- 2 -
Đâu đó có tiếng gà gáy, Vân mừng rỡ reo lên:
- Có nhà rồi, có người rồi!
Bầu trời đêm đầy sao, không gian mênh mông vắng lặng nổi bật lên tiếng gà gáy. Vừa đi tôi vừa đưa tay gãi gãi trên lưng bò:
- Giá mày đừng đau cho tụi tao cưỡi thì hay biết mấy!
Như hiểu được, con bò đi chậm lại quay đầu sang bên tụi tôi: - “Ụm… bo… bò!” Tôi xoa lên má nó:
- Đùa đấy! Chân mày đau thế kia cưỡi làm sao được! Mà cũng gần gặp được xóm làng rồi!
Tiếng gà gáy nghe đâu gần lắm thế mà cả ba đi mỏi nhừ cả chân, ướt đẫm cả áo, trông mờ cả mắt mà vẫn hun hút bóng đêm. Vân lo lắng:
- Con bò dẫn mình đi lạc rồi!
- Mẹ hay nói “lạc ngõ nắm đuôi trâu”
- Nhưng đây là con… bò!
- Bò cũng như trâu mà.
Nền trời bắt đầu rựng hồng đằng đông. Những bóng cây, lùm bụi dần dần rõ nét. Hai đứa mệt muốn đứt hơi, định ngồi nghỉ một lát thì từ xa có tiếng người nói lao xao. Chừng năm người đang đi trên đường mòn tiến về hướng chúng tôi, thấy bọn tôi họ reo lên:
- Nó đây rồi! Nó đây rồi!
Họ chạy lại với gậy gộc trong tay nhưng không có vẻ gì dữ tợn, nguy hiểm cả. Thậm chí, một người trạc chừng năm mươi tuổi cười ha hả:
- Tôi biết thế nào cũng gặp được con Ve mà!
Té ra những người này đi tìm bò. Biết bọn tôi bị lạc nên khuyên hai đứa tạm về nhà họ ở rồi lần hồi dò tìm gia đình. Người trạc năm mươi tuổi là bác Hiền chủ con bò, nói: - “Tụi con còn nhỏ thế này mà đi tìm mẹ sao được. May mà không chết đói, chết khát dọc đường. Về nhà bác ở rồi bác tìm dùm cho!”. Những ngày đói khát vừa qua, những kinh hoàng trong đêm tối đã làm chúng tôi không còn lựa chọn nào khác. Vậy là bọn tôi cùng về nhà bác Hiền.
Được nghỉ ngơi và ăn uống đầy đủ nên hai đứa phục hồi nhanh chóng. Bọn trẻ con chúng tôi chẳng bao giờ ngồi yên được, nhưng lại không biết làm gì, nhất là đứa nào cũng nhớ nhà, nhớ mẹ. Vân thường ra sau chái hè ngồi khóc, tôi cũng chẳng hơn gì. Cứ nhớ ba mẹ, nhớ anh nhớ chị là hai mắt lại nóng ran. Cả ngày bác Hiền gái đi dò tìm, hỏi thăm những người tản cư. Ngày lại ngày qua ngồi chờ đợi, hy vong… Buồn quá tôi xin bác Hiền cho tôi được đi giữ bò, bác gái an ủi, bác trai đắn đo mãi cuối cùng đồng ý để tôi giữ đàn bò. Bác nói:
- Con nói vậy cũng được, có việc làm cho khuây khỏa.
Đàn bò của bác gần hai chục con, có cả con Ve nữa. Ve là con bò sập bẫy được bọn tôi cứu. Chân nó giờ đã lành, tuy còn đi cà thọt! Tảng sáng hôm sau tôi lùa đàn bò ra những bãi bồi giữa sông, Vân đòi theo tôi cùng giữ bò. Bác Hiền đành gói thêm cơm cho hai đứa ăn trưa.
Vào mùa khô sông không nhiều nước. Những bãi bồi xanh mướt cỏ non, lau sậy và lùm bùm cây dại. Đàn bò quen đường cứ đi đủng đa đủng đỉnh. Hai đứa không dám theo đường của chúng vì phải bơi qua những dòng nước sâu xanh thẫm, đành chạy lúp xúp tìm lối cạn để ra bãi bồi giữa sông. Giữ bò ở vùng trung du thật sướng, chẳng phải sợ ăn lúa, phá rau củ. Thả ra gò đồi vào mùa mưa, hoặc bãi bồi giữa sông khi cạn nước. Rảnh ran không gì bằng đi giữ bò, nhưng nếu giữ bò mà chỉ có một mình thì buồn vô hạn. May mà có nhỏ Vân theo chứ không chắc buồn đến khóc mất. Cái chòi trên bãi bác Hiền che để tránh nắng mưa giờ trông sụp xệ giống như đống rác. Bọn tôi sẽ phá bỏ, dọn sạch dựng lại một ngôi nhà be bé theo cách của tôi và Vân. Nghĩ thế nên cả hai bắt tay vào việc ngay. Tôi bẻ cành, nhổ cây dựng lại còn Vân lấy những bông lau kết lại từng tấm nhỏ để lợp mái. Đến quá trưa căn lều của bọn tôi mới tạm xong, Vân tìm những bụi hoa dại đem trồng trước lều. Nó ngắt những bông hoa mắc cở màu hồng nhạt cắm trên tóc, tôi buột miệng:
- Đẹp quá, Vân giống cô dâu quá!
Nhỏ Vân ngúng nguẫy:
- Thèm!
- À, mình chơi trò cô dâu chú rể đi.
- Vô duyên!
Tôi ngơ ngác:
- Hồi ở nhà bọn mình vẫn thường chơi, sao giờ “chảnh” thế?
Vân đưa chân di dí xuống đất mặt đỏ lựng, quay người nhìn xuống mé nước:
- Hồi đó khác, giờ khác!
-???
- Hồi đó có bọn thằng Ngọng, thằng Khôi, Đức lì làm hai họ, khách khứa, giờ chỉ có “tui” với “ông” thì làm cái gì? Rõ vô duyên!
Quả thật tôi chẳng hiểu, đúng là con gái. Hai đứa đứng ngắm căn lều vừa được làm xong rồi cùng rủ nhau nhảy “ùm” xuống tắm sông.
Cuộc sống đều đặng quá cũng đâm chán, chẳng có gì để chơi. Ban ngày thì thế, còn về đêm lại nhớ nhà. Mẹ tôi không biết giờ ra sao. Chắc mẹ khóc hết nước mắt khi chạy về nhà tìm đứa con trong đống đổ nát, tan hoang. Ngày còn ở nhà tôi thấy có bà mẹ, giống như mẹ tôi – hớt hãi, cuống cuồng chạy tìm con. Tay mẹ bới tung những tro than, những đất, những gạch đổ tìm con mình. Rồi người mẹ ấy đã hóa điên, đi lang thang ngoài đường bất kể ngày đêm. “Má ơi! Giờ má ở đâu?” Và tôi lịm dần vào giấc ngủ.
Sáng nào cũng vậy, bác Hiền gái dậy thật sớm mấu cơm xong đùm cho hai đứa tôi một bọc cơm được cột chặt trong lá chuối non. Thức ăn là ít muối é, đôi khi dăm lát thịt kho mặn hoặc vài con cá, nhúm tép rang. Sáng nay được thêm cái đùi gà (con gà đêm qua bị chồn bắt hụt). Vân cho tất cả vào trong tấm vải, cột chặt mang trên vai. Tôi vào dưới phản moi ra mấy củ mì, lấy lạt xâu lại đem theo để nướng ăn. Con Ve đã thật sự khỏe mạnh, nó luôn tỏ ra thân thiện với hai đứa tôi. Tôi định nhường con Ve cho nhỏ Vân cỡi nhưng nó lo ngồi một mình trên lưng bò vì sợ ngã. Thế là hai đứa cùng cỡi con Ve. Nó là con bò khỏe nhất đàn nên bọn tôi chẳng nhằm nhè gì khi ngồi trên lưng nó. Con Ve có vẻ hài lòng lắm, nó đi phăng phăng.
Một đống lửa được nhen lên phía sau lều gần mép nước. Vân đi lượm cây khô bỏ thêm vào, tôi gác mấy củ mì lên đống lửa rồi xuống vũng nước cạn, nhỏ chừng bằng cái sân mò ốc. Tôm tép búng “lách chách”, tôi mò được vài con “chụp chụp” to bằng nửa bàn tay quăng lên bờ. Nhỏ Vân lấy cái nón cời lội ra bắt tôm. Hai đứa bắt cũng được kha khá tôm với “chụp chụp”. Tôi bẻ cây que xiên vào đầu tôm rồi hơ lên ngọn lửa, bọn chúng búng “rật rật”, tàn lửa bay tứ tán trông thật vui mắt, hai đứa chia nhau ăn ngon lành. Thịt tôm nướng nhẹ trên lửa thơm ngọt, mấy chú “chụp chụp” gặp lửa hả miệng toang hoát, mùi cháy của vỏ xèo xèo, nồng nồng Vân hít hà:
- Thơm quá!
- Ăn thêm mấy củ mì là no nức niềng…
Bọn tôi đang ngồi ăn thì bên bờ sông có hai người đang lội ra. Người đi đầu tôi nhận ra ngay là bác Hiền trai, còn người thứ hai chưa nhận được là ai. Chợt Vân bỏ khúc mì đang cầm trên tay reo lên:
- Cậu, cậu Hà em ơi!
Chưa dứt câu nó chạy ào, nước văng tung tóe, tôi rượt theo. Hai đứa chạy như bay bất kể đất trời. Vân lao vào cậu, tôi cũng lao theo, cậu ôm hai đứa nhấc bổng lên cười ha hả. Lẽ ra gặp người thân trong hoàn cảnh này bọn tôi cũng cười như cậu, nhưng hai đứa lại khóc ngon lành, khóc như chưa hề được khóc. Những giọt nước mắt tủi thân, buồn nhớ, u uất bấy lâu giờ được dịp tuôn ra. Cậu hôn vào má hai đứa, cậu cười nhưng hai mắt đỏ hoe. Bác Hiền đứng yên, đưa tay dụi dụi mắt, nói:
- Thôi, ba cậu cháu về nhà trước đi, bác ra cho bò về sau.
Hai đứa chạy tung tăng phía trước, men theo dòng nước trong xanh, băng ngang bãi bồi như đôi chim non vừa rời tổ đang chập chờn bay. Tìm được cậu cũng có nghĩa là bọn tôi lại chia tay nơi này, nơi thời gian chưa đủ dài để chứa nhiều kỷ niệm, nhưng lại thật sâu đậm trong chúng tôi những con người tốt bụng như gia đình bác Hiền, như con Ve mà tôi xem như người bạn.
Sự việc mà bọn tôi mong chờ nhất là được nghe cậu Hòa (cậu của Vân) kể về những gì xãy ra với mẹ và chị tôi. Cậu kéo tôi và Vân lại gần:
- Hôm xãy ra chiến sự ở Hòa Bình, mọi người chạy hoảng loạn, chị Hai theo một nhóm chạy lên hướng Phú túc, Phú Bổn. Dì Liên định trở về tìm Vân nhưng hai bên đánh nhau dữ quá đành chạy sang nhà ngoại. Sau đó chiến sự tạm yên, dì với cậu Hòa về Phú Thứ tìm Vân. Làng xóm cháy tan hoang, dì cũng gặp mẹ tôi, cả hai bà mẹ tất tả đi hết làng trên xóm dưới, gặp ai cũng hỏi thăm thằng Hà em với nhỏ Vân. Suốt mấy ngày liền hai bà mẹ như điên như dại, khóc hết nước mắt. Sau gặp bà Ký xóm chợ nói thấy bọn nhỏ dắt nhau chạy tìm mẹ trong đạn bom, dưới trời mưa tầm tã không biết sống chết ra sao. Cùng lúc này, mẹ được tin anh Hà đang ở dưới Tuy Hòa. Thế là hai bà mẹ bàn với nhau: “dì Liên với cậu Hòa đi lên hướng trên tìm bọn tôi, còn mẹ xuống Thị xã tìm anh Hà”. Vân hỏi:
- Cậu ơi! Mẹ con đâu?
- Rồi sẽ gặp mẹ, con ạ!
Cậu Hòa quay sang tôi:
- À! Hơn nửa tháng trước cậu có gặp anh Sơn của con.
Tôi rú lên mừng rỡ:
- Anh Sơn... anh Sơn...! Trời ơi, cậu gặp anh Sơn con ở đâu?
- Cậu có gặp… nhưng…
Như linh cảm có điều gì đó, tôi hỏi dồn dập:
- Nhưng… nhưng sao? Cậu nói đi!
- Đánh nhau mấy ngày đêm, sau lính Cộng hòa tăng cường quân, Cách mạng rút lui. Có một anh Bộ đội bị thương ở bụng được bà con đem về cứu chữa, nhưng vết thương nặng lắm toác cả bụng, ruột cứ xì ra, bà con lấy vải mùng rịt chặt lại. Bọn địch săn lùng dữ quá, mà ở đây lại chẳng có thuốc men gì, cuối cùng theo nguyện vọng của anh Bộ đội là đưa dùm anh qua sông để tìm về trạm xá đơn vị. Hôm đó cậu đi ngang qua, biết chuyện vào thăm anh Bộ đội. Anh ngồi trên giường mặt mày xanh méc, chắc là mất nhiều máu lắm, nhìn thấy ngờ ngợ, quen quen. Hỏi ra mới biết là chú Sơn, gặp đôi lần ở Phú Thứ. Cậu tình nguyện đưa chú Sơn về trạm xá của đơn vị. Dưới đất, từng tốp lính đang lùng sục, trên trời bọn chuồn chuồn (trực thăng) bay “phạch phạch”. Khúc sông này sâu, cậu tìm đoạn hẹp và kín lấy ghe chở chú qua sông. Qua được già nữa sông, chiếc “chuồn chuồn” bỗng đâu sà xuống: “cảo… xèo… cảo… xèo”. Bọn chúng phóng rốc két, cả hai nhảy “ùm” xuống nước. Cậu bị thương ở chân tê buốt cả người, nhưng cố ngụp lặn vô được bờ, nhìn lại chẳng thấy chú Sơn đâu. Chiếc ghe dập dềnh trôi xuôi dòng. Con “chuồn chuồn” còn chưa muốn đi, nó quay lại: “cảo… xèo”! Chiếc ghe chìm luôn xuống sông. Vậy là chú Sơn đã hy sinh! Tối đến và những ngày sau bà con ra mò tìm xác nhưng không thấy, thật đau lòng!
Tôi thẩn thờ. “Em chờ gặp anh hoài mà giờ lại nghe được tin này, anh chết thật rồi sao? Sao lại bỏ nhà mình, bỏ em mà đi nhanh thế anh Sơn! Không, anh không thể chết được! Hồi trước bọn chúng bắn thẳng vào người anh ở ga Gò Mầm mà chưa nhằm nhè gì. Quyết là anh không thể chết được, không thể chết được. Tôi tin thế!
Ăn trưa xong cậu Hòa định xin phép bác Hiền được đưa hai đứa về nhà. Vân tíu tít như con chim non. Riêng tôi, dù biết được tin mẹ, chị Hai, anh Hà không sao, niềm vui cũng đã rất lớn nhưng lòng tôi lại quá đau đớn, ngực như có gì chặn lại, khó thở. Tôi hỏi cậu Hòa:
- Cậu ơi! Cậu có biết đơn vị của anh con ở đâu không?
- Cậu không biết, ở đâu quãng… Nhưng!
- Con muốn đi tìm anh con!
Cậu Hòa an ủi:
- Bị thương như vậy nếu không trúng đạn, anh con cũng khó bơi được. Ruột thế kia...
Cậu Hòa buột miệng lỡ lời chưa kịp dừng, tôi òa khóc:
- Anh con không chết! Anh con về đơn vị rồi! Cậu cho con đi tìm anh con…
Trên đường lác đác vài người tản cư quang gánh, bồng bế trở về lại nhà. Nghe chuyện họ góp lời:
- Tội nghiệp cậu nhỏ. Thất lạc cha mẹ, anh lại thế…
Một bà thiếm vác bao tời trên vai đến bên tôi:
- À! Cách đây non nửa ngày đường có trạm xá, cậu nhỏ thử tới đó hỏi thăm xem, biết đâu Trời Phật phò hộ may ra…
Bác Hiền ôm tôi vào lòng:
- Để bác hỏi thăm đã, một mình con không đi được đâu!
Cậu Hòa cầm tay tôi ôn tồn:
- Hai đứa về nhà cậu, rồi để ngớt ngớt bom đạn cậu dẫn đi tìm anh.
Tôi nhớ anh quá! Tôi phải đi tìm để tin là anh không thể chết dưới sông. Mà anh không thể chết dưới sông như những người chết trôi trên mương dẫn thủy dạo nào được. Anh bơi cừ lắm kia mà! Nhằm nhè gì con sông này, sá gì một đoạn sông nhép mà anh không qua được. Chỉ một “cú” lặn thôi anh nhỉ! Còn bụng bị thương, ruột lòi ra chắc anh đau lắm, rát lắm! Nhức nữa phải không anh? Cứ suy nghĩ miên man như vậy tôi lại càng quyết tâm đi tìm anh. Biết không can ngăn được, bác Hiền đành nói:
- Thôi! Nếu con đã nói như vậy thì ở đây với bác, mai hai bác cháu ta cùng đi.
Cậu Hòa xoa đầu tôi:
- Con thật ngoan. Rất dũng khí, có bác Hiền đi là cậu yên tâm.
Vân đến bên cầm tay tôi, đôi mắt đỏ hoe:
- Vân thương anh Sơn nhưng lại không muốn xa Hà em, hay là cho Vân đi với. Tụi mình cùng đi!
Bác Hiền đưa tay béo vào đôi má bầu bầu của Vân:
- Không sao đâu con. Hà em đi vài ngày, gặp anh rồi về với con mà.
- Hà em không muốn xa Vân nhưng mình phải đi tìm anh.
-Vân cũng không muốn xa Hà em.
-Gặp anh, gặp ba rồi mình sẽ về.
Chiều hôm đó tôi chia tay Vân.