- 3 - TÌM CHA
Thế là Vân trở về với gia đình, cuộc sum họp thật trọn vẹn. Còn tôi, dẫu rằng biết được tin tức từng người trong nhà, nhưng nỗi lo lắng, sợ hãi cứ dồn nén trong lồng ngực của đứa trẻ lên tám như tôi. Không biết mẹ tìm được anh Hà chưa? Nơi phố phường người đông như nêm cối, lạc lõng biết đâu mà lần. Còn chị Hai thân gái trơ trọi giữa rừng núi mênh mông, nơi xứ lạ người xa. Rồi anh Sơn nữa, với vết thương ấy liệu anh có bơi được vào bờ, có vượt qua được nỗi đau đớn, vượt qua được đạn bom, qua được dòng sông đang cuộn chảy? Anh có kịp về trạm xá, có gặp được ai giúp đỡ hay lủi thủi một thân một mình với vết thương xì ruột bên hông, hay anh đã…? Tôi không dám nghĩ tiếp. Từng suy nghĩ vỡ vụn, mông lung, Những lo lắng cứ nhảy múa, cứ chập chờn khiến tôi không sao ngủ được.
Gà gáy bận hai, phía chân trời ửng hồng. Bác Hiền gái đã chuẩn bị xong cơm nước cho hai bác cháu mang theo đi đường ăn. Tôi mang bọc cơm trên vai bước nhanh ra cổng. Chẳng có sự chia tay nào vui cả, hôm qua là nhỏ Vân, sáng nay chia tay với bác gái, với ngôi nhà. Nơi đã cưu mang tôi trong những ngày lưu lạc. Tôi từ giã con Ve, từ giã dòng sông, hai bác cháu vượt qua bờ bên của con sông rộng đi về phía trước – nơi đó có anh Sơn của tôi.
Trời vừa đứng bóng, tôi và bác Hiền tìm được trạm xá. Trạm là ngôi nhà tranh chỉ có mái lợp, còn bốn bên trống hươ. Những chiếc võng giăng qua mấy hàng cột, giăng tràn ra các gốc cây bên ngoài. Tôi bồi hồi, háo hức được gặp anh, sẽ kể anh nghe về chuyện con bò Ve sút làm hai đứa chết khiếp, chuyện mẹ xuống Thị xã tìm anh Hà, chuyện chị Hai chạy lên Củng Sơn, cả chuyện mẹ con bác Trong cháy đen thui khi đang cõng mẹ chạy múp bom. Tôi rón rén đến từng chiếc võng. Ngạc nhiên đến bất ngờ anh Sơn nhá! Bàn tay nhỏ tí, đen thui run run hé từng mép võng. Một chiếc võng, hai chiếc, ba chiếc… Mặt tôi nóng ran, tim đập thình thịch sau mỗi lần luồn qua từng cánh võng. Những chú Bộ đội, những người dân bị thương mặt mày xanh xám đang nằm thim thiếp ngủ. Chiếc võng cuối cùng cũng không có anh. Tôi như khụy hẳn xuống. Tôi mong gặp anh biết bao, anh Sơn ơi! Anh không có ở đây vậy là anh đang ở đâu, hay đã nằm lại dưới dòng sông rồi sao? Cô trưởng trạm bảo: “Mé dưới có một trạm”, thế là hai bác cháu lại đi… Cứ thế. Đến ngày thứ ba, những tia hy vọng cứ leo lét, tắt dần trong tôi. Bác Hiền khuyên nên quay về. Tôi chưa biết phải làm sao thì từ xa một tốp người đang đi lên, mấy chú Bộ đội và hai người lớn trạc bằng bác Hiền. Năm người cả thảy. Tôi chăm chú nhìn bỗng nhảy cẫng sung sướng:
- Anh Thiệu! Anh Thiệu…!
Chú Bộ đội đi giữa chậm lại nhìn tôi nhíu mày, chợt khuôn mặt anh dãn ra:
- Ôi, Hà em! Sao lại ở đây, thế cả nhà đâu?
Tôi vừa lon ton chạy theo vừa nói:
- Em đi tìm anh Sơn!
Bác Hiền đi theo kể vắng tắt những gì xảy ra với tôi cho anh Thiệu nghe. Bác nói:
- Hiện cháu chỉ có một mình, mà tôi chẳng biết phải làm sao!
Anh Thiệu xoa đầu tôi:
- Anh ở cùng chỗ với ba em. Gia đình lên cả trên này rồi, cứ tạm về đó đã rồi tính.
Bác Hiền lấy từ trong cạp quần mấy tờ giấy bạc được xếp phẳng phiu dúi vào tay tôi, bác nói:
- Con cất đi, thích ăn gì thì mua. Gặp được chú Thiệu ở đây bác mừng lắm! Giờ thì chúc hai anh em đi mạnh giỏi. Bác về.
Tôi đứng lặng nhìn bác không nói được một câu. Bàn tay cầm mấy tờ giấy tiền còn đang ấm hơi người. Tôi cố ngoẻn miệng cười chào bác nhưng cứ méo xệch.
Đoàn người tiếp tục lên đường. Anh Thiệu kể rằng: “Trước khi anh Sơn tham gia trận đánh, hai anh có gặp nhau, sau đơn vị rút về anh được tin anh Sơn mất tích...”. Tôi kể tiếp chuyện anh bị thương như thế nào, người dân đùm bọc ra sao, rồi vết thương trầm trọng, rồi bọn lính truy lùng ráo riết, rồi cậu Hòa chở qua sông bị máy bay bắn chìm ghe giữa dòng… Anh hứa sẽ tìm anh Sơn cho tôi.
Trong đoàn còn có một chú Bộ đội cở tuổi ba Vân. Tôi thấy quen quen nhưng chú ấy có vẻ nghiêm nên không dám hỏi. Anh Thiệu bảo đó là chú Nam, cán bộ tỉnh đội, đã từng nhiều lần về Phú Thứ. Đi như vậy hơn hai ngày, chúng tôi đến một khu rừng thưa, anh Thiệu nói với tôi gia đình anh đang ở đây, và mọi người dừng lại đây năm hôm. Tôi nhìn quanh chẳng thấy nhà cửa, làng xóm, chẳng thấy bóng dáng gì là có người cả. Thấy tôi đứng ngẩn người, anh cười: - “Không chỉ gia đình anh thôi đâu, ở đây có cả một làng đấy em ạ. Họ sống dưới này nè!” Anh đưa gót chân day day lên mặt đất. Tôi tưởng anh đùa nên định nói một câu gì đó thì bất chợt phía trước cách khoảng vài chục bước chân có hai người… từ dưới đất hiện lên. Rồi bốn chú Bộ đội đi về hướng đó và biến mất! Tôi ngạc nhiên quá sức, anh Thiệu cầm tay tôi vừa đi vừa nói:
- Dưới này là một căn hầm lớn. Có lẽ được xây từ thời Pháp thuộc. Dân làng xuống sống hẳn dưới này để tránh đạn bom.
Hai anh em đến gần một miệng hầm được xây bằng xi măng, có hai thanh cây đóng thành thang leo xuống, thấy tôi đứng ngập ngừng trên miệng hầm, anh vịn thanh gỗ trèo xuống, nói:
- Em cứ xuống đi, không sao đâu!
Nghe lời anh, tôi đu người trèo xuống. Hầm được xây bằng đá, rêu bám xanh rì. Nền cũng được lát bằng đá nhưng nhiều chỗ đã long tróc, rễ cây len lỏi loằng ngoằng trên vách hầm. Nước trên trần từng giọt lóc chóc rơi xuống người lạnh ngắt. Tôi lò dò từng bước trong ánh sáng lờ nhờ của miệng hầm, của các lỗ thông gió. Đường hầm chính rộng chừng bốn sải chân, dài hun hút. Người ta chặt cây rừng đóng lại như những cái sạp bán hàng ngoài chợ, nhưng lớn hơn nhiều cả gia đình ở trên đó. Phía trên treo một tấm vải đi mưa để ngăn nước từ trần rơi xuống. Ở đây chủ yếu là trẻ con và người già. Từ đường hầm chính, những đường phụ nhỏ hơn tỏa ra chi chít, tối om om tôi không dám vào. Anh Thiệu đến một chiếc sạp trống trơn dừng lại. Ở sạp bên cạnh có người nằm trùm mền, anh đưa tay kéo nhẹ tấm chăn, một bà lão ốm nhom như con tép rang, da nhăn như trái ư khô, hé mắt nhìn hai người. Anh Thiệu hỏi:
- Bà ơi! Mẹ với em con ở bên này đi đâu rồi?
Bà lão gượng ngồi dậy, hắng giọng nói:
- À! Con mẹ Ty hả? Hai mẹ con nó đi từ sáng…
Anh Thiệu cám ơn bà, sang ngồi trên sạp kế bên. Kéo tôi sang, anh nói:
- Đây, gia đình anh ở đây! Chắc thằng Ngọng theo mẹ lên rẫy đào mỳ rồi. Em cứ nằm nghỉ cho khỏe, anh đi tối sẽ ghé lại.
Tôi định ngủ một giấc để bù lại những ngày dài đi đường mệt nhọc. Nằm nhìn những giọt nước rơi xuống tấm áo mưa, chạy dài qua góc rơi “tróc tróc” xuống nền hầm xâm xấp nước. Hơi lạnh từ vách hầm toát ra, tôi kéo tấm chăn định đắp lên người thì từ trong ngách nhỏ căn hầm có người đi ra. Ánh sáng lờ mờ nhưng tôi cũng nhận ra chú Nam tỉnh đội. Trong suốt hai ngày đi đường, dù tôi không dám nói chuyện nhưng chú Nam cũng không có vẻ gì “ghê ghê” như tôi nghĩ. Hơn nữa, giờ đây tôi đã gặp gia đình anh Thiệu, lại sắp gặp thằng Ngọng, tôi trở nên dạn dĩ. Tôi gật đầu chào chú:
- Con chào chú! Chú cũng có gia đình ở đây à?
Chú Bộ đội ngạc nhiên dừng lại, chợt nhận ra tôi, chú đến bên mép sạp mỉm cười:
- À, cậu em! Chú chỉ ghé lại thôi, gia đình chú không có ở đây!
Thấy chú có vẻ thân thiện, tôi bạo dạn:
- Con trông chú có vẻ quen quen!
- Con ở đâu mà trông chú quen quen?
- Dạ con ở Phú Thứ!
- À, ra thế! Chú thỉnh thoảng có về đó công tác. Giờ chú phải đi đây, chú em!
Nói rồi chú đi thẳng ra cửa hầm, tôi ngã dài xuống sạp nhưng không sao ngủ được, cứ suy nghĩ mông lung. Những hình ảnh cũ mới cứ đan xen vào nhau, nhảy múa, chập chờn. Mẹ tìm được anh Hà chưa? Chị Hai đang ở đâu? Rồi sung sướng thế nào khi được gặp ba, gặp anh Sơn. Anh đã khỏe để về lại đơn vị chưa nhỉ! Anh… có bị làm sao không anh? Tôi cố gạt những hình ảnh thoáng hiện lên trong đầu, tôi nghĩ về Vân, về thằng Ngọng, về những ngày tháng êm đềm đã qua. Nhớ từng trận đánh giặc giả ở Cầu trên, ở ga Gò Mầm, nhớ… Tôi nhớ “chú Bộ đội quen quen” gặp ở đâu rồi! Hồi ở Phú Thứ, đôi lần gặp chú đi cùng mấy chú xã đội du kích, có khi đi cùng chú Ngọc chủ tịch. Hồi ở ga Gò Mầm thấy chú… đi xe “rép” với lính Cộng hòa. Tôi bỗng rùng mình: - “Việt gian? Chẳng lẽ chú ấy là Việt gian sao?” Tôi nhất định phải kể chuyện này với thằng Ngọng, với anh Thiệu. Việt gian là rất nguy hiểm, mọi người đều nói thế. Trước đây, mỗi lần sinh hoạt thiếu nhi các chú cán bộ đều tuyên truyền rằng: “Phải luôn căm thù Mỹ Ngụy, tiêu diệt bọn Việt gian bán nước... “ Nằm suy nghĩ miên man rồi ngủ lúc nào không hay, khi có người lay mạnh, kéo chăn tốc lên tôi mới choàng tỉnh giấc. Thằng Ngọng đứng sát mép sạp nhe hàm răng vàng khè, nhìn tôi:
- Ô… Ôi! Hà… Hà em!
Tôi mừng không kể xiết, ngồi bật dậy, nó ốm quá, xanh mướt khiến cái đầu như to thêm ra. Hai đứa dắt tay nhau đi ra cửa hầm. Tôi kể đủ thứ chuyện không đầu không đuôi, cứ chuyện nọ xọ chuyện kia. Còn nó quanh đi quẩn lại: “lên nương trồng mỳ với lại về hầm, mà cứ cà cà đến sốt cả ruột. Tôi đem chuyện “ông đeo gương đen” đi xe “rép” Mỹ hồi gặp ở ga Gò Mầm kể cho nó nghe, nó gãi gãi cái đầu rối lùm bùm như tổ quạ nghĩ ngợi, đôi mắt Ngọng sáng hẳn lên:
- Mình… mình……!
Tôi phát cáu:
- Mình mình cái con khỉ! Cậu đừng… cà lăm có được không?
Mặt nó đỏ rựng lên:
- Mình… mình…!
Cố thúc giục đừng cà thì nó lại càng cà lăm tợn. Đành dịu giọng:
- Cậu nhớ ra rồi chứ gì?
Bỗng một bàn tay đặt lên vai tôi:
- Chào hai chú em! Bạn thân với nhau à, gặp ở đây thú vị nhỉ?
Tôi giật mình quay lại nhìn người vừa nói, chợt cả người tôi lạnh ngắt, lắp bắp:
- Chú…!
Ngọng trố mắt chăm chú nhìn người mới đến, thốt lên:
- Đúng! Đúng! Ông… ông… đeo gương… đeo gương… đen!
Ngọng nói xong chạy giật lùi ra sau lưng tôi. Khuôn mặt chú Nam như bạnh ra:
- Chú nói ai đeo gương đen? Chú em nhầm với ai đó rồi! Mà đeo gương đen có gì lạ nào?
Thằng Ngọng đứng sau lưng tôi nhọn mỏ lên:
- Ngồi… ngồi xe… xe ríp Mỹ!
Quả thật chẳng ai dại bằng thằng Ngọng. Tôi không kịp bịt miệng nó lại. Khuôn mặt chú Nam tái hẳn, chú nhìn thật nhanh xung quanh bằng đôi mắt sắc lạnh:
- Mấy chú em đừng nói dại, tôi đi đánh Mỹ mà lại ngồi xe rép Mỹ à? Ngu!
Chẳng biết chú nói bọn tôi ngu hay ai ngu nhưng linh cảm sự nguy hiểm cứ lởn vởn quanh hai đứa. Bọn tôi mong gặp anh Thiệu quá. Chú Nam có vẻ như giận lắm, chú đi nhanh ra phía mé rừng và mất hút ở đó. Thằng Ngọng khăng khăng chú ấy chính là ông đeo gương đen ngồi trên xe ríp bước ra ở ga Gò Mầm, tôi cũng tin hai người là một. Khuôn mặt với cái sẹo phía trước lỗ tai thì không lẩn vào đâu được. Càng tin thì nỗi sợ trong tôi càng lớn. Cả hai đứa quyết định trở lại sạp, chỗ ở của Ngọng và không đi đâu hết, chờ anh Thiệu về rồi hay và cũng sẽ không hé lộ bất kỳ ai chuyện này.
Căn hầm buổi trưa nhộm nhịp hẳn lên, mọi người trở về nói chuyện râm ran. Hai đứa ngồi trên sạp chặp lâu cũng thấy ngứa ngáy đôi chân, tôi rủ Ngọng:
- Cậu có dây thun không?
Thằng Ngọng nhanh nhẩu:
- Ná…ná…!
Tôi gật đầu, Ngọng đưa tay vào vách hầm kéo bật nhánh rễ sang một bên, lôi ra một bọc nhựa cười khặc khặc đầy đắc ý. Tôi thầm công nhận: “thằng này thiệt bài bản và chu đáo”. Trong bọc có ba gọng ná chữ u được bôi máu chim nham nhở, một đùm dây thun. Tôi nhanh chóng làm giàn ná thun, kéo thả đánh “phựt” một tiếng thật êm tai, tròng vô cổ rồi đứng lên:
- đi bắn chim Ngọng ơi!
Thằng Ngọng quàng ná thun vào cổ, hăm hở như thửa nào cả bọn rủ nhau đánh giặc giả. Hai đứa trèo lên miệng hầm. Một chú “Chắt quạch” đang lơ ngơ trên cành cây gần đó, tôi cúi xuống lượm hòn sạn bỏ vào bọc ná:”phựt” một tiếng khô ấm phát ra, Ngọng reo lên:
- Nghẻo… nghẻo… rồi!
Tôi hứng chí ngồi xuống tìm những hòn đá thật đẹp, tròn trịa lận vào cạp quần. Ngọng chạy đến nhặt con “chắt quạch” lấy máu quệt lên gọng ná, tôi lại cho tiếp chú chim nữa lìa cành, nhưng chỉ bị thương, nó sả cánh chao nghiêng, lượn chập chờn trên những bụi cây, hai đứa cứ thế chạy đuổi theo. Có tiếng cu đất “gù… gù” đâu đó rất gần, tôi vểnh tai lắng nghe, Ngọng sè sẹ đi bên cạnh, cả hai dán mắt lên những ngọn cây. Một con cu đất béo núc thật vô tư đang ra sức “gù… gù” trên cháng ba. Tôi đi nhẹ từng bước tiến lại sát gốc mà cu cậu vẫn không hay biết. Viên sạn trong bọc ná được kéo căng, thằng Ngọng đi phía sau định nói gì đó nghe “ú ớ”. Tiếng dẫm chân của Ngọng mạnh quá làm con cu đất hốt hoảng vỗ cánh bay mất. Tôi bực mình quay lại định sững cồ với nó, nhưng khi vừa nhìn thấy cảnh tượng trước mắt tôi chết điếng suýt đánh rơi giàn ná thun. Ông Nam không biết từ đâu xuất hiện đang siết cứng cổ thằng Ngọng. Đôi bàn tay ông ta như hai gọng kìm, nó không kêu được cứ “ặc ặc” trong cuống họng, hai chân choài đạp trên mặt đất. Qua giây phút sững sờ, tôi định la làng nhưng ở đây xa hầm quá sẽ không ai nghe thấy, mà thằng ngọng mặt nó tím tái, miệng há to, tôi đưa giàn ná thun lên nhắm thẳng vào mặt ông ta, kéo căng “phựt” ông ta rú lên buông cổ thằng Ngọng ra ôm lấy mặt. Ngọng chưa kịp hoàng hồn, tôi la lớn:
- Chạy! Chạy đi Ngọng ơi!
Thằng Ngọng có lẽ quá khiếp đảm với chuyện vừa rồi, nó líu quíu chạy được vài bước ngã nhào. Ông Nam một tay ôm mặt dính đầy máu, tay kia đưa xuống hông rút súng, tôi nhào tới kéo Ngọng chạy. Chạy được mấy bước bỗng nghe “đoàng, đoàng” cổ chân phải của tôi thấy hơi buốt một tẹo và tê tê còn Ngọng đang chạy chợt đứng khựng lại, khụy xuống nó vói theo:
- Hà… Hà em…!
Tôi chẳng còn hồn vía đâu mà đứng lại, cứ thế lao về phía trước “đoàng đoàng!” Tôi chạy bất kể đất trời, gai góc, hố hầm, không dám quay đầu lui. Chạy như vậy có lẽ lâu lắm, đến khi không còn sức nữa, người lảo đảo, rừng cây đầy những dây leo, bụi rậm tôi vấp phải rễ cây ngã sóng soài. Mệt quá! Không đủ sức ngồi dậy được. Nghĩ thầm: “Mình chết dưới tay ông ta rồi! Nó bóp cổ mình cho đến khi tái xanh tái xám, đến lúc thè dài lưỡi ra… là ngủm đời! Hoặc nó “đoàng” một phát…” Nghĩ đến đó tôi hơi rùng mình, thấy rợn cả người. Tôi hé mắt ra nhìn, chung quanh chẳng có ai cả. Tôi lồm cồm ngồi dậy, đầu gối lác một miếng tươm máu mà vẫn không thấy xi nhê gì, chỉ có cổ chân phía sau đỏ lòm máu và giờ mới thấy đau. Tôi lấy cái khăn bác Hiền đưa mà lâu nay tôi cột quanh bụng để cất tiền ra rịt cổ chân bị thương lại: “thằng Ngọng chết rồi! Nó chết bởi tên Việt gian” lỗi này cũng có phần của tôi, tội nó quá! Tôi không thể để nó nằm ngoài rừng như vậy được, không thể để trương phình lên được. Phải nói cho mẹ với anh Thiệu nó biết nhưng phải làm sao đây? Trở về lại hầm quả thật tôi không dám. Có hai đứa biết tên Nam là Việt gian, một chết rồi còn lại tôi, chắc chắn nó không tha! Mà Việt gian là bán nước, bọn chỉ điểm – ai cũng bảo thế nên tôi lo lắm! Tôi đưa tay sờ nhẹ vào vết thương đạn bắn thấy máu vẫn còn rịn ướt cả tay, bây giờ mới thấy thật sự đau, chẳng biết kiểu này có đi nổi không đây. Định vịn gốc cây đứng lên chợt nghe thoang thoảng có mùi gì khét như ai đốt nhựa cây, mùi khói của cỏ - không phải, khét nồng thơm thơm như ai đang hút thuốc! Tôi khom người thật thấp lủi nhanh vô lùm cây gần đó cảnh giác, nghe ngóng. Tiếng sột sạt của lá khô, cành cây gãy làm tôi rờn rợn. Tôi đưa tay vạch tán lá trước mặt, mở căng mắt,vểnh tai nghe ngóng. Mùi thuốc lá thoang thoảng, nhưng vẫn lặng im không một bóng người. Tôi toan bò ra núp vào gốc cây to gần đó quan sát cho rõ. Chưa kịp thực hiện ý định thì một bóng người xuất hiện cách lùm cây tôi ngồi ước chừng hơn mười bước chân. Tôi run bắn người: “Ông ta!” Đúng là ông Nam một tay cầm súng, tay kia gạt những cành cây chắn lối. Một bên mặt bê bết máu, con mắt bên trên nhầy nhụa đỏ lòm, tôi suýt reo lên: “ Nó bị đui một mắt!” Nhìn giống như ác quỉ. Tôi run quá! Đến nước này nó sẽ giết ngay nếu phát hiện ra tôi. Khẩu súng trong tay nó vung vung chỉa về phía trước, xoi mói từng gốc cây, bụi rậm. Đang đi bỗng nó dừng lại ngó quanh, tôi đâm hoảng. Phát hiện ra rồi sao? Tim tôi đập thình thịch, to quá! Có lẽ ở ngoài kia nó nghe mất thôi. Tôi dùng tay bóp chặt lấy ngực, gập người xuống bất lực nhìn nó.
Ngồi như vậy chừng như lâu lắm, tôi chờ nghe một tiếng súng. Vẫn yên lặng, chỉ có tiếng bước chân sột sạt dẫm trên lá khô. Tôi hơi quỳ xuống, cúi đầu thật thấp chồm tới phía trước để nó khó thấy hơn. Trông tên Nam có vẻ kiệt sức, bước đi loạng choạng. Nếu ná thun còn đạn, tôi sẽ nhắm thật chính xác vào con mắt còn lại của tên Việt gian. Nó mà đui cả hai mắt thì chẳng còn gì để sợ nữa. Nhưng khẩu súng đen ngòm cứ nhè vào hướng tôi ngồi núp mà ve vẫy. Tôi đảo mắt nhìn quanh tìm hòn sạn, chẳng có. Ngoài mấy cục đá bự chảng. Chợt dưới chân có cái gì đó trơn trơn, mát lạnh cứ chuồi qua quẹt lại, tôi toan rụt chân lên thì một cái đầu rắn trườn tới, dọc theo người: “Trời ơi, rắn mai gầm!” tôi điếng hồn, tê cứng cả người. Con rắn dài quá, to hơn cả cổ tay. Từng khoanh vàng mềm mại lướt như trôi qua người. Cái lưỡi thè thè ra trông đến khiếp, mùi tanh nồng phả vào mặt. Tôi không dám cử động, mà cũng không thể cử động được. Hai mắt mở thao láo, toàn thân tôi cứng đơ xanh dờn không một giọt máu. Con rắn hổ chầm chậm ra khỏi bụi đi về phía tên Nam. Tôi đưa mắt nhìn theo: “Ước gì nó “đớp” thằng đó một phát nhỉ! Tên Nam nhìn thấy con rắn định chỉa súng bắn, nhưng nghĩ sao lại cúi xuống nhặt lấy khúc cây rồi bỏ đi. Tôi nằm im thật lâu chừng như nó đi khá xa mới rón rén bò ra khỏi bụi rậm.
Tôi ra khỏi lùm cây theo đường cũ tìm về căn hầm, về lại nơi thằng Ngọng bị bắn chết. Chân bây giờ đã thấy đau rất khó đi. lúc đầu do sợ bị giết nên cắm đầu chạy quên cả đau, giờ thế này phải làm sao đây? Tôi nhặt một khúc cây làm gậy, đi chừng đã mỏi nhừ cả chân, chân bị thương thì tê buốt mà chẳng thấy căn hầm đâu, chẳng thấy thằng Ngọng nằm đâu. Càng đi, cảnh vật, cây cối càng lạ hoắc, dây leo chằng chịt: “Lạc đường rồi!” Tôi đâm hoảng, quày trở lui hay đi tiếp? Cứ đi lan man như thế không biết bao lâu gặp một cánh rừng thưa. Vừa đói vừa khát cộng với nỗi lo sợ khiến tôi kiệt sức. Định ngồi xuống thân cây ngã để nghỉ ngơi, bỗng có tiếng bước chân nghe rất gần: “Thằng Nam?” Đành bó tay, hết đường trốn rồi! Nó sẽ chỉa mũi súng vào lưng tôi: “Đoàng” Thế là xong! Như bản năng, tôi ngồi thụp xuống quay lui: “Không phải nó!” Cách chỗ tôi không xa có hai người phụ nữ kỳ lạ - một già một trẻ, không mặc áo, chỉ quấn tấm vải bên dưới, trên lưng mang một gùi củ mỳ. Chẳng biết là ai nhưng tôi mừng lắm, như có thêm sức mạnh, tôi leo qua thân cây ngã chạy theo. Hai người phía trước nhìn thấy tôi bỗng vụt chạy. Tôi ra sức đuổi, họ lại càng chạy nhanh. Do phải mang nặng trên lưng, hơn nữa, tấm vải quấn quanh bụng vướn víu khó chạy. Hai phụ nữ la lên, tiếng nói nghe lạ lắm, tôi chưa từng được nghe. Vừa chạy tôi vừa gào to:
- Đừng chạy! Đừng chạy! Con chỉ hỏi thăm đường thôi mà!
Hai người càng chạy hăng hơn. Những củ mỳ rơi tung tóe. Từ phía sau có thêm mấy người chạy tới, họ cũng mang củ mỳ trên lưng. Người đàn ông và một đứa nhỏ trạc bằng tuổi tôi. Chẳng cần biết ất giáp gì, đứa nhỏ lao vào đánh tôi túi bụi. Thấy nó hung hăng xông đến đấm đá, tôi chỉ biết ôm đầu gập người chịu trận. Thực ra tôi cũng có thể đánh lại hoặc bỏ chạy. Hoặc hơn thế, với chiếc ná thun trong tay tôi dư sức cho nó thua trận. Nhưng tôi đang đau chân với lại muốn hỏi thăm đường để về lại căn hầm. Sau một hồi đấm đá tơi bời mà không thấy tôi chống trả, nó xem ra cũng mỏi tay. Người đàn ông đi đến nhìn tôi dò xét. Hai phụ nữ thấy tôi không thể gây nguy hiểm gì cũng quay lại, họ lượm những củ mỳ quăng ngược lên lưng, rồi nhìn người đàn ông và đứa nhỏ, họ nói gì đó. Người đàn ông tiến đến gần tôi xổ ra một tràng, tôi chẳng hiểu gì, lòm còm bò dậy. Tay chân, mình mẩy đau nhừ, mắt trái bị một cú đấm sưng húp. Tôi cố đứng lên nhìn ông ta, phân bua:
- Cháu chỉ hỏi đường, cháu không phải người xấu, cháu không làm gì cả.
Người đàn ông lại gần tôi:
- Mày là người Kinh?
Chẳng biết người “Kinh” là gì nhưng tôi đoán chắc không xấu như “Việt gian” nên gật đầu bừa. Có lẽ ông ta cũng hiểu được đôi điều, ông cười cười nhìn đứa nhỏ. Nó rón rén đến gần, đưa tay sờ vào người, vào chỗ sưng húp trên mắt. Người phụ nữ lớn tuổi thấy thế đi đến bụi cây gần trước mặt bứt mấy lá gì đó bỏ vô miệng nhai, rồi tới chỗ tôi nhả nhúm lá nhai nát bém lên bàn tay, bốc lấy đắp lên nơi mí mắt sưng. Bà ta làm như vậy tôi cũng thấy được an ủi phần nào. Thằng nhỏ ngập ngừng đến bên, cầm tay tôi nói:
- Tao tưởng mày đánh mẹ…
- Mình chỉ hỏi thăm đường.
- Mày về nhà tao đi. Ăn no cái bụng đã, cái nắng cao lắm rồi.
- Nhà bạn gần đây không?
- Tao không phải “bạn”, tao là Riêng. Mày đi chừng một “khâu rựa” thôi là tới nhà tao mà!
Tôi hiểu láng nháng nhưng chẳng hỏi lại. Không biết “khâu rựa” của thằng Riêng kiểu gì mà đi muốn sái cả chân, đờ cả mắt mà làng xóm vẫn bặt tăm. Công nhận đôi chân của nó cứ thoăng thoắc, gùi củ mỳ nặng oằn trên vai nhưng nó đi trông cứ như không.
Đến chừng quá xế trưa, bóng nắng bắt đầu chạy dài chúng tôi mới về tới làng. Làng của nó chẳng giống quê tôi chút nào, lèo tèo mấy nóc nhà, mà nhà nào nhà nấy cao lêu đêu, liu xiu như sắp ngã. Người ở bên trên, phía dưới đàn heo nằm phơi bụng, lũ gà đứng trên những thanh gỗ ngang, niễng mặt nhìn chúng tôi. Mọi người móc gùi mỳ vào cháng cây, leo cầu thang lên nhà, bọn gà lao tới mổ lia lịa. Người đàn bà rút mấy củ quăng xuống cho đàn heo. Bọn heo con, heo lớn rượt nhau giành ăn kêu ụt ịt cả góc sân. Tôi theo thằng Riêng leo lên hết cầu thang, ngồi phịch xuống sàn gỗ thở dốc, nó chỉ tay về một hướng xa lắc lơ nào đó, nói:
- Mày ở dưới kia phải không? Cái chân của người dưới đó không đi được trên những trái núi đâu!
Tôi nóng mặt chống chế:
- Mình đi nhiều ngày rồi mà bụng luôn lép xẹp,thiếu ăn.
- Tao chỉ sợ đói cái bụng thôi, không sợ cái chân đi đâu.
Hai người phụ nữ tôi gặp đầu tiên - mẹ và chị nuôi của nó. Người đàn ông tên Leo cũng là cha nuôi. Thằng Riêng lạc gia đình khi buôn làng nó bị chiến tranh, nhà ông Leo cũng có một đứa con trai bằng tuổi Riêng bị lạc gia đình nên gặp Riêng ông Leo nhận nuôi luôn. Trong nhà, mọi người đang chuẩn bị ăn trưa. Riêng khoe với tôi:
- Mấy ngày trước làng tao có con trâu chết, thịt trâu chia còn nhiều lắm, mày sẽ được ăn no cái bụng.
Tôi là đứa trẻ háu ăn. Lâu nay bữa đói bữa no, lúc đói nổ đom đóm mắt, tái xanh tái xám, khi no lưng chén cơm chẳng thấm vào đâu. Nay nghe nhà thằng Riêng còn rất nhiều thịt, mắt tôi sáng trưng, đưa tay xoa xoa cái bụng lép xẹp nhủ thầm: “Mày sẽ không còn réo nữa nhá!” Chẳng đợi đến tiếng gọi thứ hai của mẹ Riêng, tôi đã ngồi xếp bằng ngay ngắn bên cái nia được phủ tàu lá chuối xanh rì. Bếp lửa bập bùng nổ lách tách, nồi củ mỳ sôi sùng sục. Ông Leo với tay lên giàn bếp lấy xuống một xâu thịt… đã bốc mùi! Lớp da vàng cháy chuyển sang màu xám xịt, còn thịt tái méc. Ông ta dùng dao cắt từng lát to tổ chảng. Tôi khều thằng Riêng, thầm thì:
- Ăn thịt này à?
- Ừm!
- Có kho, nấu gì không?
- Không!
- Để vậy?
- Ừ!
- Mình thấy… muốn mửa. Nó thu…. í!
Riêng trợn mắt nhìn tôi:
- Mày không ăn là cái bụng của mày không thiệt lòng, không tốt đâu!
Tôi chưa kịp nói gì thì ông Leo lấy thêm một xâu gì lòng thòng treo trên vách. Mùi thum thủm lan tỏa khắp căn nhà, nếu không vì cái lườm mắt và câu nói vừa rồi của thằng Riêng chắc tôi đã chạy ra ngoài rồi, quả thật không thể chịu nổi. tôi lại khều nó:
- Cái gì thế?
- Ruột!
- Để làm gì?
- Ăn!
- Ăn?
- Ừ, chấm với cái muối!
- Sao lại có cái món ấy?
- Mày không biết à? Quý lắm!
- Nó giảng giải:
- Khi mổ trâu, người ta lấy ruột non cột hai đầu lại rồi trụng qua nước sôi xong đem treo lên giàn bếp để dành ăn!
Nó nói tỉnh rụi làm tôi lợm giọng, muốn ói quá. Ruột cứ cuồn cuộn như cố đẩy hết thảy những gì có trong đó ra ngoài. Tôi gập người lại, một chút nước gì chua lét tứa ra trào lên miệng, tôi nhổ vội xuống giữa hai kẹt chân, dẻo quẹo chảy dài thành sợi như dây cước câu cá. Ông Leo đang xắc đùm ruột nhìn thấy tôi mặt mày xanh xám, miệng chảy nước giải chắc tưởng đói lắm, ông ngừng tay, nói:
- Tao biết cái bụng mày đói lắm rồi!
Nói xong ông chồm người tới nồi củ mỳ trên bếp đang bốc hơi nghi ngút, nhón một củ để trước mặt tôi, bốc luôn một vốc ruột vừa xắc bỏ vô tô. Ông cười khè khè:
- Người anh em ăn đỡ một miếng đi. Ăn xong món này đến năm trái núi cũng trèo qua nổi.
Tôi lúng búng trong miệng, nước miếng trong tứa ra, cổ họng như muốn mở toang hoác, lại sắp ói rồi. Tôi vùng chạy ta ngoài, thằng Riêng vụt theo giữ lại. Nó thầm thì:
- Tao biết mày không ăn được cái đó, nhưng mày bỏ chạy là không tốt đâu, mọi người nghĩ mày không có cái bụng giống họ!
Cứ nghĩ đến những món đó đã sởn hết gai óc rồi chứ đừng nói gì ăn. Tôi nói như van lơn:
- Có cách gì giúp mình đi, không thể ăn cái món lòng ruột ấy được!
- Mày ăn củ mỳ với thịt.
- Thịt cũng… hôi!
Nhưng có lẽ thịt… đỡ hơn! Tôi nghĩ thế. Riêng đẩy tôi vô lại nhà, nói gì đó với cha mẹ rồi quay sang tôi:
- Mày ăn thịt với củ mỳ!
Một bữa ăn được háo hức chờ đợi tan biến nhanh trong tôi. Ngồi nhìn cả nhà ăn thật ngon lành, loáng cái trên nia lá sạch banh thịt, lòng. Mọi người đứng lên, tôi cầm theo củ mỳ vừa ăn vừa trèo xuống sân. Riêng kéo tôi lại rồi chỉ vào chân bị thương:
- Cái chân của mày bị sao?
Tôi kể vắn tắt chuyện xãy ra cho nó nghe, Riêng đi vào nhà nói gì đó với ông Leo, lúc sau ông cầm ra một nhúm bột đen sì như lọ nồi cùng bát nước muối, ông tháo khăn đưa thằng Riêng đi giặt rồi lấy nước muối rửa vết thương cho tôi. Viên đạn của tên Nam găm vào phần thịt của ống chân, may mà không làm gãy xương. Ông Leo rửa sạch rồi rắc thứ bột đen đen vào vết thương, ông nói:
- Cái chân của mày sẽ nhanh khỏi thôi mà.
Ông leo xuống cầu thang lát sau lên cầm theo mấy chiếc lá với cọng dây chuối, ông áp lá vào vết thương rồi lấy dây chuối quấn lại:
- Tôi bị con heo rừng cắn rách chân rồi cũng mau lành thôi mà.
Nắng chiều chỉ còn sáng trên những ngọn cây. Buôn làng đìu hiu với những sợi khói vương vương trên mái tranh xiêu vẹo. Thằng Riêng muốn tôi ở lại chơi với nó đến “con trăng” sau, nhưng không thể được. Tôi còn phải đi tìm anh Sơn, tìm gặp ba, gặp anh Thiệu và cả tìm hỏi thăm thằng Ngọng thế nào, nó được cứu hay chết rồi. Giá như đừng có bom đạn chiến tranh, gia đình không lưu lạc mỗi người một phương như thế này tôi sẽ ở chơi không chỉ một “con trăng” thôi đâu! Tôi đã kể nó nghe về Ngọng, về tên Việt gian và lấy gọng ná thun khoe với Riêng:
- Mình dùng cái này bắn đui mắt tên Việt gian để cứu Ngọng đấy!
Thằng Riêng có vẻ thích, nó ngồi im lặng lắng nghe. Khi tôi kể về gia đình, những năm tháng ấm êm, rồi cả nhà lưu lạc… Nó cầm tay tôi, hai mắt đỏ hoe:
- Tao cũng giống mày, giờ không biết cha, mẹ và em ở đâu!
Nỗi thương cảm trong lòng lại dâng trào, tôi thương nó bơ vơ, nó thương tôi lưu lạc. Hai đứa trẻ cùng cảnh ngộ ngồi với nhau bên đống lửa bập bùng trong đêm. Trẻ con thế đấy, mau nhớ nhưng cũng nhanh quên. Khi tôi gương ná thun bắn “phựt” vô đống lửa, tàn lửa nở hoa bay tứ tán, nó chạy ù lên nhà cầm xuống một vật mà tôi chưa từng thấy bao giờ. Riêng trịnh trọng đưa lên ngang tầm mắt nói:
- Đây là cái “nỏ”!
Tôi tò mò sờ lên cái “nỏ” của nó, sớ gỗ láng tưng, đen bóng giống như chữ “T”. Thằng Riêng rút từ trong ống tre ra một cây tên, nó kéo căng sợi dây cài vào chốt sau, đặt mũi tên lên khe nỏ, quỳ xuống nhắm vào khúc củi to đang bén lửa: “phựt” Tiếng phát ra thật đanh, khúc cây lung lay, hoa lửa lại bay tung tóe. Tôi đến gần đống lửa, mũi tên gim chặt, phần đuôi còn rung nhè nhẹ. Tôi reo lên:
- Hay quá!
- Tao đi săn với cha, bắn cả heo rừng…
- Nếu cái “nỏ” bé bé một tí sẽ vừa tay bạn hơn!
- Của cha tao mà!
- Thích ghê!
Tôi rút mũi tên ra khỏi khúc củi thầm nghĩ: “ Nếu cái này mà găm vào mặt tên Việt gian thì chắc là xuyên qua sọ rồi!” Riêng thấy tôi mân mê mũi tên, liền nói:
- Rồi tao đẽo cho mày một cái nỏ thật đẹp!
- Và mình sẽ học bắn nỏ.
- Còn tao tập cái ná thun.
Buổi sáng khi thức giấc, mọi người lên rẫy cả. Ánh nắng len vào nhà qua kẻ liếp thành từng miếng phẳng, nổi vân những sợi khói từ bếp tỏa ra. Nồi củ mỳ thơm phưng phức cơi tràn nắp vung. Bụng đói cồn cào, tôi bật dậy đi ra phía cầu thang. Thằng Riêng ngồi bên bụi cây Cò ke làm gì đó thật chăm chú. Thấy tôi, nó im lặng phủi tay đứng dậy đi thẳng lên nhà, lát sau bưng xuống rổ củ mỳ. Tôi cúi xuống cầm thanh gỗ đẽo nham nhở, hỏi:
- Bạn làm cái gì đây?
- Nỏ!
- Gần xong chưa?
- Gần!
- Khi nào?
- Con trăng sau!
- ……
Tôi chưng hửng, nhìn dáng vẻ miệt mài gọt, đẽo của nó đâm thương quá, ước gì ở đây lâu hơn. Tôi ngồi xuống cạnh, choàng tay qua cổ Riêng, nói:
- Ừ! Khi nào xong mình sẽ xin bạn.
- Không đâu, tao làm cho mày mà!
- Giờ Riêng cất đi, tụi mình còn phải đi nữa.
Nó dừng tay đẽo, gác miếng gỗ lên cháng ba gốc Cò ke, cầm tay tôi nói:
- Cha tao nói cái chân của mày chưa đi được đâu mà.
- Nhưng mình thấy đi được, không đau lắm.
- Phải chờ làm thêm cái thuốc lần nữa.
- Chắc không sao.
- Có mà, con ma sẽ bắt mày, con ma sẽ bỏ lửa vào người mày, Giàng ơi!
Thằng Riêng nói lung tung tôi chẳng hiểu nhưng thấy nó quá tha thiết nên thôi đành ở lại thêm ngày nữa. Thấy tôi đồng ý nó mừng ra mặt.
Vậy là phải ở lại thêm ba ngày để ông Leo rửa vết thương và làm thuốc cho tôi. Đi lại cũng còn đau nhưng có vẻ đỡ hơn nhiều so với hôm tôi mới đến. Riêng tìm cho tôi một cây gậy để chống đi cho dễ. Sáng hôm sau tôi dậy sớm nhưng đã thấy nó chuẩn bị đồ đạc đâu ra đó, ngồi chờ tôi trong góc nhà. Vợ chồng ông Leo với đứa con gái đã lên rẫy từ tinh mơ. Nó mang gùi xuống, không quên cầm theo cái nỏ và bó tên. Riêng khoe:
- Mẹ tao nấu xôi nữa!
Tôi cắt tàu lá chuối gói thêm mấy củ mỳ cho vào gùi rồi mang lên vai.Thằng Riêng nhìn cười cười:
- Trông mày giống người của tao quá!
Nghe nó nói tôi thấy vui vui, cúi xuống nhìn lại mình. Quả thật, hai đứa chẳng khác gì nhau mấy. Chiếc quần xà lỏn mặc lâu ngày nó thun lại như cái lò xo, rút lên tới háng. Chiếc áo rộng thùng thình cũ mèm, dơ cứng phủ quá mông, chẳng thể gọi nó màu gì. Còn tay chân, mặt mũi còm nhom, đen sì. Thấy tôi có vẻ thích mang gùi, nó lặng lẽ đến cột nhà sàn lấy xuống cái gùi khác to hơn, bỏ tất cả đồ trong gùi tôi đang mang vào gùi nó:
- Cái chân mày đau không mang được nhiều đâu mà.
Thằng Riêng cầm nỏ tôi cầm rựa, hai đứa lên đường.