn cuối lẫn thuốc chống trầm cảm - nhưng liếc qua thùng rác nhà anh thì hầu như lúc nào cũng thấy một hộp kem chocolate Dreyer’s rỗng. Mái tóc đỏ của anh chuyển thành tóc đuôi ngựa màu xám xơ xác. Cuộc phẫu thuật thay thế xương hông không thành công khiến anh phải bế bụng đi loạng choạng như một cái tủ lạnh trên giá đẩy. Tuy nhiên, anh đã dậy, đã mặc quần áo - thậm chí còn cạo râu. Mành cửa sổ của căn hộ bé xíu đã được nâng lên và thoảng hơi ẩm của nước vòi sen lơ lửng trong không gian, xen lẫn mùi cà phê phin dễ chịu.

“Tôi tưởng sẽ gặp cô lúc ba giờ” - Bosco nói.

“Tôi tưởng chúng ta hẹn mười giờ” - Stephanie nói, nhìn vào trong ví để tránh ánh mắt chằm chằm của anh. - “Tôi nhớ sai thời gian sao?”

Bosco không ngốc; anh biết cô đang nói dối. Nhưng anh lấy làm tò mò, và sự tò mò ấy tự nhiên đặt lên Jules. Cô giới thiệu họ với nhau.

“Rất hân hạnh” - Jules nghiêm trang nói.

Bosco nhìn Jules chăm chú để tìm những dấu hiệu của sự mỉa mai trước khi bắt tay anh.

Stephanie ngồi xuống một chiếc ghế gấp gần chiếc ghế da màu đen nơi Bosco thường ngồi. Nó đối diện với một ô cửa sổ bụi bặm mà qua đó thấy được sông Hudson và thậm chí cả một phần thành phố Hoboken. Bosco mang cho Stephanie cà phê rồi lẩy bẩy hạ thân mình xuống cái ghế da, và nó ốp lấy quanh anh bằng một vòng ôm dẻo quánh. Họ gặp để thảo luận về việc PR cho A tới B. Giờ đây khi Bennie có bao nhiêu ông chủ doanh nghiệp cần nói chuyện, Bennie không thể dành cho Bosco một cắc một hào nào ngoài chi phí sản xuất và vận chuyển CD cho anh. Thế nên Bosco trả công cho Stephanie thời gian cô làm truyền thông và đại diện cho anh. Đó hầu như chỉ là những chức danh mang tính biểu tượng; hai album gần đây anh đau ốm quá nên hầu như chẳng làm được gì, và sự mệt mỏi của anh đã vô cùng hòa hợp với sự thờ ơ của thế giới đối với anh.

“Lần này mọi chuyện sẽ khác hoàn toàn” - Bosco lên tiếng. - “Tôi sẽ khiến cô phải làm việc đấy, Stephi-babe. Album này sẽ đánh dấu sự trở lại của tôi.”

Stephanie nghĩ anh đang đùa. Nhưng từ trong vòng ôm của cái ghế da, anh bình thản nhìn ánh mắt chăm chú của cô.

“Trở lại?” - Cô hỏi.

Nãy giờ Jules đi vẩn vơ trong căn hộ, nhìn những album của ban Conduits bọc vàng và bạch kim treo đầy trên tường, mấy cây guitar còn lại mà Bosco chưa bán, và bộ sưu tập đồ khảo cổ thời tiền Columbia, thứ mà anh giữ gìn cẩn thận trong các hộp kính trong suốt và không chịu bán. Khi nghe từ “trở lại”, Stephanie cảm thấy anh trai cô bỗng nhiên chú ý tới câu chuyện.

“Album tên là A tới B, đúng không?” - Bosco nói. - “Và đó là câu hỏi tôi muốn đặt thẳng: từ một rock star tôi đã biến thành một gã phì nộn chẳng ai bận tâm như thế nào? Chúng ta đừng giả vờ như chuyện đó chẳng xảy ra.”

Stephanie ngạc nhiên quá không biết nói gì.

“Tôi muốn các cuộc phỏng vấn, bài đặc biệt, như người ta vẫn gọi” - Bosco nói tiếp. - “Trải hết đời tôi ra thứ khốn nạn đó. Chúng ta hãy ghi lại từng nỗi sỉ nhục bẽ bàng. Đây là thực tế, phải không? Người ta chẳng thể trông ưa nhìn được nữa vào hai mươi năm sau, nhất là khi đã cắt bỏ một nửa ngũ tạng. Thời gian là một kẻ khủng bố, phải không? Chẳng phải thành ngữ ấy là như thế sao?”

Jules lướt tới từ cuối gian phòng. Anh nói: “Tôi chưa bao giờ nghe thế đấy. ‘Thời gian là một kẻ khủng bố’ ấy à?”

“Anh không đồng tình sao?” - Bosco hỏi với giọng hơi thách thức.

Tất cả im lặng một hồi. Cuối cùng Jules nói: “Có.”

“Nghe này” - Stephanie nói - “Tôi thích sự trung thực của anh, Bosco...”

“Đừng có nói với tôi câu ‘Tôi thích sự trung thực của anh, Bosco’” - anh ngắt lời. - “Đừng áp mọi lối PR đó lên tôi.”

“Tôi là đại diện truyền thông của anh” - Stephanie nhắc nhở anh.

“Phải, nhưng đừng có bắt đầu tin vào điều vớ vẩn đó” - Bosco nói. - “Cô quá già rồi.”

“Tôi đã cố gắng để lịch sự đấy” - Stephanie đáp. - “Tóm lại là, chẳng ai quan tâm rằng đời anh đã trở nên thảm bại, Bosco. Thật nực cười khi anh nghĩ chuyện đó thú vị. Nếu anh vẫn là một rock star thì có thể thế, nhưng anh đâu phải là rock star nữa - giờ đây anh chỉ còn là một hoài niệm.”

“Cay nghiệt thế” - Jules nói.

Bosco cười to. “Cô ấy bực vì tôi bảo cô ấy già.”

“Ừ” - Stephanie thừa nhận.

Jules nhìn hết người này sang người kia, bồn chồn bứt rứt. Dường như bất kỳ kiểu xung đột nào cũng khiến anh lo sợ.

“Nghe này” - Stephanie nói. - “Tôi có thể nói với anh đây là một ý tưởng mới mẻ vĩ đại và hãy để nó tự chết đi, mà tôi cũng có thể nói thẳng với anh: Đó là một ý tưởng ngớ ngẩn. Chả ai quan tâm đâu.”

“Cô chưa từng nghe ý tưởng đó mà” - Bosco nói.

Jules mang một chiếc ghế gấp tới rồi ngồi xuống. “Tôi muốn đi tour” - Bosco nói. - “Như tôi vẫn làm trước đây, thực hiện mọi thứ như cũ trên sân khấu. Tôi sẽ di chuyển giống như tôi di chuyển trước đây, có khác chăng là nhiều hơn.”

Stephanie đặt cái tách xuống. Cô ước gì Bennie có ở đây; chỉ Bennie mới có thể đo được độ sâu của sự tự dối mình mà cô đang chứng kiến. “Để tôi nói thẳng điều này nhé” - cô nói. - “Anh muốn thực hiện thật nhiều cuộc phỏng vấn và bài báo xung quanh chuyện anh là một cái bóng già nua bệnh hoạn của con người anh trước đây. Sau đó anh muốn thực hiện một tour...”

“Một tour xuyên quốc gia.”

“Một tour xuyên quốc gia, biểu diễn như thể anh vẫn là con người trước đây.”

“Chuẩn.”

Stephanie hít một hơi thật sâu. “Tôi thấy có một số vấn đề, Bosco.”

“Tôi đã nghĩ anh có thể” - Bosco nói, nháy mắt với Jules. - “Chụp hình.”

“Này, thứ nhất, sẽ rất khó mà tìm được một người viết có hứng thú với chuyện này.”

“Anh hứng thú” - Jules nói - “anh là một người viết.”

Chúa cứu con, Stephanie suýt chút hét lên, nhưng kịp ngăn mình lại. Đã nhiều năm rồi cô không nghe anh trai cô tự gọi bản thân là một người viết.

“Được rồi, vậy là có một người viết hứng thú với anh...”

“Anh ấy nắm bắt mọi thứ” - Bosco nói, quay sang Jules. - “Anh nắm bắt mọi thứ. Tiếp cận toàn diện. Anh có thể xem tôi đi ngoài nếu anh muốn.”

Jules nuốt khan. “Tôi sẽ suy nghĩ về điều đó.”

“Ý tôi chỉ là, không có giới hạn nào cả.”

“Được rồi” - Stephanie lại cất tiếng - “thế là anh có...”

“Anh có thể quay phim tôi luôn” - Bosco nói với Jules. - “Anh có thể làm một phim tài liệu, nếu anh có hứng.”

Jules bắt đầu có vẻ e dè.

“Tôi có thể nói cho nốt một câu không hả?” - Stephanie hỏi. - “Anh có một người viết cho một câu chuyện mà sẽ chẳng có ai hứng thú...”

“Anh có tin nổi đây là đại diện truyền thông của tôi không?” - Bosco hỏi Jules. - “Tôi có nên sa thải cô ấy không?”

“Chúc may mắn tìm được một người khác” - Stephanie đáp trả. - “Nào, về tour.”

Bosco cười nhăn nhở, đóng khung cái ghế bành dẻo dính mà người ta phải gọi là cái sofa mới đúng. Cô bỗng cảm thấy thương xót cho anh. “Nhận show sẽ không dễ đâu” - cô nói nhẹ nhàng. - “Anh đã không đi tour lâu rồi, anh không... Anh nói anh muốn biểu diễn như trước đây, nhưng...” Bosco cười lớn vào mặt cô, nhưng Stephanie cứng cỏi nói tiếp. “Về mặt thể chất, anh không, ý tôi là, sức khỏe của anh...” Cô đang nói vòng vo về chuyện Bosco hoàn toàn không thể biểu diễn theo phong cách cũ, và rằng cố gắng làm thế sẽ giết anh, có lẽ là sớm hơn thiên định.

“Cô không hiểu à, Steph?” - Cuối cùng Bosco bùng nổ. - “Toàn bộ vấn đề nằm ở đó đấy. Chúng ta biết cái kết cuộc ấy, nhưng chúng ta không biết khi nào, ở đâu, và ai sẽ ở đó khi cuối cùng sự việc xảy ra. Đó là một Tour Tự tử.”

Stephanie phá lên cười. Ý tưởng đó khiến cô buồn cười không sao hiểu nổi. Nhưng Bosco cực kỳ nghiêm túc. Anh nói: “Tôi hết rồi. Tôi già, tôi buồn bã, đó sẽ là một ngày tốt đẹp. Tôi muốn ra khỏi mớ bòng bong này. Nhưng tôi không muốn tàn phai đi, tôi muốn cháy rụi đi - tôi muốn cái chết của tôi là một sự cuốn hút, một màn diễn, một bí ẩn. Một tác phẩm nghệ thuật. Nào, Lady PR” - anh nói, kéo đống thịt rủ xuống của anh lại rồi ngả về phía cô, đôi mắt lấp lánh trong cái đầu to quá cỡ - “cô cố nói với tôi rằng sẽ chẳng ai hứng thú với chuyện đó. Truyền hình thực tế, chết tiệt, nó chẳng thể thực tế hơn thế này được. Tự tử là một vũ khí; điều đó chúng ta ai cũng biết. Nhưng một tác phẩm nghệ thuật thì sao?”

Anh lo lắng quan sát Stephanie: Một người đàn ông đau yếu phì nộn đưa ra một ý tưởng dũng cảm, háo hức hy vọng rằng cô sẽ thích nó. Tất cả im lặng hồi lâu trong khi Stephanie cố gắng suy nghĩ cho ra đầu ra đũa.

Jules lên tiếng trước: “Xuất sắc lắm.”

Bosco nhìn anh dịu dàng, cảm động bởi bài phát biểu của chính mình và cảm động khi biết rằng Jules cũng cảm động.

“Nghe này, hai anh” - Stephanie nói. Cô nhận thấy một thoáng suy nghĩ tàn nhẫn trong chính cô: Nếu bằng cách nào đó, ý tưởng này có cơ may thực hiện (điều này khả năng cao là không xảy ra - nó điên rồ, có thể còn phi pháp, vớ vẩn tới mức lố bịch), thì cô muốn cho nó một người viết thực thụ.

“Ồ không không không” - Bosco bảo với cô, lắc lư một ngón tay như thể cô đã nói ra nỗi băn khoăn khắc nghiệt đó.

Vừa thở dài và rên rỉ, vừa từ chối những lời đề nghị giúp đỡ, anh nhấc mình lên khỏi ghế, cái ghế khẽ kêu cót két khi được giải thoát, rồi anh lảo đảo đi về cuối phòng. Anh tới một chiếc bàn bừa bộn và với lên nó, thở hào hển thành tiếng. Rồi anh lục ra giấy bút.

“Nhắc lại tên anh là gì?” - Bosco hỏi.

“Jules. Jules Jones.”

Bosco viết trong mấy phút.

“Được rồi” - anh nói, rồi khó nhọc đi trở lại đưa tờ giấy đó cho Jules. Jules đọc to: “Tôi, Bosco, với trí óc và cơ thể khỏe mạnh, qua đây chứng nhận anh, Jules Jones, có độc quyền truyền thông để ghi lại câu chuyện về sự suy tàn và về Tour Tự tử của tôi.”

Những nỗ lực của Bosco khiến anh mệt lử. Anh ngồi sụm xuống ghế, thở khò khè, mắt nhắm nghiền. Bosco nghệ sĩ biểu diễn quần áo diêm dúa phong cách điên cuồng hiện lên chập chờn tinh quái trong đầu Stephanie, phủ nhận kẻ phục phịch thê thảm trước mặt họ đây. Một nỗi buồn trào lên trong cô.

Bosco mở mắt rồi nhìn Jules, nói: “Đó. Của anh đấy.”

༺༒༻

Trong bữa trưa trong vườn điêu khắc MoMA, Jules là một người được tái sinh: hân hoan, phấn khởi, rộn ràng những ý nghĩ về bảo tàng mới tu sửa đó. Trước đấy anh đã đi thẳng tới một cửa hàng lưu niệm để mua một cuốn sổ hẹn và cây bút (cả hai đều phủ hình những đám mây của Magritte) để ghi lại cuộc hẹn với Bosco vào sáng hôm sau.

Stephanie ăn sandwich cuộn gà tây và nhìn chăm chú tác phẩm She-Goat của Picasso, ước gì cô có thể chia sẻ niềm hoan hỉ với anh trai cô. Điều đó là không thể, như thể sự phấn khích của Jules đang được hút thẳng ra từ trong lòng cô, để lại cô với cảm giác trống rỗng ngang bằng với cảm giác hăng hái ở anh. Cô thấy mình vẩn vơ ước rằng cô đã không bỏ lỡ trận tennis.

“Có chuyện gì mà em ủ rũ thế?” - Cuối cùng Jules hỏi, nốc cạn lon nước việt quất và soda thứ ba.

“Em không biết” - Stephanie nói.

Anh nghiêng sang nhìn cô, và Stephanie thoáng thấy lại hình ảnh họ khi còn là con trẻ, cảm nhận hết sức tự nhiên về Jules như một người bảo vệ cô, coi sóc cô, tới những trận tennis của cô và xoa bắp vế cho cô khi bị chuột rút. Cảm giác ấy đã vùi sâu dưới những năm tháng quấy quả hỗn loạn của Jules, nhưng giờ đây nó quay trở lại, ấm áp và sống động, khiến nước mắt dâng lên mi Stephanie.

Anh trai cô kinh ngạc. “Steph” - anh nói rồi cầm tay cô - “có chuyện gì thế?”

“Em cảm thấy như mọi thứ đang kết thúc” - cô nói.

Cô đang nghĩ về những ngày xưa, như cô và Bennie giờ đây vẫn gọi - không chỉ thời trước khi tới Crandale mà là trước khi cưới, trước khi làm cha mẹ, trước khi có tiền, trước khi từ bỏ thuốc phiện, trước khi có trách nhiệm với bất cứ thứ gì, thuở họ còn cùng Bosco lang thang khắp Lower East Side, lên giường khi trời đã sáng bảnh mắt, kéo tới nhà của những người xa lạ, làm tình gần như giữa công cộng, tham gia những việc liều lĩnh, trong đó có hơn một lần (với cô) là tiêm heroin, vì chẳng có chuyện gì là nghiêm trọng. Họ trẻ trung, may mắn và khỏe mạnh - thế thì có gì phải lo lắng chứ? Nếu không thích kết quả, họ có thể quay trở lại bắt đầu từ đầu. Giờ thì Bosco đau ốm, hầu như không di chuyển được, quýnh quáng chuẩn bị cho cái chết. Kết quả này là một trường hợp lệch lạc quái gở của quy luật tự nhiên, hay là nó bình thường - một điều đáng lẽ họ phải biết sẽ đến? Phải chăng bằng cách nào đó họ đã gây ra nó?

Jules vòng một tay quanh cô, anh nói: “Nếu em đã hỏi sáng nay, anh sẽ nói rằng chúng ta kết thúc rồi. Tất cả chúng ta, cả đất nước này, cả thế giới này. Nhưng giờ đây anh cảm thấy điều ngược lại.”

Stephanie biết. Cô có thể nghe thấy rõ hy vọng chảy ào ào trong anh trai cô. Cô hỏi: “Thế giờ câu trả lời là gì?”

“Đúng, mọi thứ đang kết thúc” - Jules nói - “nhưng chưa hẳn.”

V

Stephanie thực hiện xong cuộc hẹn tiếp theo, với một nhà thiết kế túi da bóng nhỏ; rồi phớt lờ một cảm giác nôn nao báo động và ghé qua văn phòng. Sếp của cô, La Doll, đang nói chuyện điện thoại, lúc nào cũng vậy, nhưng cô ấy bịt ống gọi và hét to ra từ trong phòng: “Có chuyện gì không ổn à?”

“Không có gì” - Stephanie đáp, giật mình. Cô vẫn đang ở trong sảnh.

“Mọi việc với Gã-Túi xách đều tốt chứ?” - La Doll dễ dàng ghi nhớ lịch trình của nhân viên, ngay cả những người làm tự do như Stephanie.

“Ổn cả.”

La Doll kết thúc cuộc gọi, nhấn rót một ít espresso từ cái máy pha Krups trên bàn vào cái cốc thuôn sâu hoắm, rồi gọi: “Vào đây, Steph.”

Stephanie bước vào phòng làm việc ở góc cao hẳn lên của sếp. La Doll là một trong những người trông hơi lố, ngay cả với những người sành điệu nhất: tóc bob màu vàng sáng; son môi chát chúa; đôi mắt toan tính, láo liên. “Lần sau” - cô nói, ánh mắt siết lấy Stephanie trong giây lát - “hãy hoãn cuộc hẹn.”

“Sao cơ?”

“Tôi có thể cảm nhận được vẻ ảm đạm của cô từ trong sảnh” - La Doll nói. - “Giống như đang bị ốm vậy. Đừng phơi bày ra với khách hàng.”

Stephanie phì cười. Cô đã biết sếp của mình bao năm nay, đủ lâu để biết La Doll đang hết sức nghiêm túc. “Chúa ơi, chị đúng là quỷ cái” - cô nói.

La Doll cười khùng khục, tay lại bấm điện thoại. “Đó là một gánh nặng” - cô nói.

Stephanie lái xe trở lại Crandale (Jules đã về bằng tàu) để đón Chris ở sân tập đá bóng.

Bảy tuổi, con trai cô vẫn sẵn sàng ôm chầm lấy cô sau một ngày xa cách.

Cô ôm thằng bé, hít vào mùi mồ hôi trên tóc nó. “Bác Jules có ở nhà không?” - Chris hỏi. “Bác ấy có xây cái gì không?”

“Thật ra, hôm nay bác Jules đi làm” - cô nói, cảm thấy một thoáng tự hào khi nói ra những từ đó. - “Bác ấy làm việc trong thành phố.”

Những thăng trầm của ngày hôm ấy đã hóa giải thành một mong muốn xốn xang duy nhất là được nói chuyện với Bennie. Stephanie đã nói chuyện với Sasha, trợ lý của anh, người mà trước đây không thể tin cậy được vì luôn canh gác hành vi trái khoáy của Bennie nhưng đã trở nên đáng mến trong những năm qua, kể từ khi anh thay đổi. Bennie đã gọi trên đường về nhà, tắc đường, nhưng lúc này Stephanie muốn giải thích trực tiếp. Cô hình dung sẽ cười váng lên cùng Bennie về chuyện Bosco, mà lại thấy trào lên cảm giác bất hạnh lạ lùng. Một điều cô biết: cô đã ngừng nói dối về tennis.

Bennie vẫn không có nhà khi cô và Chris về. Jules xuất hiện với quả bóng rổ trên tay và thách Chris một trận bóng rổ ngựa, rồi hai bác cháu tới lối vào, cửa ga ra rung bần bật dưới những cú ném của họ. Mặt trời bắt đầu lặn.

Cuối cùng Bennie cũng về và đi thẳng lên tầng để tắm. Stephanie cho ít đùi gà đông lạnh vào nước ấm để rã đông, rồi theo anh lên tầng. Hơi nước lan từ cửa phòng tắm bỏ ngỏ ra phòng ngủ, uốn lượn trong những tia nắng cuối ngày. Stephanie cũng cảm thấy muốn tắm - họ có một cái bồn tắm đôi với những cái vòi thủ công có giá cắt cổ từng khiến họ tranh cãi mãi. Nhưng Bennie là người cả quyết.

Cô hất giày ra rồi cởi áo, ném lên giường bên cạnh quần áo của Bennie. Đồ đạc trong túi quần anh nằm lộn xộn trên chiếc bàn kiểu cổ nhỏ nhắn, chỗ anh thường xuyên bỏ những thứ ấy. Stephanie liếc nhìn những thứ ở đó, một thói quen cũ còn sót lại từ thời mà cô luôn sống trong nghi ngờ. Tiền xu, vỏ kẹo cao su, một cái vé đỗ xe. Khi cô quay bước, có thứ gì đó dính vào dưới lòng bàn chân trần của cô. Cô gỡ nó ra - một cái kẹp tăm - rồi đi tới giỏ rác. Trước khi thả cái kẹp tăm vào, cô liếc nhìn: chiếc kẹp tăm màu vàng sáng phổ biến, giống hệt nhau mà người ta có thể tìm thấy trong góc nhà của hầu hết mọi phụ nữ ở Crandale.

Trừ nhà cô.

Stephanie ngừng lại, giơ cái kẹp tăm lên. Có hàng nghìn lý do để nó có thể ở đây - một bữa tiệc họ đã tổ chức, bạn bè có thể đã lên đây dùng phòng tắm, cô dọn vệ sinh - nhưng Stephanie biết nó của ai như thể cô đã biết nó từ trước, như thể không phải cô đang khám phá ra chuyện này mà là đang nhớ lại. Cô ngồi phịch xuống giường, vẫn mặc váy và áo lót, nóng bừng và run rẩy, chớp mắt vì sốc. Tất nhiên. Chẳng cần phải tưởng tượng gì để biết mọi thứ đã hội tụ như thế nào: đau đớn; trả thù, quyền lực, dục vọng. Anh đã ngủ với Kathy. Tất nhiên.

Stephanie mặc áo lại rồi cài cúc cẩn thận, vẫn giữ chiếc kẹp tăm. Cô đi vào phòng tắm, nhìn thấy thân hình nâu sậm mảnh dẻ của anh qua làn hơi ẩm và nước chảy. Anh không nhìn thấy cô. Sau đó cô dừng bước, khựng lại bởi một cảm nhận quen thuộc đáng sợ, bởi biết mọi thứ họ sẽ nói: đoạn đường khốn khổ từ chỗ chối bỏ cho tới xin lỗi và tự chỉ trích bản thân về phía Bennie, từ chỗ giận dữ cho tới chấp nhận trong đau đớn về phía cô. Cô đã từng nghĩ họ sẽ không bao giờ đi lại đoạn đường đó nữa. Đã thực sự tin như thế.

Cô ra khỏi phòng tắm và ném cái kẹp tăm vào thùng rác. Cô lặng lẽ lướt xuống cầu thang trên đôi chân trần. Jules và Chris đang ở trong bếp, tu nước từ bình lọc Brita. Ý nghĩ duy nhất của cô là bỏ đi, như thể cô đang mang một quả lựu đạn đã rút chốt ra khỏi ngôi nhà đó, để khi phát nổ, nó chỉ hủy hoại một mình cô.

Bầu trời còn xanh ngăn ngắt trên những tàng cây, nhưng mảnh sân đã trở tối. Stephanie bước tới bên bãi cỏ và ngồi xuống, trán gục lên đầu gối. Cỏ và đất vẫn còn hơi ấm ban ngày.

Cô muốn khóc mà không thể. Cảm giác này quá sâu.

Cô nằm xuống, nghiêng mình cuộn tròn trên bãi cỏ, như thể cô đang che chắn cho phần bị phá hủy trong cô, hoặc cố kiềm chế cơn đau phát ra từ nó. Mỗi đợt suy nghĩ lại dâng trào cùng cảm giác khủng khiếp của cô, nỗi đinh ninh rằng cô sẽ chẳng bao giờ hồi phục, chẳng còn nguồn lực nào để bấu víu.

Tại sao lần này lại tồi tệ hơn những lần khác? Nhưng đúng là như thế.

Cô nghe thấy tiếng Bennie từ trong bếp: “Steph?”

Cô ngồi dậy và loạng choạng bước vào trong một thảm hoa. Cô và Bennie đã cùng nhau trồng nó: lay ơn, ngọc trâm, cúc vàng. Cô nghe thấy tiếng những thân cây gãy lạo xạo dưới bàn chân, nhưng cô không nhìn xuống. Cô đi một mạch tới bên hàng rào và quỳ xuống đất.

“Mẹ ơi.” - Giọng Chris vang lên từ trên gác. Stephanie bịt tai lại.

Rồi một giọng khác cất lên, gần tới nỗi Stephanie nghe được qua bàn tay. Giọng nói đó thì thầm khe khẽ: “Này, xin chào.”

Mất một lúc cô mới phân tách được giọng nói mới, gần sát này với các giọng khác trong nhà. Cô không thấy sợ, chỉ tò mò một cách đờ đẫn. “Ai đấy?”

“Tôi đây.”

Stephanie nhận ra mình đang nhắm mắt. Cô mở mắt ra và nhìn qua song hàng rào. Giữa các bóng cây, cô nhận ra khuôn mặt trắng bệch của Noreen đang nhìn lén qua từ phía bên kia. Cô đã cất kính râm; Stephanie lờ mờ để ý thấy một đôi mắt ngơ ngác dò hỏi. “Chào Noreen” - cô nói.

“Tôi thích ngồi chỗ này” - Noreen đáp.

“Tôi biết.”

Stephanie muốn bỏ đi, nhưng dường như cô không nhúc nhích nổi. Cô lại nhắm mắt.

Noreen không nói gì, và mấy phút sau Stephanie dường như lịm đi trong cơn gió cuồn cuộn và tiếng côn trùng rỉ rả, như thể bản thân buổi đêm này sống thực. Stephanie gập người dưới đất một hồi lâu, hay cảm giác giống như một hồi lâu, chứ thực tế chỉ là một phút. Cô quỳ đó cho tới khi tiếng gọi lại vang lên - cả Jules nữa, giọng hoảng sợ của anh thảng thốt lao qua màn đêm. Cuối cùng cô lẩy bẩy đứng lên. Khi duỗi thẳng người ra, cô cảm thấy cục đau đã lắng ở trong lòng. Hai đầu gối cô run rẩy trước sức nặng kinh hoàng mới của nó.

“Chúc ngủ ngon, Noreen” - cô nói khi cất bước đi trở lại qua thảm hoa và các bụi cây trở về nhà.

“Chúc ngủ ngon” - cô nghe láng máng.