← Quay lại trang sách

8: Bán đại tướng

Ý tưởng lớn đầu tiên của Dolly là cái mũ. Cô chọn chiếc mũ lông màu xanh ngọc đậm, có phần ốp hai bên rủ xuống đôi tai to bản trông như mơ khô của đại tướng. Đôi tai xấu quá, Dolly nghĩ, tốt nhất là phải che lại.

Mấy hôm sau, khi trông thấy bức tranh của đại tướng trên tờ Times, cô suýt nghẹn món trứng chần: Ông trông giống như một em bé, một em bé ốm yếu to lớn với bộ ria mép khổng lồ và cái cằm xệ.

Nhan đề bài viết không thể kinh dị hơn:

ĐỒN ĐOÁN VỀ BỆNH UNG THƯ DẤY LÊN TỪ MŨ TRÙM ĐẦU CỦA TƯỚNG B.

TÌNH TRẠNG BÁO ĐỘNG ĐỊA PHƯƠNG TĂNG CAO

Dolly nhảy chồm chồm trong căn bếp cáu bẩn rồi xoay một vòng điên cuồng, hất đổ cả trà xuống áo choàng tắm.

Cô nhìn trân trân bức ảnh của đại tướng. Rồi cô nhận ra: những sợi dây. Họ đã không cắt các cái nơ dưới mũ như cô hướng dẫn, và giờ đây thảm họa chính là một cái nơ bằng lông to tướng dưới cái cằm xệ của đại tướng. Dolly chạy chân trần tới phòng làm việc kiêm phòng ngủ và bắt đầu bới đống giấy fax, cố gắng moi cho ra dãy số gần đây nhất mà cô đã gọi để liên lạc với Arc, viên phụ trách quan hệ công chúng của đại tướng. Đại tướng di chuyển liên tục để tránh cuộc mưu sát, nhưng Arc luôn hết sức cẩn thận fax cho Dolly thông tin liên lạc cập nhật của họ. Các tờ fax đó thường đến lúc ba giờ chiều, đánh thức Dolly dậy và đôi khi cả con gái cô, Lulu. Dolly không bao giờ nhắc tới sự lụn bại; đại tướng và êkíp của ông vẫn cứ nghĩ rằng cô đang là đại diện truyền thông hàng đầu New York, một phụ nữ với chiếc máy fax nằm trong một phòng làm việc ở góc với view bao quát toàn cảnh New York City (nhiều năm trước thì quả là đúng thế), chứ không phải cách vài chục phân so với chiếc tràng kỷ mà cô nằm ngủ. Dolly chỉ có thể quy sự hiểu lầm của họ cho một bài báo nào đó đã trôi dạt lâu ngày trên đường tới với họ từ Vanity Fair hoặc InStyle hay People, trong đó người ta viết về Dolly và gọi cô dưới biệt danh lúc bấy giờ: La Doll.

Cuộc gọi đầu tiên từ doanh trại của đại tướng tới đúng lúc; Dolly vừa cầm đồ món trang sức cuối cùng. Thời gian đó cô chỉnh sửa văn bản cho sách giáo khoa tới hai giờ sáng, ngủ đến năm giờ, rồi dậy thực hiện những cuộc tán gẫu lịch sự trên điện thoại với những người nói tiếng Anh đầy háo hức ở Tokyo cho tới khi thức Lulu dậy và chuẩn bị bữa sáng cho con bé. Và tất cả điều này vẫn không thể đủ để tiếp tục cho Lulu học ở trường Nữ thục Miss Rutgers. Thường thường ba tiếng ngủ định mức của Dolly diễn ra trong những cơn lo âu với ý nghĩ về hóa đơn học phí khổng lồ tiếp theo.

Thế rồi Arc đã gọi. Đại tướng muốn có một phụ tá xuất sắc. Ông muốn phục hồi, muốn có sự thông cảm của người Mỹ, kết thúc những nỗ lực thủ tiêu của CIA. Nếu Qaddafi làm được điều đó, tại sao ông không thể? Dolly băn khoăn phải chăng làm việc quá sức và thiếu ngủ đã khiến cô bị ảo giác, nhưng cô vẫn ra giá. Arc bắt đầu lấy thông tin tài khoản ngân hàng của cô. “Đại tướng đã nghĩ rằng cô sẽ đưa giá cao hơn” - anh ta nói, và nếu lúc ấy Dolly nói nổi nên lời thì cô sẽ nói, Đó là lương phụ tá theo tuần của tôi, thưa anh, không phải theo tháng, hoặc Này, tôi chưa đưa cho anh công thức để anh tính giá chính xác nhỉ, hoặc Đó chỉ là trong hai tuần làm thử để quyết định xem liệu tôi có muốn cộng tác với các anh không. Nhưng Dolly không nói được.

Cô đang khóc.

Khi khoản tiền đầu tiên xuất hiện trong tài khoản ngân hàng của cô, cảm giác nhẹ nhõm trong Dolly mạnh mẽ tới nỗi hầu như xóa tan giọng nói bất an rì rầm khe khẽ trong lòng cô: Khách hàng của cô là một tên độc tài diệt chủng đấy. Dolly đã từng làm việc với nhiều kẻ khốn nạn rồi, Chúa biết điều ấy; nếu cô không làm công việc này thì một ai khác sẽ chộp lấy nó; làm đại diện truyền thông là không được phán xét khách hàng - những cái cớ này xếp thành đội hình, sẵn sàng xung trận nếu cái giọng phản đối bé xíu đó gom đủ can đảm để cất tiếng dù ở cỡ nào. Nhưng gần đây, Dolly thậm chí còn chẳng nghe thấy nó nữa.

Lúc này, khi cô hấp tấp chạy trên tấm thảm Ba Tư mòn vẹt để đi tìm số điện thoại mới nhất của đại tướng thì điện thoại reo. Lúc này là sáu giờ sáng. Dolly vồ lấy ống nghe, cầu trời cho giấc ngủ của Lulu không bị đánh động.

“Ai đấy ạ?” - Nhưng cô biết rõ đó là ai.

“Chúng tôi không hài lòng” - Arc nói.

“Tôi cũng vậy” - Dolly nói. - “Các anh đã không cắt...”

“Đại tướng không hài lòng.”

“Arc, nghe tôi này. Đáng lẽ anh phải cắt cái...”

“Đại tướng không hài lòng, cô Peale.”

“Nghe tôi đã, Arc.”

“Ngài ấy không hài lòng.”

“Đó là vì - nghe này, lấy một cái kéo...”

“Ngài ấy không hài lòng, cô Peale.”

Dolly im lặng. Đã có nhiều lần khi lắng nghe giọng nói đều đều trơn tuột của Arc, cô tin chắc mình có nghe thấy một chút mỉa mai quanh những từ mà anh ta được lệnh phải nói, giống như anh ta đang nói với cô bằng mật mã. Giờ thì hai bên im lặng rất lâu. Dolly nói rất nhẹ nhàng. “Arc, lấy kéo cắt mấy cái nơ khỏi mũ đi. Không thể nào lại có một cái nơ chết tiệt dưới cằm đại tướng được.”

“Ngài ấy sẽ không bao giờ đội cái mũ đó nữa.”

“Ngài ấy phải đội chiếc mũ đó.”

“Ngài ấy sẽ không đội nó. Ngài ấy từ chối.”

“Cắt nơ đi, Arc.”

“Tin đồn đã tới chỗ chúng tôi rồi, cô Peale.”

Ruột gan cô chao đảo. “Tin đồn?”

“Rằng cô không còn là ‘hàng đầu’ như cô đã từng nữa. Giờ thì cái mũ thất bại.”

Dolly cảm thấy các lực âm kéo tới vây quanh cô. Đứng đó với tiếng xe cộ của Eighth Avenue rền rĩ qua phía dưới cửa sổ nhà cô, vò mái tóc quăn mà cô đã thôi nhuộm để mặc cho dài thượt và ngả bạc, cô thấy một cảm giác khẩn cấp sâu thẳm trào lên.

“Tôi có kẻ thù, Arc” - cô nói. - “Cũng giống như đại tướng.”

Anh ta im lặng.

“Nếu anh nghe kẻ thù của tôi, tôi không thể làm việc được. Giờ thì hãy lôi cái bút xa xỉ trong túi của anh ra rồi viết điều này lại: Cắt dây khỏi mũ. Tháo cái nơ ra. Kéo cái mũ ra phía sau đầu đại tướng xa hơn một chút để mấy lọn tóc của ngài rủ ra phía trước. Làm thế đi, Arc, rồi hãy xem chuyện gì xảy ra.”

Lulu đã vào phòng, còn mặc bộ pyjamas hồng, và đang dụi mắt. Dolly nhìn đồng hồ, nhận ra con bé đã mất nửa tiếng ngủ, và cảm thấy một thoáng tan nát trong lòng khi nghĩ Lulu sẽ mệt mỏi ở trường. Cô vòng tay ôm lấy vai con. Lulu nhận cái ôm này với phong thái quyền quý, vốn là đặc điểm của con bé.

Dolly đã quên bẵng mất Arc, nhưng lúc này giọng anh ta vẳng ra từ chiếc điện thoại cô kẹp ở cổ: “Tôi sẽ làm vậy, cô Peale.”

Mấy tuần sau ảnh của đại tướng mới xuất hiện trở lại. Lần này cái mũ được kéo ra sau và dây rợ đã biến mất.

Nhan đề bài báo là:

CÁC CHỨNG CỚ MỚI CHO THẤY

MỨC ĐỘ TỘI ÁC CHIẾN TRANH CỦA TƯỚNG B. CÓ VẺ BỊ THỔI PHỒNG

Đó là nhờ cái mũ. Trông ông rất đáng yêu với cái mũ. Làm sao một người đàn ông đội mũ lông màu xanh ngọc có thể dùng xương người để lát đường?

La Doll rơi vào cảnh khốn cùng vào dịp đón năm mới hai năm về trước, tại một bữa tiệc hết sức được mong đợi, vốn đã được lên kế hoạch bởi các học giả uyên thâm lịch sử văn hóa mà cô đã nghĩ là đáng mời, hòng mong sánh được với dạ vũ Black and White Ball của Truman Capote. Bữa tiệc, người ta gọi thế, hoặc là Danh sách. Như trong: Anh ta có ở trong danh sách không? Một bữa tiệc để chúc mừng - cái gì nhỉ? Nghĩ lại thì Dolly cũng không biết nữa; chúc mừng sự thật là người Mỹ chưa bao giờ giàu có hơn thế này, mặc cho sự rối loạn đang khuấy đảo thế giới chăng? Bữa tiệc có mấy chủ nhân, tất cả đều nổi tiếng, nhưng chủ nhân thực sự, như mọi người đều biết, là La Doll, người có nhiều mối liên kết, nhiều mối quan hệ, lối tiếp cận và quyền phép hơn tất cả những người này cộng lại. La Doll đã mắc một sai lầm rất con người - mà cũng có thể cô cố gắng an ủi chính mình như thế trong những đêm ký ức về sự sụp đổ chọc ngoáy trong cô như một cây cời bỏng rát, khiến cô quằn quại trên chiếc tràng kỷ và phải tu ừng ực rượu mạnh thẳng từ chai - cô đã nghĩ rằng mình có thể làm một số việc rất rất tốt (cụ thể là, đưa những người xuất sắc nhất vào một căn phòng cùng lúc) thì cũng sẽ làm những việc khác tốt. Ví như thiết kế. Và La Doll đã có một mộng tưởng: những cái khay rộng trong suốt đựng nước pha dầu treo lơ lửng phía dưới những chiếc đèn màu sáng rực nho nhỏ, sức nóng từ đèn sẽ khiến chất lỏng đối diện sủi bọt và cuộn xoáy. Cô đã tưởng tượng mọi người sẽ nghển cổ lên nhìn, ngẩn ngơ trước những hình thù tạo nên từ chất lỏng uốn lượn. Quả là họ nhìn lên thật. Họ trầm trồ trước những cái khay sáng trưng đó; La Doll quan sát điều đó từ một ô nhỏ mà cô đã thiết kế cao lên và đặt ở một bên để có thể thấy được toàn cảnh thành tựu của mình. Từ chỗ đó, khi nửa đêm dần tới, cô là người đầu tiên để ý thấy có điều gì đấy bất thường với những cái khay trong suốt đựng nước pha dầu ấy: chúng đang bị võng một chút chăng? Nói cách khác, chúng đang xệ xuống dưới dây xích như những cái bao tải và tan chảy. Rồi chúng bắt đầu sụm xuống, chao đảo, co rúm lại và rơi xuống, đổ cả dầu nóng bỏng lên đầu của tất cả những con người hào nhoáng nhất đất nước này và cả một số nước khác nữa. Họ bị bỏng, bị sẹo, bị thương tật theo nghĩa những chấm sẹo lờ mờ trên trán của một ngôi sao điện ảnh hay những vệt sém tóc nhỏ trên đầu của một nhà môi giới nghệ thuật hay một người mẫu, một người quyền quý nói chung. Nhưng trí óc như khép lại khi La Doll đứng đó, cách xa chỗ dầu nóng chảy: cô không gọi 911. Cô há hốc kinh ngạc không tin nổi, trong khi khách khứa của cô kêu thét, chạy tán loạn, tay ôm đầu, xé quần áo ngấm dầu nóng bỏng khỏi da thịt, bò lồm cồm trên sàn như con người trong tranh thờ thời trung đại, những kẻ đã xa hoa trên trần thế nên bị đày xuống địa ngục.

Những lời buộc tội sau đấy - rằng cô đã cố ý làm chuyện đó, là một kẻ độc ác khi cứ vui sướng đứng đó trong lúc mọi người đau đớn - thực sự còn kinh khủng với La Doll hơn việc phải nhìn dầu tàn nhẫn rót xuống đầu năm trăm vị khách của cô. Rồi nỗi bàng hoàng như một cái kén bảo vệ cho cô. Thế nhưng điều tiếp theo thì cô phải chứng kiến trong trạng thái tỉnh táo: Họ ghét cô. Họ ra sức rũ bỏ cô. Giống như thể cô không phải con người, mà là con chuột hay con bọ. Và họ thành công. Trước cả khi lĩnh sáu tháng tù do vô ý phạm tội, trước cả khi vụ kiện tập thể khiến cho toàn bộ tài sản của cô (dường như chưa bao giờ dồi dào tới vậy) bị chia thành các món nhỏ cho nạn nhân của cô, La Doll đã biến mất. Hủy hoại hoàn toàn. Cô xuất hiện ở phiên tòa với cơ thể nặng lên mười lăm cân già đi mười lăm tuổi, tóc bạc trắng. Chẳng ai nhận nổi ra cô, và thế giới mà cô từng sống vương giả đã bốc hơi trong thoáng chốc - trong tình cảnh này cả người giàu cũng khóc. Sau vài tít báo hả hê và những bức hình mới về tình trạng tàn tạ của cô, họ quên bẵng cô luôn.

Dolly bị bỏ lại một mình để suy nghĩ về những tính toán sai lầm - không chỉ là những sai lầm rõ ràng liên quan tới chuyện nhiệt độ làm nóng chảy nhựa và sự sắp xếp hợp lý dây đỡ vật nặng. Sai lầm sâu xa hơn của cô đã xuất phát từ tất cả điều này: Cô đã coi nhẹ một vết nứt địa chấn - đã mơ tưởng tới một sự kiện tạo ra cả một kỷ nguyên, một điều không tồn tại nữa. Đối với một đại diện truyền thông, chẳng có sai lầm nào khủng khiếp hơn. Cô đáng bị lãng quên. Giờ đây đôi khi Dolly vẫn tự hỏi liệu kiểu sự kiện hay cuộc hội tụ nào sẽ định nghĩa thế giới mới mà trong đó cô nhận diện chính mình, như bữa tiệc của Capote đã từng làm được, hay Liên hoan Woodstock, hay tiệc sinh nhật tuổi bảy mươi của Malcolm Forbes, hay bữa tiệc của tạp chí Talk. Cô không biết được. Cô đã mất năng lực phán đoán; điều đó sẽ do Lulu và thế hệ của con bé quyết định.

Khi nhan đề các bài báo liên quan tới Tướng B. đã mềm mại hơn rõ rệt, khi người ta đã chứng minh một số nhân chứng chống lại ông ta đã nhận tiền của phe đối lập, Arc gọi lại.

“Đại tướng trả cho cô mỗi tháng một khoản” - anh ta nói. - “Khoản đó không phải để cho một ý tưởng duy nhất đâu.”

“Đó là một ý tưởng hay, Arc. Anh phải thừa nhận đi.”

“Đại tướng mất kiên nhẫn rồi, cô Peale” - anh ta nói, và Dolly hình dung anh ta đang mỉm cười. - “Cái mũ không còn mới nữa.”

Đêm hôm đó, đại tướng xuất hiện trong giấc mơ của Dolly. Cái mũ đã biến mất, và ông ta đang gặp gỡ một cô nàng tóc vàng xinh đẹp ở cửa xoay. Nàng tóc vàng nắm cánh tay ông ta, rồi họ quay trở vào trong, xáp vào nhau. Rồi Dolly thấy mình trong giấc mơ đó, đang ngồi trên một chiếc ghế quan sát đại tướng và người tình, nghĩ họ đang sắm vai mới khéo làm sao. Cô choàng tỉnh như thể có ai lay dậy. Giấc mơ suýt lẩn mất, nhưng Dolly chộp nó lại, ép vào ngực mình. Cô hiểu: Đại tướng cần phải có mối quan hệ với một ngôi sao điện ảnh.

Dolly bò xuống khỏi chiếc tràng kỷ, đôi chân vàng ệch lóe trong tia sáng đèn đường lọt vào qua một cái song gãy của tấm mành. Một ngôi sao điện ảnh. Một ai đó lôi cuốn, dễ nhận ra - còn cách nào tốt hơn để nhân tính hóa một kẻ dường như không có nhân tính? Nếu ông ta đủ tốt với cô ấy thì... là một lối suy nghĩ. Và còn nữa: Đại tướng đó và mình có chung sở thích: cô ấy. Hoặc: Chắc là cô ấy phải thấy cái đầu nhọn hoắt của ông ta quyến rũ. Hay thậm chí: Không biết đại tướng ấy mà nhảy thì thế nào nhỉ? Và nếu Dolly có thể làm cho người đời đặt câu hỏi đó, thì hình ảnh của đại tướng sẽ được cứu vãn. Ông ta đã tàn sát bao nhiêu nghìn người đâu còn là vấn đề nữa - nếu như hình tượng chung về ông ta có liên quan tới sàn nhảy, tất cả điều đó sẽ lùi lại phía sau ông ta. Có rất nhiều ngôi sao nữ quá thời có thể làm nên chuyện này, nhưng trong đầu Dolly lại cứ đinh ninh một người: Kitty Jackson, người mà mười năm trước đã xuất hiện lần đầu với vai người ngăn chặn tội phạm dẻo dai, ưa đôi co trong phim Oh, Baby, Oh. Mấy năm sau Kitty mới thực sự có tiếng tăm, khi Jules Jones, anh trai của một trong những đệ tử ruột của Dolly, tấn công cô trong một cuộc phỏng vấn cho tờ Details. Vụ tấn công và phiên tòa đã long trọng đặt Kitty vào màn sương mờ sáng lung linh của hình tượng kẻ tử đạo. Thế nên khi màn sương tan sạch, mọi người thảng thốt hãi hùng nhận ra rằng nữ diễn viên đó đã thay đổi chóng mặt: Cô gái hồn nhiên ngây thơ ngày trước đã biến mất, giờ đây thế vào chỗ đó là một trong những kẻ “không ngửi được”. Vô số hành vi xấu xí và mất tư cách của Kitty liên tục phơi ra trên các mặt báo giải trí: Trong một lần đi quay ở miền Tây cô đã đổ một bọc phân ngựa lên đầu hói của một nam diễn viên gạo cội; cô đã thả mấy nghìn con vượn cáo trong khi đóng một phim của Disney. Khi một nhà sản xuất siêu quyền lực cố gạ gẫm cô lên giường, cô đã gọi cho vợ ông ta. Sẽ chẳng ai thuê Kitty nữa, nhưng mọi người sẽ nhớ tới cô ta - đó là khó khăn đối với Dolly. Và cô ta cũng mới có hai mươi tám tuổi.

Kitty không khó tìm; chẳng ai dành nhiều sức lực để che giấu cô ta. Tới trưa, Dolly đã gọi được cho Kitty: giọng ngái ngủ, rít thuốc sòng sọc.

Kitty nghe Dolly nói hết, bảo cô nhắc lại thù lao ngất ngưởng mà cô đã đề cập, rồi khựng lại. Trong khoảng im lặng đó, Dolly nhận ra sự hòa trộn giữa nỗi tuyệt vọng và phẫn nộ mà cô hiểu quá rõ. Cô thấy nhói lên cảm giác nôn nao tội nghiệp cho nữ diễn viên ấy, với bao nhiêu lựa chọn đã rút gọn thành lựa chọn này. Rồi Kitty đồng ý.

Reo vui trong lòng, ngây ngây với cốc espresso được pha từ cái máy Krups cũ, Dolly gọi cho Arc trình bày kế hoạch của mình.

“Đại tướng không thích phim Mỹ” - Arc đáp.

“Ai bận tâm? Người Mỹ đều biết cô ấy.”

“Đại tướng có thẩm mỹ rất riêng” - Arc đáp. - “Ngài ấy không dễ lay chuyển.”

“Ngài ấy không cần phải động vào cô ấy, Arc. Ngài ấy không phải nói chuyện với cô ấy. Tất cả những gì ngài ấy phải làm là đứng bên cạnh cô ấy để chụp ảnh. Và ngài ấy phải cười.”

“... Cười?”

“Ngài ấy phải tỏ ra hạnh phúc.”

“Đại tướng hiếm khi cười, cô Peale.”

“Ngài ấy đã đội cái mũ đó, chẳng phải sao?”

Hai bên im lặng hồi lâu. Cuối cùng Arc nói: “Cô phải đi cùng nữ diễn viên đó. Rồi chúng tôi sẽ xem xét.”

“Đi cùng cô ấy tới đâu?”

“Tới chỗ chúng tôi.”

“Ôi, Arc.”

“Đó là điều bắt buộc” - anh ta nói.

Đi vào phòng Lulu, Dolly cảm thấy giống như Dorothy bước chân vào xứ Oz: mọi thứ đều đầy màu sắc. Một vòng màu hồng tỏa phía trên bóng đèn. Vải sa màu hồng rủ xuống từ trên trần. Những nàng công chúa với đôi cánh hồng được in bằng giấy nến trên các bức tường: Dolly đã học cách làm giấy nến trong một lớp học nghệ thuật ở trại tù và đã dành nhiều ngày trang trí căn phòng này khi Lulu đi học. Những dải cườm dài màu hồng lơ lửng rủ xuống từ trần. Lúc ở nhà, chỉ khi ăn Lulu mới ra khỏi phòng.

Con bé là một phần của cộng đồng tiểu thư trường Nữ thục Miss Rutgers, một mạng lưới quá tinh túy và hết sức riêng tư tới nỗi ngay cả sự lụn bại và án tù của mẹ nó (trong thời gian đó bà của Lulu từ Minnesota tới chăm sóc con bé) cũng không phá hủy được nó. Thứ gắn kết bầy con gái đó lại với nhau không phải là sợi chỉ, mà là dây thép. Và Lulu là cái cọc để dây thép quấn quanh. Nghe lỏm con gái nói chuyện với bạn trên điện thoại, Dolly kính sợ trước uy quyền của con bé: Nó nghiêm nghị khi cần, nhưng cũng mềm mại. Đáng mến. Lulu lên chín.

Con bé ngồi trên một chiếc ghế lười màu hồng, làm bài tập trên laptop và chat với bạn bè (từ khi biết đại tướng, Dolly phải trả tiền wireless). “Chào Dolly” - Lulu nói, đã thôi gọi Dolly là “mẹ” kể từ khi cô ra khỏi tù. Con bé nheo mắt như thể nó khó nhìn rõ mẹ nó. Dolly thực sự cảm thấy mình giống như một kẻ đen-trắng xâm nhập vào căn phòng màu sắc này, một kẻ tị nạn tới từ vùng u ám xung quanh đó. “Mẹ phải đi công tác” - cô nói với Lulu. - “Thăm một khách hàng. Mẹ nghĩ có lẽ con sẽ muốn ở với bạn để khỏi phải cúp học.”

Trường học là nơi cuộc đời của Lulu diễn ra. Con bé đã rất cứng rắn, không để cho mẹ nó, người đã từng học nhiều năm ở Miss Rutgers, phá hủy địa vị của nó bằng sự ô danh của mẹ nó. Bây giờ, Dolly thả Lulu xuống ở góc đường, nhìn chăm chú qua vỉa lát đá loang loáng của Upper East Side để chắc chắn con bé đi vào cổng trường an toàn. Tới giờ đón, Dolly chờ đúng chỗ đó trong khi Lulu nhởn nhơ với bạn bè ngoài cổng trường, đứng bên bụi cây kiểng và (vào mùa xuân) những thảm hoa tulip cũng đang bung nở như để củng cố và duy trì quyền lực của nó. Hôm nào Lulu sang nhà bạn chơi, Dolly không đi xa hơn sảnh tòa nhà khi tới đón con bé. Lulu sẽ xuất hiện ở thang máy với khuôn mặt đỏ hồng, thơm phức mùi nước hoa và bánh chocolate mới ra lò, nắm lấy tay mẹ, rồi cùng mẹ bước qua chỗ ông bảo vệ, vào màn đêm. Không phải vì thấy có lỗi - Lulu chẳng việc gì phải thấy có lỗi - mà vì thương cảm khi cuộc đời phải khắc nghiệt tới vậy với cả hai mẹ con.

Lulu nghiêng đầu, tò mò. “Đi công tác. Thế thì tốt, phải không?”

“Tốt, tốt lắm” - Dolly đáp hơi căng thẳng. Cô đã giữ bí mật chuyện đại tướng với Lulu.

“Mẹ sẽ đi bao lâu?”

“Mấy ngày. Bốn, có lẽ thế.”

Hai mẹ con im lặng hồi lâu. Rồi Lulu nói: “Con đi được không?”

“Với mẹ ư?” - Dolly ngạc nhiên. - “Nhưng con sẽ phải bỏ học.”

Lại im lặng. Lulu đang cân não để đo đếm mức độ ảnh hưởng tương đương nhau của cúp học và làm khách ở nhà ai đó, hoặc để giải đáp xem liệu ta có thể ở nhà một người nào đấy thêm một ngày nữa mà bố mẹ người ấy không phải liên lạc với mẹ ta hay không. Dolly chẳng biết rõ. Có thể Lulu cũng không hiểu chính mình.

“Ở đâu vậy?” - Lulu hỏi.

Dolly đỏ mặt; cô chưa bao giờ giỏi từ chối Lulu. Nhưng ý nghĩ con gái cô và đại tướng ở cùng một chỗ khiến cổ họng cô thắt lại. - “Mẹ... mẹ không thể nói cho con biết được.”

Lulu chẳng phản đối. “Nhưng Dolly này?”

“Sao, con yêu?”

“Dolly có thể nhuộm tóc vàng lại không?”

Họ chờ Kitty Jackson trong một quán cafe bên cạnh một đường bay tư ở sân bay Kennedy. Khi cuối cùng cô diễn viên nọ cũng xuất hiện, mặc quần jean và áo chui màu vàng đã sờn, Dolly sực thấy hối tiếc - đáng lẽ cô phải gặp Kitty trước! Cô gái này trông sập xệ quá mức rồi; có thể người ta còn không nhận ra cô nữa! Tóc cô vẫn màu vàng (ngang ngạnh không chải tóc và có vẻ như cũng chẳng tắm gội), đôi mắt cô vẫn to tròn và xanh biếc. Nhưng một vẻ mỉa mai đã ngự trị trên gương mặt cô, như thể đôi mắt xanh đó đang trợn ngược lên ngay cả khi nó đang nhìn thẳng vào người ta. Vẻ mặt ấy, hơn cả những nếp nhăn đầu tiên nhằng nhịt dưới mắt và quanh khóe miệng, khiến cô trông chẳng còn trẻ nữa, thậm chí chẳng còn hơi trẻ. Cô không còn là Kitty Jackson nữa.

Trong khi Lulu vào nhà vệ sinh, Dolly nhanh chóng giải thích mọi chuyện với cô diễn viên: trông lộng lẫy hết mức (Dolly liếc vội cái vali nhỏ bé của Kitty); làm vui lòng đại tướng bằng một hành động thật sự thân mật nào đó nơi công cộng trong khi Dolly chụp ảnh bằng camera ẩn. Cô cũng có camera thật, nhưng đó chỉ là để đánh lạc hướng.

Kitty gật đầu, một nụ cười mỉa nhíu lại trên khóe môi cô.

“Chị mang con gái theo?” - Là câu đáp duy nhất của cô. - “Để gặp đại tướng?”

“Con bé sẽ không tới gặp đại tướng” - Dolly rít khẽ, kiểm tra để chắc chắn Lulu chưa ra khỏi nhà vệ sinh. - “Con bé không biết gì về đại tướng! Đừng nhắc gì tới ông ta trước mặt con bé.”

Kitty nhìn Dolly chăm chú với vẻ hoài nghi. “Cô bé may mắn” - cô nói.

Họ lên máy bay của đại tướng vào lúc chiều tà. Sau khi máy bay cất cánh, Kitty gọi một ly martini từ nữ tiếp viên của đại tướng, nốc cạn, nằm thẳng người ra trên ghế, kéo một cái mặt nạ ngủ (thứ duy nhất trông có vẻ mới ở cô) lên che mắt, rồi bắt đầu ngáy.

Lulu ngả người tới dòm khuôn mặt của cô diễn viên, trông có vẻ trẻ và thản nhiên khi ngủ.

“Cô ấy ốm à?”

“Không.” - Dolly thở dài. - “Có lẽ thế. Mẹ không biết nữa.”

“Con nghĩ cô ấy cần đi nghỉ dưỡng” - Lulu nói.

Họ phải qua hai mươi chốt kiểm tra trước khi tới khu nhà của đại tướng. Ở mỗi chốt, hai tên lính vác súng máy lại nhìn săm soi vào chiếc Mercedes đen, trong đó Dolly, Lulu và Kitty ngồi ở ghế sau. Trong đó có bốn lần họ bị buộc phải ra ngoài ánh nắng chói chang và ngồi xuống dưới nòng súng. Mỗi lần như vậy, Dolly đều chăm chú quan sát vẻ trầm tĩnh ngẫm ngợi của con gái xem nó có dấu hiệu bị tổn thương không. Trong xe, Lulu ngồi thẳng phắt, chiếc cặp sách Kate Spade màu hồng nằm trên lòng con bé. Nó nhìn vào mắt những tay cầm súng máy cũng với ánh mắt bằng lặng mà hẳn là nó đã dùng để quật bao nhiêu đứa con gái từng cố gắng tuyệt vọng nhằm hạ bệ nó trong những năm qua.

Các bức tường trắng cao vút dựng đứng. Đậu trên bờ tường là hàng trăm con chim lông đen bóng béo tròn, mỏ dài màu đỏ thẫm cong vút như cái liềm. Dolly chưa bao giờ nhìn thấy loài chim này. Bầy chim đó trông như có thể kêu quang quác, nhưng mỗi lần cửa kính ô tô hạ xuống để dàn xếp với một tay súng máy săm soi, Dolly lại cảm thấy bồn chồn vì sự yên tĩnh.

Cuối cùng một khoảng tường mở ra, chiếc xe rẽ ra khỏi con đường rồi đỗ lại trước một khu nhà rộng mênh mông: những khu vườn xanh um, một hồ nước lấp lánh, một biệt thự trắng tinh chẳng biết đâu là điểm kết. Loài chim đó đậu dọc trên mái nhà, nhìn xuống. Tay tài xế mở cửa xe, Dolly, Lulu và Kitty bước ra ngoài nắng. Dolly cảm thấy nắng trên cổ mình, mới được lộ ra bởi một phiên bản hạ giá của mái tóc vàng óng dài ngang cằm đặc trưng trước đây của cô. Cái nóng khiến Kitty phải cởi chiếc áo chui ra; may sao, cô mặc một chiếc áo phông trắng sạch sẽ bên trong. Cánh tay cô màu rám nắng rất đẹp, tuy nhiên có một khoảng da đỏ tươi lỗ chỗ trên một cổ tay. Sẹo. Dolly nhìn nó chằm chằm. “Kitty, đó là...” - cô lắp bắp. - “Trên tay cô, có phải là...?”

“Bỏng” - Kitty đáp. Rồi Kitty nhìn Dolly với ánh mắt khiến dạ dày cô thắt lại cho tới khi cô nhớ ra hết sức lờ mờ, giống như một điều gì đó xảy ra trong sương mù hoặc từ khi cô còn quá bé, ai đó đã đề nghị cô - cầu xin cô - cho Kitty Jackson vào danh sách, nhưng cô đã khước từ. Tuyệt đối không, đó là chuyện không thể - xuất thân của Kitty quá thấp.

“Tôi đã tự làm đấy” - Kitty nói.

Dolly nhìn cô chằm chằm, không hiểu nổi. Kitty cười, và trong một thoáng trông cô tinh quái một cách đáng yêu, giống như ngôi sao trong Oh, Baby, Oh. Cô nói: “Rất nhiều người có đấy. Chị chưa biết à?”

Dolly tự hỏi liệu đây có phải một trò đùa. Cô không muốn suy sụp trước mặt Lulu.

“Làm sao tìm ra một người nào chưa từng có mặt trong bữa tiệc đó” - Kitty nói. - “Và họ có bằng chứng. Tất cả chúng tôi đều có bằng chứng, ai nói được chúng tôi lừa dối?”

“Tôi biết ai đã ở đó” - Dolly nói. - “Tôi vẫn thuộc danh sách đó trong đầu.”

“Nhưng... chị là ai chứ?” - Kitty nói, vẫn mỉm cười.

Dolly im lặng. Cô thấy đôi mắt xanh xám của Lulu nhìn mình.

Rồi Kitty làm một việc bất ngờ: Cô vươn tay giữa ánh nắng và nắm lấy bàn tay Dolly. Cái nắm tay của cô ấm và chặt, khiến Dolly cảm thấy mắt mình cay xè.

“Chúng chả còn nghĩa lý gì nữa, phải không?” - Kitty nói dịu dàng.

Một người đàn ông vạm vỡ, chỉn chu trong bộ vest cắt may tuyệt đẹp từ khu nhà đi ra chào họ. Arc.

“Cô Peale. Cuối cùng chúng ta cũng gặp nhau” - anh ta nói và mỉm cười. - “Cô Jackson nữa” - anh ta quay sang Kitty - “vô cùng hân hạnh và mừng rỡ.” Anh ta hôn bàn tay của Kitty với vẻ hơi cợt nhả, Dolly nghĩ. - “Tôi đã xem các phim của cô. Đại tướng và tôi cùng xem.”

Dolly nín thở chờ nghe Kitty nói, nhưng câu trả lời của Kitty tới bằng giọng líu lo thơ trẻ, ngoại trừ một chút xíu uốn éo tán tỉnh. “Ôi, tôi tin là anh đã xem nhiều phim hay hơn.”

“Đại tướng rất ấn tượng.”

“Ồ, tôi rất vinh hạnh. Tôi vinh hạnh khi đại tướng thấy chúng đáng xem.”

Với cảm giác nôn nao, Dolly liếc sang cô diễn viên, chỉ mong sao điệu bộ giễu cợt mà cô nàng xem thường không quá lộ liễu đến điên rồ. Cô ngạc nhiên khi thấy vẻ mặt đó không hề tồn tại, không một chút nào.

Kitty có vẻ khiêm tốn, hết sức nhún nhường, như thể mười năm đã biến mất và một lần nữa cô lại là một ngôi sao nhỏ đầy háo hức, biết ơn.

“Ôi, tôi có tin không lành” - Arc nói. - “Đại tướng đã phải ra đi đột xuất.” Họ nhìn anh ta trân trân. “Thật vô cùng đáng tiếc” - anh ta nói tiếp. - “Đại tướng gửi lời xin lỗi chân thành.”

“Nhưng chúng tôi... chúng tôi có thể tới chỗ của ngài ấy không?” - Dolly hỏi.

“Có lẽ có” - Arc đáp. - “Mọi người sẽ không phiền khi phải đi thêm chứ?”

“À” - Dolly nói, liếc nhìn Lulu. - “Còn tùy vào...”

“Không phiền chút nào đâu” - Kitty ngắt lời. - “Chúng tôi sẽ đi tới bất cứ chỗ nào đại tướng muốn chúng tôi tới. Chúng tôi sẽ làm mọi việc cần làm. Đúng không, bé con?”

Lulu mất một hồi mới nhận thức được từ “bé con” hạ thấp đó dành cho mình. Đó là lần đầu tiên Kitty nói trực tiếp với con bé. Lulu liếc nhìn nữ diễn viên, rồi mỉm cười.

“Đúng” - nó nói.

Theo dự tính họ sẽ tới một địa điểm mới vào sáng hôm sau. Tối đó, Arc đề nghị đưa họ vào thành phố chơi, nhưng Kitty từ chối. “Tôi sẽ bỏ qua tour hoành tráng đó” - cô nói khi họ ổn định nơi ở trong một căn hộ hai phòng ngủ mở ra một hồ bơi riêng. “Tôi muốn thưởng ngoạn những chỗ này hơn. Người ta đã từng luôn đưa tôi tới những chỗ như thế này.” - Cô khẽ cười cay đắng.

“Đừng có làm quá đấy” - Dolly nói, để ý thấy Kitty đang đi tới bên quầy rượu.

Kitty quay lại, nheo mắt. “Này. Lúc ở ngoài kia tôi thế nào? Đã có lời phàn nàn nào chưa?”

“Cô đã rất tuyệt” - Dolly nói. Rồi hạ thấp giọng để Lulu không nghe thấy, cô nói thêm - “Chỉ có điều đừng quên chúng ta đang đối phó với ai.”

“Nhưng tôi lại muốn quên” - Kitty nói, rót cho mình một ly gin và tonic. - “Tôi cố gắng quên đi. Tôi muốn được giống như Lulu, ngây thơ.” Cô nâng cốc lên với Dolly rồi nhấp một ngụm.

Dolly và Lulu cùng đi với Arc trên chiếc Jaguar màu chì của anh ta, một người lái xe đang lao vun vút xuống dốc dọc theo những con đường bé xíu, khiến khách bộ hành phải vội vã áp sát vào tường và phóng nhanh vào cổng để tránh bị đâm. Thành phố lung linh phía dưới: hàng triệu tòa nhà nghiêng nghiêng màu trắng chênh chếch trong vùng sương mù mờ ảo. Chẳng mấy chốc sương đã bao bọc quanh họ. Dường như nguồn màu sắc chủ đạo của thành phố này là mớ quần áo phơi phóng trên mọi ban công.

Người lái xe dừng lại bên một cái chợ trời: la liệt hàng đống hoa quả bọc nilon toát hơi lạnh, các loại hạt đậm mùi và túi xách giả da. Dolly nhìn hàng hóa với ánh mắt khó chịu khi cô cùng Lulu đi theo Arc giữa các gian hàng. Cam và chuối to chưa từng thấy, nhưng thịt có vẻ nguy hại. Từ vẻ tránh né dè dặt giống nhau của những người bán hàng và khách hàng, Dolly có thể thấy họ biết Arc là ai.

“Con có thích thứ gì không?” - Arc hỏi Lulu.

“Có ạ” - Lulu nói - “một quả kia.” Đó là quả khế; Dolly đã trông thấy loại quả đó ở cửa hàng Dean & DeLuca. Ở đây người ta chất thành hàng đống bẩn thỉu, ruồi bay loạn xạ. Arc lấy một quả, gật đầu gọn lỏn với người bán, một người đàn ông đứng tuổi có bộ ngực gầy giơ xương và khuôn mặt hiền lành, căng thẳng. Ông mỉm cười, hăm hở gật đầu với Dolly và Lulu, nhưng đôi mắt ông có vẻ sợ sệt.

Lulu nhận quả khế bụi bặm nhem nhuốc, lau kỹ bằng chiếc áo phông cộc tay của mình, rồi cắn ngập răng vào quả khế xanh sáng. Nước khế tứa cả vào cổ áo nó. Nó cười to rồi đưa tay chùi miệng. “Mẹ, mẹ phải thử quả này” - nó nói, và Dolly cắn một miếng. Cô và Lulu chia nhau quả khế, mút ngón tay dưới ánh nhìn chăm chú của Arc. Dolly cảm thấy vui sướng lạ thường. Rồi cô nhận ra tại sao: Mẹ. Đã gần một năm rồi Lulu mới nói lại từ đó lần đầu.

Arc dẫn họ vào trong một quán trà đông nghẹt. Một nhóm đàn ông tản ra khỏi một cái bàn trong góc để họ có chỗ ngồi, và cả quán buộc phải vui vẻ huyên náo trở lại như lúc trước. Một người phục vụ rót trà bạc hà ngọt vào cốc cho họ với bàn tay run lẩy bẩy. Dolly cố trao cho anh ta một cái nhìn trấn an, nhưng anh ta né ánh mắt của cô.

“Anh có thường làm thế này không?” - Cô hỏi Arc. - “Đi dạo quanh thành phố?”

“Đại tướng rất hay đi lại giữa nhân dân” - Arc nói. - “Ngài muốn mọi người cảm nhận được lòng nhân từ của ngài, chứng kiến nó. Tất nhiên, ngài phải hết sức cẩn thận khi làm thế.”

“Vì kẻ thù của ngài ấy.”

Arc gật đầu. “Không may là đại tướng có rất nhiều kẻ thù. Ví dụ như hôm nay, có những lời đe dọa gửi tới nhà ngài ấy, vì thế ngài cần phải đổi chỗ ở. Ngài làm vậy thường xuyên, như cô biết đó.”

Dolly gật đầu. Những lời đe dọa gửi tới nhà ngài ấy.

Arc mỉm cười. “Kẻ thù của đại tướng tin rằng ngài ấy đang ở đây, nhưng ngài ấy đã ở rất xa.”

Dolly liếc nhìn Lulu. Quả khế đã để lại một vòng tròn sáng bóng xung quanh miệng con bé. “Nhưng... chúng ta đang ở đây” - cô nói.

“Phải” - Arc nói. - “Chỉ có chúng ta.”

Đêm đó Dolly hầu như thức trắng, nghe tiếng chim gù, tiếng sột soạt và tiếng quàng quạc như bắt chước tiếng của những kẻ ám sát rình mò khắp khu vực đó để tìm kiếm đại tướng và kẻ đồng lõa của hắn: chính là cô, nói theo cách khác. Cô đã trở thành mục tiêu với tư cách là phụ tá và cộng sự của Tướng B., thành kẻ gây ra nỗi hoang mang lo sợ cho những ai dưới ách thống trị của ngài.

Sao mọi chuyện lại ra thế này? Bình thường thì Dolly trở lại khoảnh khắc khi những chiếc khay nhựa đầu tiên oằn xuống và cuộc đời mà cô đã tận hưởng bao nhiêu năm đổ sạch. Nhưng đêm nay, chẳng giống bao đêm khi Dolly trôi tuột xuống con dốc ký ức đó, Lulu nằm ngang so với cô trên chiếc giường khổng lồ, say giấc trong chiếc áo ngủ xếp nếp, đầu gối của con bé rúc vào dưới cô. Dolly cảm nhận thấy hơi ấm của cơ thể con gái, đứa trẻ cô có ở tuổi trung niên, mang thai ngoài ý muốn sau một lần bù khú với một khách hàng là ngôi sao điện ảnh. Lulu tin rằng cha con bé đã chết; Dolly cho con bé xem ảnh một người bạn trai cũ của cô.

Cô trượt xuống ngang giường và hôn lên đôi má ấm áp của Lulu. Thật hết sức ngớ ngẩn khi có con - Dolly đã quyết định phá thai, tập trung cho sự nghiệp. Quyết định của cô hết sức rõ ràng, nhưng cô chần chừ lên lịch hẹn - chần chừ qua cơn ốm nghén buổi sáng, qua những thay đổi tâm trạng triền miên, qua cảm giác kiệt sức. Chần chừ cho tới khi cô biết - với nỗi ngạc nhiên của sự nhẹ nhõm pha lẫn niềm vui sướng đê mê - rằng đã quá muộn.

Lulu trở người và Dolly nhích lại gần hơn, ôm con trong vòng tay. Khác với khi thức, Lulu thả lỏng trong sự âu yếm của mẹ. Dolly trào dâng một cảm giác biết ơn vô lý với đại tướng vì đã cấp cho chính chiếc giường này - thật là một sự xa hoa vĩ đại hiếm hoi khi được ôm con gái, được cảm nhận nhịp tim nhè nhẹ của con.

“Mẹ sẽ luôn bảo vệ con, con yêu” - Dolly thì thầm vào tai Lulu. - “Sẽ không bao giờ còn điều gì xấu xảy ra với chúng ta nữa, con biết điều đó phải không con?” Lulu đã ngủ say mềm.

Ngày hôm sau họ lên hai cái xe bọc thép màu đen trông giống xe jeep, có điều nặng hơn. Arc và đám lính ngồi ở chiếc đi trước, Dolly, Lulu và Kitty ngồi ở chiếc đi sau. Ngồi ở ghế sau, Dolly nghĩ cô có thể cảm thấy được sức nặng của cái xe đè xuống đất. Cô mệt rã rời, lòng tràn ngập sợ hãi.

Kitty đã trải qua một sự lột xác đáng kinh ngạc. Cô đã gội đầu, trang điểm, mặc vào chiếc váy không tay màu lục xám vải nhung nghiền. Màu váy đó lấy đi những đốm xanh lá trong đôi mắt xanh dương của cô và khiến chúng ngả sang màu xanh ngọc. Đôi vai Kitty màu vàng đồng khỏe khoắn, đôi môi hồng bóng, mũi lấm tấm chút tàn nhang. Ấn tượng quả là vượt quá những gì Dolly mong đợi. Nhìn Kitty cô cảm thấy gần như đau lòng, thế nên cô tránh nhìn.

Họ phóng vù vù qua các chốt kiểm tra và chẳng mấy chốc đã ra đường thoáng, cuộn mòng thành phố xám xịt từ trên cao. Dolly để ý thấy những người bán hàng rong bên đường. Thường thường đó là trẻ con, chúng giơ những vốc trái cây hoặc bảng các-tông lên mỗi khi xe jeep tiến tới. Khi xe vọt qua, lũ trẻ ngã dúi dụi vào vệ đường, có lẽ là do tốc độ. Lần đầu tiên trông thấy cảnh đó Dolly đã hét lên và ngả người về trước, muốn nói gì đó với tay lái xe. Nhưng chính xác là gì? Cô chần chừ, rồi ngồi dựa lưng vào ghế, cố không nhìn ra cửa sổ. Lulu quan sát bọn trẻ con, cuốn sách toán mở trên lòng.

Họ cảm thấy nhẹ cả người khi bỏ lại thành phố phía sau và bắt đầu chạy qua một vùng đất trống trải trông như sa mạc, lũ linh dương và bò đang gặm nhấm những thân cây còi cọc. Chẳng xin phép, Kitty bắt đầu hút thuốc, nhả khói ra ngoài khe hở cửa sổ. Dolly cố kiềm chế cảm giác muốn quát Kitty vì làm hại phổi của Lulu do hút thuốc thụ động.

“Thế” - Kitty nói, quay sang Lulu. - “Những kế hoạch lớn mà cháu đang ấp ủ là gì vậy?”

Lulu dường như suy nghĩ rất lung về câu hỏi đó. “Ý cô là... cho cuộc đời cháu hả?”

“Tại sao không.”

“Cháu chưa quyết định” - Lulu nói, trầm ngâm. - “Cháu mới chín tuổi.”

“Ừ, hiểu biết đấy.”

“Lulu rất hiểu biết” - Dolly nói.

“Ý cô là cháu tưởng tượng gì” - Kitty nói. Cô có vẻ bồn chồn, vặn vẹo những ngón tay cắt tỉa, khô khốc như thể cô muốn một điếu thuốc nữa nhưng buộc mình phải chờ. -

“Hay giờ trẻ con không làm thế nữa.”

Bằng trí tuệ thông minh của mình, Lulu dường như đoán được thực ra Kitty đang muốn nói. “Cô đã tưởng tượng gì khi cô lên chín?” - Con bé hỏi.

Kitty ngẫm nghĩ, rồi phì cười, mặt sáng bừng lên. Cô nói: “Cô muốn trở thành vận động viên đua ngựa, hoặc một ngôi sao điện ảnh.”

“Cô đã đạt được một ước mơ.”

“Đã từng như thế” - Kitty nói, nhắm mắt lại nhả khói thuốc ra ngoài cửa sổ. - “Cô đã từng đạt được điều cô muốn.”

Lulu quay sang nhìn Kitty. “Có phải nó không vui như cô từng nghĩ?”

Kitty mở mắt, nói: “Diễn xuất ư? Ôi, cô đã yêu việc đó, giờ vẫn yêu, cô nhớ nó. Nhưng con người thì như lũ quỷ.”

“Kiểu nào vậy?”

“Những kẻ dối trá” - Kitty nói. - “Ban đầu họ giả bộ tử tế, nhưng tất cả chỉ là diễn trò thôi. Những kẻ khốn nạn lộ liễu, những kẻ về cơ bản là muốn giết tươi ta, thì ít nhất họ còn thật thà.”

Lulu gật đầu, như thể đây là một vấn đề mà chính con bé phải đối mặt. “Cô cũng đã thử nói dối chứ?”

“Có chứ. Cô đã thử nhiều lần. Nhưng cô không quên được là mình đang nói dối, và khi nói ra sự thật thì cô bị trừng phạt. Giống như thể phát hiện ra trên đời chẳng có Ông già tuyết vậy, ta ước mình có thể quay trở lại tin tất cả mọi chuyện một lần nữa, nhưng quá trễ rồi.”

Cô đột ngột quay sang Lulu, vẻ mặt khổ sở. “Ý cô là... cô hy vọng cô...”

Lulu cười to, nói: “Cháu chưa bao giờ tin có Ông già tuyết cả”.

Xe đi mãi đi mãi. Lulu làm bài tập toán. Rồi bài tập nghiên cứu xã hội. Nó viết một bài luận về loài cú. Sau đoạn đường sa mạc chừng như hàng trăm dặm, thỉnh thoảng dừng đi vệ sinh ở những khu đồn trú có lính canh gác, cuối cùng xe của họ chạy lên đồi. Tán lá càng lúc càng dày, che khuất hết ánh mặt trời. Đột ngột, hai chiếc xe rẽ khỏi đường rồi dừng lại. Hàng chục tên lính ngụy trang như hiện ra từ những thân cây. Dolly, Lulu và Kitty ra khỏi xe và đi vào một khu rừng rậm chim kêu ầm ĩ.

Arc đi tới, bước cẩn thận trên đôi giày da bóng láng. “Đại tướng đang đợi” - anh ta nói. - “Ngài đang rất nóng lòng chờ đợi các cô.”

Mọi người di chuyển sát nhau trong khu rừng rậm. Đất dưới chân họ mềm, có màu đỏ tươi. Bầy khỉ nô đùa trên cây. Cuối cùng họ tới một dãy bậc thang bê tông gồ ghề đẽo vào sườn đồi. Lính xuất hiện đông hơn, và có tiếng lộp cộp, ken két khi tất cả bọn họ trèo lên. Dolly đặt tay trên đôi vai Lulu. Cô nghe Kitty ngân nga phía sau: không phải một giai điệu, mà chỉ có hai nốt duy nhất, lặp đi lặp lại.

Chiếc camera ẩn đã sẵn sàng trong ví của Dolly. Khi họ trèo lên bậc thang, cô lấy nó ra và đặt trong lòng bàn tay.

Tới đỉnh cầu thang, khu rừng đã bị phát quang để đặt một tấm bê tông lớn, hẳn từng là nơi đỗ trực thăng. Ánh nắng rọi xuống qua không khí ẩm ướt của rừng già, tạo ra những làn khói dưới chân họ. Đại tướng đứng ở giữa phiến bê tông, quân lính đứng hai bên. Ông ta có vẻ lùn, nhưng người nổi tiếng ai chẳng thế. Ông ta không đội chiếc mũ xanh, đúng hơn là không đội mũ, và mái tóc dày của ông ta chĩa ngược ra đến là kỳ cục xung quanh khuôn mặt tam giác hiểm ác. Ông ta đeo các huy hiệu quân đội, nhưng nhìn tổng thể chúng có vẻ lệch, hoặc cần được lau chùi. Đại tướng trông có vẻ mệt mỏi - có nhiều bọng dưới mắt ông ta. Trông ông ta rất cau có. Nhìn ông ta mà cảm giác như có người vừa dựng ông ta ra khỏi giường và nói, Họ tới rồi, và người ta phải nhắc để ông nhớ đám chết tiệt mà người ta đang nói tới đó là ai.

Tất cả im lặng một lúc vì dường như chẳng ai biết phải làm gì.

Rồi Kitty lên tới đỉnh cầu thang. Dolly nghe tiếng ngân nga của Kitty, nhưng cô không quay lại; thay vì vậy, cô quan sát thấy đại tướng nhận ra Kitty, quan sát năng lượng của nhận thức đó tỏa ra trên mặt ông ta một vẻ ham muốn lẫn bối rối. Kitty từ từ đi tới chỗ ông ta - nói đúng là lướt về phía ông ta, cô bước uyển chuyển trong bộ váy xanh xám, như thể cô chưa bao giờ phải bước đi giật cục lạ lùng như thế. Cô lướt về phía đại tướng rồi cầm bàn tay ông ta như để bắt tay, mỉm cười, khẽ đẩy ông ta, tỏ vẻ e thẹn nực cười, giống như họ đã biết nhau quá rõ để bắt tay. Dolly quá ngạc nhiên với toàn bộ sự việc kỳ lạ này nên thoạt đầu cô quên bẵng mất phải chụp hình; cô đã lỡ hẳn mất cái bắt tay. Chỉ tới khi Kitty áp tấm thân mảnh dẻ màu xanh vào bộ ngực mặc quân phục của đại tướng và nhắm mắt lại trong một thoáng thì Dolly mới hành động - tách - còn đại tướng thì chẳng biết rõ phải làm gì, lúng túng vỗ vỗ lưng của Kitty một cách lịch sự - tách - tới lúc này Kitty nắm lấy cả hai bàn tay (nặng trịch và thô ráp, bàn tay đáng lẽ phải của một người to hơn) trong đôi tay mảnh mai của chính cô rồi ngửa ra, mỉm cười nhìn khuôn mặt ông ta - tách - khẽ cười thành tiếng, e lệ, đầu cô ngửa ra sau như thể chuyện này khiến cả hai người họ thật ngốc nghếch, thẹn thùng. Thế rồi đại tướng mỉm cười. Diễn biến đó rất bất ngờ: đôi môi ông ta bạnh ra để lộ hai hàm răng nhỏ vàng xỉn - tách - khiến ông lộ ra điểm yếu, háo hức được làm vừa lòng. Tách, tách, tách - Dolly chụp nhanh hết mức mà không di chuyển bàn tay, vì tất cả nằm ở nụ cười đó, thứ chưa ai từng nhìn thấy, góc nhân tính ẩn trong đại tướng sẽ khiến cả thế giới phải chết lặng.

Toàn bộ cảnh này diễn ra trong vòng một phút. Chẳng ai nói một lời. Kitty và đại tướng tay trong tay đứng đó, cả hai đều hơi đỏ mặt, và tất cả những gì Dolly có thể làm là không hét lên, vì họ đã xong việc! Cô đã có thứ cô cần, mà không phải nói một chữ nào. Cô có một cảm giác pha trộn giữa kính sợ và yêu mến Kitty - con người kỳ diệu này, tài năng xuất chúng này, hầu như không phải là diễn với đại tướng, mà là thuần phục ông ta. Đó là cảm nhận của Dolly - giống như có một cánh cửa một chiều giữa thế giới của đại tướng và thế giới của Kitty, và nữ diễn viên đã nhẹ nhàng đẩy đại tướng qua đó mà ông ta không hề hay biết. Ông ta không thể quay trở lại! Và Dolly đã khiến chuyện này xảy ra - lần đầu tiên trong đời, cô đã làm được một việc có ích. Và Lulu đã chứng kiến.

Gương mặt Kitty vẫn giữ nguyên nụ cười quyến rũ mà cô đã trưng ra với đại tướng. Dolly quan sát cô diễn viên đưa mắt nhìn quanh đám đông, dò xét hàng chục tên lính mang vũ khí tự động, Arc, Lulu và Dolly với nét mặt sáng bừng đôi mắt ngập tràn phấn khích. Và hẳn là khi đó Kitty biết rằng cô đã vượt qua, đã tự mình cứu rỗi được mình, tạo ra con đường tái xuất từ chốn lãng quên và dọn lối để khởi động lại công việc mà cô yêu thích. Tất cả chỉ với một sự hỗ trợ nhỏ bé từ tên độc tài ở phía bên trái cô.

“Thế” - Kitty nói - “đây là chỗ ông chôn các thân thể hả?”

Vị tướng liếc nhìn cô, không hiểu. Arc vội vã bước tới, Dolly cũng vậy. Lulu bước theo.

“Ông chôn họ ở đây, trong các hố” - Kitty hỏi đại tướng với giọng chuyện trò, gần như thân thiết - “hay ông thiêu họ trước?”

“Cô Jackson” - Arc nói, với vẻ mặt nghiêm khắc, đầy cảnh báo. - “Đại tướng không hiểu ý cô đâu.”

Đại tướng không cười nữa. Ông rất khó chịu khi không hiểu điều gì đang diễn ra. Ông ta thả tay Kitty ra và nói chuyện gay gắt với Arc.

Lulu giật tay Dolly. “Mẹ” - con bé rít lên - “bảo cô ấy thôi đi!”

Giọng của con gái khiến Dolly giật mình thoát ra trạng thái tê liệt tạm thời. “Thôi ngay đi, Kitty” - cô nói.

“Ông có ăn thịt họ không?” - Kitty hỏi đại tướng. - “Hay ông bỏ họ đó cho kền kền rỉa?”

“Im đi, Kitty” - Dolly nói to hơn. - “Đừng bày trò nữa.”

Đại tướng dằn giọng với Arc, và Arc quay sang Dolly.

Vầng trán mịn của anh ta đổ mồ hôi lấm tấm.

“Đại tướng đang tức giận, cô Peale” - anh ta nói. Và đó là mật hiệu; Dolly đọc ra ngay. Cô bước tới nắm cánh tay rám nắng của Kitty. Cô ghé sát mặt Kitty.

“Nếu cô không giữ cho mọi chuyện ổn thỏa thì tất cả chúng ta sẽ chết đấy” - Dolly nói khẽ.

Nhưng chỉ liếc vào đôi mắt sôi sục ý đồ tự hủy hoại của Kitty thì Dolly biết ngay điều đó là vô vọng. Kitty không dừng lại được. “Ồ!” - Kitty nói to với giọng mỉa mai kinh ngạc. - “Tôi không nên gợi ra chuyện diệt chủng sao?”

Đây là một từ mà đại tướng biết. Ông ta quay phắt khỏi Kitty như thể cô đang bốc cháy, rồi ra lệnh cho đám lính với giọng nghẹt thở. Chúng xô Dolly ra khiến cô ngã xuống đất. Khi cô quay lại nhìn Kitty thì đám lính đã bủa vây xung quanh, che khuất cả cô nữ diễn viên. Lulu đang gào thét, cố kéo Dolly đứng lên. “Mẹ, làm gì đó đi, làm gì đi! Bảo họ dừng lại đi!”

“Arc” - Dolly gọi, nhưng giờ Arc đã rời bỏ cô. Anh ta trở lại vị trí của mình bên cạnh đại tướng, kẻ đang gào thét giận dữ. Đám lính đang bưng Kitty đi; Dolly có cảm giác cô gái đang đá đạp giữa bọn chúng. Cô vẫn còn nghe được tiếng Kitty réo rắt vói lại:

“Ông có uống máu họ không, hay chỉ dùng để rửa sàn nhà?”

“Ông có đeo vòng cổ gắn răng của họ không?”

Có một tiếng đấm, rồi một tiếng hét. Dolly nhảy chồm tới. Nhưng Kitty đã biến mất; bọn lính đã bưng cô vào trong một công trình ẩn trong rừng cây bên cạnh bãi đáp trực thăng. Đại tướng và Arc theo họ vào trong rồi đóng cửa lại. Khu rừng im lặng đến lạ lùng: chỉ còn tiếng vẹt kêu và tiếng Lulu khóc nức nở.

Trong khi đại tướng giận dữ, Arc đã khẽ ra lệnh cho hai tên lính, và ngay khi đại tướng khuất tầm mắt, bọn họ xua Dolly và Lulu xuống đồi, đi qua cánh rừng và trở lại chỗ đậu xe. Mấy tay tài xế đang đứng chờ, hút thuốc. Suốt hành trình, Lulu nằm ngả đầu trên lòng Dolly, khóc thổn thức trong khi xe lao vun vút băng rừng già rồi sa mạc. Dolly xoa mái tóc mềm của con gái, đờ đẫn thầm nghĩ liệu họ có bị bỏ tù không. Nhưng cuối cùng khi mặt trời lặn về phía chân trời, họ có mặt ở sân bay. Máy bay của đại tướng đang chờ. Tới lúc này, Lulu đã ngồi thẳng dậy và chuyển sang ghế khác.

Lulu ngủ mệt nhọc suốt chuyến bay, ôm chặt cái cặp sách Kate Spade. Dolly không ngủ. Cô nhìn trân trân thẳng vào cái ghế trống phía trước vốn của Kitty.

Khi trời còn mờ đất, họ đón taxi từ sân bay Kennedy về Hell’s Kitchen. Hai người không ai nói gì. Dolly ngạc nhiên khi thấy tòa nhà của họ còn nguyên vẹn, căn hộ của họ vẫn ở tầng trên cùng, chía khóa vẫn ở trong ví.

Lulu đi thẳng vào phòng nó và đóng cửa lại. Dolly ngồi trong phòng làm việc, đờ đẫn vì thiếu ngủ, cố gắng sắp xếp các ý nghĩ của mình. Cô có nên bắt đầu với đại sứ quán? Quốc hội? Phải mất bao lâu để có thể kết nối điện thoại với một người giúp đỡ được cô? Và chính xác điều cô muốn nói là gì?

Lulu ra khỏi phòng, mặc đồng phục, tóc chải gọn.

Dolly thậm chí không để ý thấy trời đã sáng. Lulu nheo mắt nhìn mẹ nó, vẫn mặc nguyên quần áo hôm qua, rồi nói: “Đến giờ đi rồi.”

“Con đi học à?”

“Tất nhiên là con đi học. Con có thể làm gì khác được nữa?”

Họ đi tàu điện ngầm. Sự im lặng giữa họ đã trở nên bất khả xâm phạm; Dolly sợ nó sẽ không bao giờ kết thúc. Nhìn gương mặt gầy guộc xanh xao của Lulu, cô trào lên cảm giác lạnh toát trước nhận thức: nếu Kitty Jackson chết, con gái cô sẽ xa lánh cô.

Tới góc đường, Lulu quay người đi mà không chào tạm biệt.

Chủ các cửa hiệu đang nâng các tấm cửa sắt trên Lexington Avenue. Dolly mua một cốc cà phê và uống. Cô muốn gần Lulu. Cô quyết định chờ ở góc đường cho tới khi ngày học của con gái kết thúc: năm tiếng rưỡi nữa. Trong khi đó, cô sẽ gọi điện thoại. Nhưng Dolly xao nhãng trước ý nghĩ về Kitty trong bộ đầm xanh, những vết bỏng dầu loang lổ trên cánh tay, rồi cả niềm kiêu hãnh ngu xuẩn của bản thân Dolly nữa, nghĩ rằng mình đã thuần phục được tên đại tướng đó và làm cho thế giới trở nên tốt đẹp hơn.

Chiếc điện thoại vô tích sự trên tay cô. Những kiểu cuộc gọi đó cô không biết làm sao để thực hiện.

Khi cánh cửa phía sau cô rùng rình kéo lên, Dolly nhận ra đó là một hiệu in ảnh. Chiếc camera ẩn vẫn đang ở trong ví cô. Đó là một việc để làm; cô bước vào, đưa nó ra, và yêu cầu in ảnh và sao một CD tất cả những gì họ có thể tải xuống.

Một giờ sau, khi cô vẫn đang đứng bên ngoài cửa hiệu thì một anh chàng đưa ảnh ra cho cô. Tới lúc đó, cô đã gọi mấy cuộc về chuyện của Kitty, nhưng dường như không ai xem trọng lời cô. Ai có thể trách họ cơ chứ? Dolly nghĩ.

“Những bức ảnh này... chị đã dùng Photoshop, hay gì đó à?” - Anh chàng kia hỏi. - “Chúng có vẻ như hoàn toàn thật.”

“Chúng thật đấy” - cô nói. - “Chính tôi đã chụp.”

Anh chàng cười to. “Thôi nào” - anh ta nói, và Dolly chợt thấy một cơn run rẩy sâu trong não cô. Giống như Lulu đã nói sáng nay: Mình còn có thể làm gì khác được nữa?

Cô vội vã trở về nhà và gọi điện cho những người quen cũ ở Enquirer và Star, số ít người vẫn còn trụ ở đó. Hé lộ đôi điều về thông tin ấy. Điều này trước đây vốn hiệu quả với Dolly.

Mấy phút sau, cô email ảnh. Trong vòng mấy giờ đồng hồ, ảnh của Tướng B. âu yếm Kitty Jackson đã được đăng tải và giao dịch trên internet. Tới chiều tà, phóng viên của các báo lớn trên khắp thế giới bắt đầu gọi điện. Họ gọi cho cả đại tướng, tay phụ trách quan hệ công chúng của ông ta dứt khoát phủ nhận tin đồn này.

Tối đó, trong khi Lulu làm bài tập về nhà, Dolly ăn mì mè lạnh và bắt đầu tìm kiếm Arc. Phải thử mười bốn lần mới được.

“Chúng ta không thể nói chuyện nữa, cô Peale” - anh ta nói.

“Arc.”

“Chúng ta không thể nói chuyện. Đại tướng rất giận dữ.”<