- 4 -
Nắng đã lên khá cao nhưng trong rừng cái lạnh còn se se, cỏ ven đường ướt đẩm hơi sương. Tôi vừa đi vừa nhai củ mỳ. Thằng Riêng quả có đôi chân bằng vàng, nó đi thoăn thoắt. Gặp những lùm gai mây lòa xòa, bụi rậm dây leo chằng chịt nó cứ phăng phăng, tôi theo muốn bở hơi tai. Hai đứa vượt qua những rẫy nương của người vùng cao. Gần trưa gặp một con suối nhỏ, cả hai dừng lại nghỉ. Thằng Riêng lôi từ trong gùi toàn bộ lương thực mang theo: “Mấy khúc mỳ chín, túm khoai lang xắc khô, đùm xôi cùng dăm củ mỳ sống mà tôi bỏ theo ban sáng. Nó chọn một tảng đá bằng phẳng, mở đùm xôi hai đứa bốc ăn ngon lành. Ăn xong thằng Riêng men theo dòng suối, tôi nằm duỗi dài trên phiến đá, nhìn lên bầu trời qua kẽ lá. Nó đi loáng cái đã quay lại, trên tay một xâu cá trắng ánh bạc còn đang quẫy đành đạch. Không nói không rằng, nó lấy hai hòn đá bằng nắm tay ngồi xuống đập “chách chách”. Chẳng hiểu Riêng định làm gì, tôi tò mò nhìn theo. Nó ngồi đập chừng gần bằng thời gian ăn bữa xôi. Đập rồi lại thổi “phù phù”. Không thể đoán là nó đang làm cái trò gì, tôi cứ căng mắt theo dõi. Không phải đợi lâu, từ chỗ thằng Riêng thổi, một làn khói mỏng yếu ớt như sợi tơ bay lên. Chưa hết ngạc nhiên, sợi khói to dần rồi bùng lên một ngọn lửa. Không nhịn được, tôi reo đầy thán phục:
- Hay quá!
Riêng nhìn tôi ngơ ngác:
- Mày nói hay cái gì?
Tôi đưa tay chỉ vào ngọn lửa đang cháy:
- Bạn làm ra lửa hay quá!
Nó ngẩn người:
- Cái lửa này ai cũng làm được mà!
Vừa nói nó vừa nhặt những thanh củi khô bỏ thêm vô đống lửa, tôi nhanh nhẹn tìm cành cây xiên vào những chú cá.
Lâu lắm rồi tôi chưa hề được ăn món cá. Trong bụng đủ thứ hầm bà lằng: “Bắp, mỳ, khoai lang, cơm, xôi, lá rừng, ổi…” Đôi khi đỡ dạ với những trái xoài rừng chua lét, ổi dại bằng ngón chân nhai muốn rớt cả răng. Bụng căng cứng nhưng chừng như vẫn thiêu thiếu, vẫn thấy đói. Mùi cá nướng tỏa ra thơm nức, hai đứa bẻ ăn ngon lành. Tôi góp thêm bữa ăn có món cá nướng là con cà cưởng và chú cu đất. Món này làm không công phu như ở quê, chẳng ướp muối ớt, cuộn lá ổi gì ráo. Vặt lông sơ sài thảy vào đống lửa, các chú căng tròn vàng tươm, mùi thơm muốn toát lỗ mũi. Tôi xé cu đất ra làm hai đưa Riêng nửa con. Nó cầm nhai ngang, rau ráu cả xương. Nó ăn giống thằng Ngọng quá! Tôi bần thần: “Ngọng ơi!” Hình ảnh nó trợn mắt ngáp ngáp, hai chân choài đạp dưới đất cứ ám ảnh mãi trong tôi mỗi khi nghĩ về Ngọng.
Riêng nhặt củ mỳ bỏ vào gùi, hai đứa lội qua suối cắt rừng đi tiếp. Thằng Riêng tài thực, đi trong rừng nó như con nai, con sóc. Một cành cây choài ra đường, trĩu những quả chín, vàng ươm, nó vặt mấy quả quăng vào gùi. Tôi cũng với tay hái hai quả, mật tươm ướt cả tay. Quả lớn bằng trái chanh, lởm chởm gai như chôm chôm nhưng mềm hơn nhiều. Tôi chưa biết phải ăn như thế nào, Riêng bỏ nguyên trái vào mồm – “Thằng này tham ăn quá!” Tôi rủa thầm và từ tốn cắn từng miếng một. Mùi thơm ngọt, hăng nồng thoảng lên mũi. Chưa kịp nuốt thì đầu lưỡi rồi khắp cả miệng tê rát, nóng và cay như nhai phải ớt. Tôi phun phù phù, chùi lia lịa vào ống tay áo. Thằng Riêng thấy vậy đứng cười như nắc nẻ:
- Trái này chỉ mút thôi, không ăn được đâu mà!
- Sao không nói trước?
- Tưởng mày biết!
- Có bị làm sao không?
- Không!
- Miệng tao nóng như ngậm lửa...
- Ừ!
Nó tỉnh bơ đến vô tâm trong nỗi sợ hãi khiến tôi tức phát điên. Đôi môi giựt tưng tưng, nóng hầm hập tôi đưa tay lên sờ, nó căng như được bơm hơi. Thằng Riêng cứ cười khúc khích, tôi nổi cáu:
- Mày cười được nữa à?
- Tao không cười mày.
- Cười ai?
- Cười miệng mày thôi mà!
- …???
- Nó giống lỗ đít con gà sắp đẻ.
Tôi nhào tới lấy trái cây còn lại nhét vô mồm nó cho bỏ ghét. Thằng Riêng cắm đầu chạy thục mạng, tôi cà nhắc rượt theo, cứ thế hai đứa chạy gần hết cánh rừng lúc nào không hay. Thằng Riêng đang chạy bỗng đứng phắt lại, nó nom nom cái gì đó ngoài bìa rừng rồi ra dấu cho tôi im lặng. Tôi lom khom nép theo những thân cây đến bên, nhìn theo tay nó chỉ. Ngoài bìa rừng là rẫy trồng mỳ, có hai người đang bẻ lá mỳ bỏ vào gùi, bên cạnh còn hai người nữa – một bộ đội và một người đàn bà. Họ đang nói với nhau chuyện gì đó. Những tán lá mỳ xanh mướt che khuất tầm nhìn nhưng tôi vẫn nhận ra họ, tôi reo lên sung sướng:
- Anh Thiệu!
Bất kể những cây mỳ cản lối, những gai góc ken dày dưới chân, tôi lao về phía trước, Riêng cũng chạy theo sau. Anh Thiệu trố mắt nhìn hai đứa trẻ dân tộc từ trong rừng phóng ra, anh không hề nhận ra tôi. Thằng Riêng đuổi kịp, kéo tôi lại:
- Nó… chắc không phải người tốt mà!
Tôi đâm ra bối rối: “sao anh Thiệu làm mặt lạ, không nhận mình nhỉ?” Người đàn bà trông quen quen: “Ô! Bác Tư!” Tôi chưa kịp lên tiếng, mẹ Ngọng nói to:
- Đứa nào đi trước giống thằng Hà em, phải không?
Tôi sung sướng hét lên:
- Con! Hà em, Hà em đây bác Tư ơi!
Bác Tư, cả anh Thiệu chạy về phía tôi:
- Trời đất! Mới có mấy hôm mà trông em lạ hoắc, miệng mồm kỳ lạ thế?
Bác Tư ôm tôi vào lòng, bác khóc:
- Bác nhận con qua linh cảm thôi, sao lại ra nông nỗi này? Còn thằng Ngọng của bác…
Tôi chợt nhớ ra điều quan trọng nhất, bèn hỏi:
- Thằng Ngọng...
Anh Thiệu không để tôi nói hết câu, kéo ngồi xuống tán cây mỳ tránh nắng:
- Em ngồi xuống đây đi. Ngọng bị thương nặng ở đùi và ở hông nhưng cũng đã ổn rồi, bác sĩ bảo thế!
- Từ hôm bữa đến giờ lo cứu chữa thằng Ngọng xong mọi người đổ xô tìm cháu.
Mẹ Ngọng chen vào. Tôi bồn chồn, anh Thiệu đặt tay lên vai tôi:
- Giờ thì em kể cho anh với mẹ nghe buổi trưa hai đứa đi đâu, và sao Ngọng bị thương, do ai bắn?
Tôi đinh ninh một điều rằng: “Khi gặp anh tôi sẽ kể hết những gì đã xảy ra” nhưng giờ lại đâm lúng túng, không biết phải bắt đầu từ đâu. Đang loay hoay với những hình ảnh rời rạc được chắp nối dần thì phía dốc rẫy một người chống gậy đi lên. Với cái dáng đi ấy, với con người đó tôi không bao giờ quên được. Tôi run bắn lên, toan chạy nhưng chẳng hiểu sao tay chân cứ cứng đơ. Tôi chỉ tay về hướng người đang đi lên, thều thào:
- Tên… Tên Nam!
Anh Thiệu và bác Tư quá đỗi ngạc nhiên nhìn tôi. Thằng Riêng ngồi bên chờ hóng chuyện, thấy tôi hốt hoảng nó chưa hiểu ra, nhưng có vẻ đoán được sự nguy hiểm khi “người lạ” đến. Nó chụp lấy cái “nỏ” vói lấy ống tên rồi kéo tay tôi chạy:
- Người này xấu à? Hay nó là tên “Việt gian” mà mày kể?
Tôi gật đầu, Riêng nói cụt ngủn:
- Đi!
Tôi chụp tay anh Thiệu quay qua bác Tư:
- Đừng nói con đang ở đây, đừng nói gặp con!
Bác Tư trố mắt ngạc nhiên, anh Thiệu dường như đoán ra sự việc Ngọng bị thương và tôi bỏ chạy có liên quan đến ông Nam. Anh gật đầu nhìn hai đứa đi nhanh tới chỗ mấy người dân tộc bẻ lá mỳ. Thằng Riêng đặt tay lên vai tôi, nói:
- Mày đừng có sợ!
Tôi lom khom nhìn qua tán lá, nói khe khẽ:
- Nó là… thằng “Việt gian”!
- Tao bắn nó?
- Không được, nó có súng!
Riêng đứng thẳng người, nói:
- Được mà!
- Không! Có anh Thiệu rồi để anh ấy xử, bạn không được làm lộ.
Riêng không nói gì, tỏ vẻ bực bội nhưng cũng chiều theo ý tôi, nó nhìn sang mấy người bẻ lá mỳ tuôn một tràng tiếng lạ hoắc rồi quay sang tôi:
- Tao với mày bẻ lá đi!
Tôi chẳng có hồn vía đâu bẻ lá mỳ. Thằng “Việt gian” đang đứng bên anh Thiệu nói chuyện. Tôi cố căng tai nghe ngóng. Mắt dán chặt vào nó. Khoảng cách tuy không xa nhưng gió rừng thổi u u, thêm vào đó những cây mỳ cao lêu đêu, mang trên thân từng túm lá khô, lắc lư xào xạc nên chẳng tài nào nghe được. Nó hươ hươ tay nói với anh Thiệu rồi chỉ về phía hai đứa đang đứng. Tôi run bắn lên khi nó dợm chân định bước tới. Anh Thiệu đặt tay lên vai nó nói gì đó rồi chỉ tay về hướng bìa rừng. Thằng Riêng rút mũi tên cầm tay, nói với người đàn ông bẻ lá mỳ, ông ta cầm cái rựa đi theo. Riêng nhìn tôi trấn an:
- Tao nghe lời mày rồi. Tao không cho nó vô đường này thôi mà.
Nói rồi người cầm “nỏ” kẻ cầm rựa băng băng đi ra chỗ tên Nam.
Thằng Riêng quả lanh lợi và thông minh thật. Nó và người đàn ông tiến thẳng tới nhóm người đang đứng nói gì đó, tên “Việt gian” có vẻ nghĩ ngợi rồi đi về phía bìa rừng. Đợi họ đi thật xa tôi mới lò dò chui ra khỏi rẫy mỳ. Bác Tư nhìn thấy hỏi ngay:
- Ông ta đi tìm cây thuốc gì đó chữa mắt, sao con lại sợ?
- Thế không nói gì nữa à? Có nói... tìm ai không?
- Không! Chỉ nói bị cây đâm vô mắt...
- Con bắn vô mắt ông ta đấy!
Bác Tư há hốc miệng:
- Sao thế? Sao con lại dám bắn vào mắt ông ta?
Chưa kịp trả lời, anh Thiệu đến cầm tay tôi:
- Có liên quan như thế nào đến Ngọng bị thương? Em kể hết cho anh nghe.
- Tại nó bóp cổ Ngọng!
- Sao lại bóp cổ Ngọng?
Tôi bắt đầu từ chuyện ở dưới hầm, chuyện ông ta “ ngồi trên xe “rép” Mỹ ở ga Gò Mầm, rồi ông tái mặt như thế nào khi thằng Ngọng nhận ra, rồi bọn tôi rượt theo con cu đất, rồi ông bóp cổ… Tôi nhất nhất kể lại nhưng chẳng đầu chẳng đuôi. Anh Thiệu và bác Tư chăm chú lắng nghe. Nghe xong, như phát hiện được điều gì, anh Thiệu vụt đứng phắt dậy, nói:
- Con phải báo cáo gấp chuyện này cho đơn vị, thằng Ngọng có thể bị nguy hiểm. Má đưa Hà em về hầm dùm con!
Anh quay sang tôi:
- Em nhớ đừng để ông Nam thấy và không được nói chuyện này với ai nghe.
Anh dặn xong đi nhanh xuống đồi và mất hút vào cánh rừng thưa. Thằng Riêng đề nghị cho nó cùng theo về tới hầm trú, tất nhiên là tôi rất vui.
Bác Tư nôn nóng trở về với thằng Ngọng nên bác đi như chạy. Chân tôi bị thương nên không thể đi nhanh được, thỉnh thoảng lại phải nghỉ nên bác Tư đi một đoạn lại phải đứng chờ. Riêng có vẻ buồn, tôi hỏi gì nó cũng không nói, chỉ ầm ừ cho qua chuyện, nhưng tôi muốn nó vui. Gợi chuyện hoài mà nó vẫn câm như hến, tôi đâm ra bực mình, gắt:
- Cậu ngậm hột thị à?
Nó há miệng ngơ ngác:
- Không có mà!
- Sao cậu không nói?
- ……
- Giận mình hả?
- Không, giận tao!
- …???
- Tao không muốn xa mày mà!
Trong tôi như có một cái gì đó chạy rần rần khắp người. Tôi dừng lại cầm tay nó, đôi bàn tay khô cứng, nhỏ và đen xám. Tôi bóp thật mạnh: - “Riêng ơi! Xa cậu, mình cũng rất nhớ! Biết không?” Nghĩ vậy nhưng không nói được lời nào. Môi rung rung, ngực như có tảng đá đè, tôi xúc động lắm. Có lẽ thằng Riêng cũng tâm trạng như tôi, nó siết chặt đôi tay định nói gì đó, bác Tư đi phía trước giục:
- Nhanh lên hai đứa!
Sắp gặp được thằng Ngọng rồi lại phải chia tay với Riêng, tôi vui buồn lẫn lộn. Mảnh rừng có căn hầm đang ở trước mặt. Chợt anh Thiệu xuất hiện, có thêm một chú bộ đội nữa. Anh nói gì đó với chú bộ đội rồi đi đến bên tôi và Riêng:
- Em không phải về hầm và cũng chưa thể đến thăm Ngọng.
Tôi ngạc nhiên, anh xoa đầu tôi nói tiếp:
- Để bảo vệ an toàn cho em, em phải đi theo anh Kim.
- Nhưng em cần thăm Ngọng…
- Rồi em sẽ được thăm nhưng không phải bây giờ.
Tôi bối rối đưa mắt nhìn Riêng, anh Thiệu nói luôn:
- Cả cậu bé này cũng đi với em.
Thằng Riêng tái mặt:
- Cán bộ bắt tao à?
Anh Thiệu cười, kéo hai đứa lại gần nói:
- Không có bắt em đâu mà! Đi với Hà em rồi vài hôm nữa anh đưa cậu bé tốt bụng về nhà. À! Hà em đến đó sẽ có tin vui.
Nghe anh nói có tin vui tôi sướng đến tê người, chạy đến níu tay anh:
- Anh nói đi, Anh Sơn phải không? Hay em gặp ba?
- Gần như vậy. Em đến đó khắc biết!
Nói xong anh đi với bác Tư về hướng căn hầm. Tôi tần ngần định chạy theo hỏi cho rõ nhưng anh Kim ngăn lại, bảo:
- Ta đi thôi các em!
Nói xong anh Kim đi trước, Riêng kéo tay tôi nối gót theo sau. Quả thật, lời nói úp mở của anh Thiệu dù gây cho tôi nhiều thắc mắc, đưa vào lòng tôi những nghĩ ngợi mông lung, nhưng dẫu gì thì đó cũng là niềm vui. Niềm vui tột cùng trong tôi, niềm vui không thể dấu trong lòng được, nó toát ra từ ánh mắt, tiếng cười, từ dáng đi, điệu nói. Tôi sắp gặp ba hay anh Sơn đây? Với ai thì trong tôi cũng đang rộn ràng, lâng lâng sung sướng. Từ ngày xa nhà đến nay không biết bao tháng, bao ngày. Đói khát, hiểm nguy cứ rập rình từng bước chân. Nẻo đường loạn lạc đi tìm cha, tìm anh giờ đây rực lên, ửng hồng phía trước. Tôi bước đi như con chim sáo. Thằng Riêng không hiểu vì sao anh Thiệu lại bắt nó đi theo tôi cùng anh bộ đội, nhưng thấy tôi vui, cười nói líu lo nên nó cũng bớt nghĩ ngợi. Hơn nữa, cùng đi với tôi đó là điều mà lòng nó muốn. Khi tôi nói “sắp được gặp cha” nó nhảy cẫng lên ôm lấy tôi, nó reo mừng như niềm vui này là của nó vậy. Đây là lần đầu tiên thấy thằng Riêng biểu lộ tình cảm, và đã gây cho tôi một cảm xúc khó tả: - “Riêng ơi! Cậu thật tốt với mình” Tự nhiên tôi nghĩ đến và thương nó quá! Cha mẹ và em nó giờ ở đâu? Sống chết ra sao? Nó buồn, đau lòng như tôi đã từng tan nát ruột gan khi nghe anh tôi bị chết trên dòng sông. Nghĩ thế nên tôi không cười nói huyên thuyên nữa, đi chầm chậm bên Riêng:
- Mình với bạn lại đi bên nhau, thích nhỉ?
- Ừ, thích!
- Rồi bọn mình hỏi tìm cha mẹ và em bạn.
- ……
- Bạn đừng buồn. Sẽ gặp mà…!
- Họ chết cả rồi!
- Sao lại nghĩ thế, mình tin là vẫn còn sống và đang tìm bạn đấy!
Niềm hy vọng dù le lói vẫn tốt gấp nhiều lần hơn để nó tắt ngấm. Tôi đã từng như vậy khi nghĩ về anh Sơn. Có vẻ lời tôi nói làm nó vui hơn, khuôn mặt lại rạng rỡ. Dường như trong thâm tâm tâm - từ phía chân trời xa lắc lơ nào đó, hiện lên hình ảnh mẹ cha và đứa em thân yêu đang mỉm cười cùng nó.
Bọn tôi cùng anh Kim vượt qua một trái đồi trọc, mọc đầy những bụi cò ke và hoa sim tím. Đến một hẻm núi, con suối róc rách dưới chân, bên kia bờ có một chòi gác nằm vắt vẻo trên cháng ba của cây cầy đại thụ. “Giá mình được leo lên đó, thích nhỉ!” Chú bộ đội gác lại ngồi trên tảng đá dưới gốc cây nhìn chúng tôi đến. Anh Kim lội qua suối nói chuyện với chú bộ đội và đưa tay ngoắc hai đứa:
- Qua đây đi mấy em, gần tới rồi!
Bọn tôi chào chú bộ đội rồi nhanh chân chạy theo anh. Vào sâu trong hẻm núi một đoạn, anh Kim chỉ tay lên triền núi phía trước, tôi nhìn theo tay anh thấy thấp thoáng mấy gian nhà tranh, nhưng dưới chân núi, đá dựng đứng, cây rừng ken dày, kín mít không một lối đi. Quanh co thêm một lúc, khi những gian nhà tranh ẩn hiện bên trên, mé đường có một lối rẽ mòn, khúc khủy. anh nói: “Hai em lên đi, có người đợi ở đó!” Mặc dù đã chuẩn bị sẵn tinh thần nhưng tôi vẫn rất bất ngờ với thông tin anh Kim báo. Tôi như chơi vơi, như đang mơ:
- Anh nói… ba em chờ?
Hỏi xong tôi mừng đến nỗi trơ mắt nhìn anh, chẳng nói được tiếng cám ơn. Anh mỉm cười đi nhanh và khuất vào khúc quanh hẻm núi. Hai đứa men theo lối mòn leo lên. Mấy gian nhà tranh thấy đó mà đi hoài vẫn không tới. Tôi nôn nóng, muốn mình có được đôi cánh như con chim bay vù lên với ba, sà vào lòng: “Con nhớ ba quá, ba ơi!” Chặng đường dài lưu lạc giờ sắp kết thúc, ba đứng ngay cửa đợi tôi. Không! Ba cũng mong gặp tôi như tôi luôn nhớ ba. Người sẽ ra ngoài đầu triền núi đón thằng con út. Nghĩ thế nên tôi leo lên dù mệt bở hơi tai nhưng vẫn cố tình lẩn khuất vào những tán cây, bụi rậm, thật bất ngờ ba nhé! Con sẽ “hù” ba từ phía sau lưng. Ngôi nhà hiện ra, sân là một vuông đất gập gềnh, lổm nhổm những tảng đá, những gốc cây. Bốn gian nhà tựa lưng vào vách núi. Mé trái gian chính có một người mặc đồ bộ đội, ngồi trên phiến đá giữa sân, nghiêng lưng về hướng bọn tôi. Thằng Riêng đi sau, nhéo vô hông, nói:
- Ba mày kìa!
Tôi ngồi thụp xuống dụi dụi mắt, đôi mắt đỏ hoe. “Ba ốm và lưng còng nhiều quá! Mấy năm rồi không gặp…” Tôi định đi thật nhẹ đến bên ba, ôm vòng vào người và nói: “Ba ơi! Thằng Hà em của ba nè!” Tôi dợm bước trèo lên bật đá, chợt người đó đứng dậy. Cánh tay phải để trần, băng trắng toát nơi bả vai: “ba bị thương?” Tôi đau nhói như có ai đè vào ngực. Chẳng thể chần chừ được, tôi leo lên mép sân. Riêng dừng lại bên gốc cây, dường như nó khóc. Nghe tiếng động, người đó quay lại:
- Các cháu tìm ai?
Tôi chưng hửng, ấp úng không nên lời:
- Dạ… Dạ cháu tìm ba…!
- Hai cháu đi nơi khác tìm thử xem, chú ở đây gần mười ngày rồi có thấy ai đâu, chỉ có vài đứa trẻ con…
Tôi chới với, lạnh ngắt cả người, đôi chân bủn rủn, trước mắt mọi cái như tối sầm lại, đôi tai lùng bùng, chợt có tiếng ai đó gọi như reo:
- Hà em!
Như vừa tỉnh cơn mê, một bóng người từ trong nhà lao ra. Đứa đứa trẻ con trạc bằng tuổi tôi và Riêng. Tôi ngạc nhiên và bất ngờ quá đỗi:
- Đức lỳ!
Đúng Đức lỳ thật rồi, chính nó chứ không thể là ai khác. Hai đứa ôm chầm lấy nhau:
- Sao cậu ở đây?
- Mình tới hôm qua.
Đức lỳ đưa tay chỉ Riêng vẫn còn đang đứng bên gốc cây:
- Ai đấy?
Tôi lại kéo tay Riêng đến bên Đức lỳ:
- Chuyện dài lắm, từ từ rồi kể - ba, anh Sơn mình đâu?
- Bác Ba ở “cứ”!
- Sao lại ở “cứ”, mà “cứ” là cái gì?
- Thì “cứ”… là “cứ” chứ còn cái gì nữa! Bác Ba được anh Thiệu báo là đã gặp cậu, bác sai mình đến đón, được chưa?
Nghe Đức lỳ nói tôi mừng rơn:
- Giờ về “cứ ba” đi!
- Hôm qua thì thế, còn giờ kế hoạch thay đổi rồi không đi nữa, ở đây “chơi” vài ngày! Anh Thiệu với mấy chú nói vậy.
Tôi rất nóng lòng gặp cha nhưng cũng đành phải nghe theo. Ba đứa kéo nhau ngồi xuống một tảng đá to dưới gốc cây giữa sân. Tôi kể nhảy cóc chuyện nọ xọ chuyện kia, bắt đầu từ dạo Đức lỳ quyết tâm đi trả thù. Khi đó bỗng dưng nó biến mất, chẳng ai biết đi đâu. Cỡ tuổi đó “sẩy nhà ra bơ vơ” nên mọi người đều cho rằng nó lưu lạc chốn nào, không biết sống chết ra sao với một thân trơ trọi, rồi cũng quên đi với những lo toan hằng ngày. Nhưng lúc đó nó chọn đi đường của nó, cứ nhắm hướng núi mà phăng lên. Đói no, ấm rét cũng một bận như tôi, nay ổn rồi. Nó gặp được cha, thế là cha đưa nó về ở chung với “anh nuôi” của đơn vị. Đức lỳ “quản lý” cả một đoạn suối, chuyên bắt ốc, cá, hái nấm, lặt rau nuôi quân đánh giặc, ban đêm còn được đi học nữa. Giờ trông nó lanh lợi, hoạt bát hẳn lên. Nó bảo: “Nếu chăm chỉ lao động và học tập sẽ được vô trường Thiếu sinh quân”. Nhưng xem ra chuyện học không khoái bằng bắt cá dưới suối, trường Thiếu sinh quân không hấp dẫn bằng được làm cậu bé liên lạc, được làm anh du kích, anh bộ đội, được ôm súng bắn đoàng đoàng sướng hơn! Tôi nhìn thấy mình chẳng bằng góc nó. Suốt ngày chỉ biết ham chơi: bắn chim, tắm mương… Thời gian lưu lạc có lớn lên đôi chút nhưng vẫn còn là trẻ con. Tôi biểu lộ sự khâm phục với nó, nó cười xè:
- Đã ở trên này ai mà chả vậy! Cậu mới cừ, chỉ với gọng ná thun mà dám bắn lòi mắt thằng “Việt gian” có súng!
Thằng Riêng nãy giờ ngồi bên cạnh lắng nghe tôi và Đức lỳ nói chuyện, nó góp lời:
- Tao cũng ghét “Việt gian” lắm! Nó kêu máy bay bắn xuống buôn làng tao… Tao sẽ trả thù cho cha mẹ và em tao, tao cũng trả thù dùm “thằng Ngọng” nữa.
Thế là ba đứa lại xoay quanh chuyện thằng Ngọng bị thương, chuyện thằng “Việt gian” tìm giết tôi:
- Gặp cậu chắc chắn nó giết!
- Trả thù mày bắn lòi cái mắt nó mà…
- Nó giết để giữ bí mật chuyện “Việt gian” của nó.
Tôi ngẫm nghĩ, chợt nhớ lời anh Thiệu: “Thằng Ngọng có thể bị nguy hiểm!” Tôi nhìn chằm chằm vào Riêng rồi lại quay sang Đức lỳ:
- Đúng rồi!
- Cái gì đúng?
- Không tìm được mình…
- Mày lên núi cao không tìm được đâu mà!
Tôi nói không kịp thở:
- Nó sẽ quay lại giết Ngọng!
Cả hai tròn mắt nhìn tôi, đồng thanh:
- Làm sao bây giờ?
Tôi ấp úng:
- Mình chưa biết!
Ba đứa lại ngồi bàn đến sự an nguy của Ngọng. Đức Lỳ đưa ra kế hoạch:
- Mình phục kích… bắt sống nó!
- Bắt cái củ khoai từ! Nó to con, lại có súng…
Thằng Riêng rụt rè:
- Tao bắn… sau lưng bằng nỏ!
- Khó lắm! Mình bị nó lùng thiếu điều đái trong quần…
Bàn tán râm ran nhưng cũng chẳng đi đến đâu. Bỗng Riêng như phát hiện ra điều gì:
- Mình bắt nó… như săn heo rừng!
Bọn tôi ngạc nhiên, nó hào hứng nói tiếp:
- Mỗi người cầm vũ khí núp một góc, chính giữa lối đi đào cái hố, che lá rồi bỏ mồi lên trên…
Đức lì “xì” một tiếng rõ to:
- Khùng! Thằng “Việt gian” mà đào hố, bỏ mồi… nhử heo!
Riêng tiu nghỉu, ngồi dí dí ngón chân trên đất. Tôi vụt đứng dậy:
- Có mồi rồi!
Đức lỳ kéo tay tôi ngồi xuống:
- Mày lại khùng nữa.
- Cậu khùng thì có, mồi là thằng Ngọng!
Đức lỳ và Riêng chưng hửng, nhưng hai đứa có vẻ hiểu ra:
- Ừ, đúng đó! Sao không nghĩ ra hè, chắc chắn nó sẽ tìm đến Ngọng.
- Bọn mình phục kích ngay trạm xá.
- Chơi một trận… ngon lành!
- Cả ba đứa!
- Có vũ khí thứ thiệt.
- Tao nỏ!
- Tao có dao găm!
- Tao ná thun!
Thỏa thuận với nhau nhanh chóng, khí thế đang sôi sục tôi bỗng đâm lo:
- Nhưng… anh Thiệu dặn mình phải ở đây!
Đức lỳ… lỳ thế mà cũng bối rối. Nó có vẻ bực bội, đi đi lại lại quanh tảng đá. Thằng Riêng ngạc nhiên nhìn chúng tôi:
- Nhưng mình có đi luôn đâu mà!
Đức lỳ bồn chồn, thòng một câu thăm dò:
- Xong rồi về lại đây, đừng cho anh Thiệu biết!
Tôi hơi ngần ngừ, nhưng nghĩ đến Ngọng vừa thoát chết lại sắp gặp nguy hiểm và quá ghét tên Nam đã bắn vào chân tôi, dù vết thương cũng đã ổn nhưng đi nhiều vẫn thấy đau đau, tôi đáp luôn:
- Y chang! Tụi mình giả đò đi bắn chim, “thanh toán” nó xong, tối về ai mà biết!
Phương án được đưa ra, cả ba nhất trí: Tên Nam biết mặt tôi nên không được ra mặt, phải thường xuyên núp trong bụi rậm gần trạm xá, Đức lỳ cũng không ló mặt vì sợ anh Thiệu thấy. Còn Thằng Riêng, do cả bọn cho rằng anh Thiệu không nhớ mặt, hơn nữa nó đã biết tên Nam nên được đi thăm dò công khai. Nói là làm, ba đứa nhanh chóng xuống núi. Đức lỳ chạy nhanh vào nhà, chớp mắt đã phóng ra với cái túi vải mang trên vai, hông đeo lủng lẳng lưỡi lê có bao hẳn hoi, trông oai ra phết. Nó móc từ trong túi vải ra một nắm khoai lang dai (khoai lang nấu chín xắt lát phơi khô làm lương thực) chia cho tôi và Riêng ăn đi đường.
Vùng này Đức lỳ là Thổ địa. Ngóc ngách rừng, suối nào mà không in dấu chân nó. Nó dẫn hai đứa lội qua mấy con suối cạn đi đường tắt đến trạm xá. Mỗi lần qua suối tôi đều mò tìm những hòn sạn, lớn hơn ngón tay cái nhét đầy hai bọc túi áo. Những hòn sạn tròn trịa, trắng đục lạo sạo trong ngực, reo lên theo từng bước nhảy. Tôi kiểm soát lại giàn ná thun – tốt! Trận đánh sắp tới không còn đơn giản là trò chơi trẻ con nữa. Quả thật, giờ không còn là trò chơi đánh giặc giả như thuở nào. Không còn hễ cứ thua là giơ tay đầu hàng rồi rủ nhau nhảy ùm xuống mương tắm một trận, hoặc bị “địch” bắn đau… có đứa khóc ré lên chạy về méc mẹ! Lần này nếu có sơ sẩy điều gì là chết như chơi. Ba đứa ngu ngơ, ăn chưa no, lo chưa tới, làm sao đối đầu được với con sói nham hiểm, độc ác – tên “Việt gian” đầy thủ đoạn điên khùng.
Băng qua một cum rừng nhỏ, Đức lỳ đi chậm lại:
- Sắp tới rồi!
Thằng Riêng hào hứng xốc lại gùi lương thực trên vai, tay mân mê cây nỏ. Nghĩ đến những chuyện sắp xảy ra đôi chân tôi tự nhiên bủn rủn, mồ hôi tươm ướt trán: - Sợ chăng? Tôi phân vân tự hỏi như vậy. Vâng, tôi sợ chết! Tôi không phải đứa nhát gan nhưng thật sự tôi sợ nếu chết đi sẽ không còn gì cả - sẽ không bao giờ được gặp ba, không được nhìn mặt anh Sơn và nghe anh kể về những trận đánh, về chuyện “ôm đùm ruột” bơi qua sông. Chỉ rán thêm vài ngày nữa thôi. Ba với anh đang đợi tôi ở “cứ”… Rồi sẽ không thấy mặt chị Hai, anh Hà, không được nằm vào lòng, hít mùi chua nồng nhưng thơm ấm của mẹ. Rồi muôn đời không còn thấy nhỏ Vân nữa. Rồi còn thằng Ngọng, Đức lỳ, Riêng… Càng nghĩ, tôi thấy bước chân mình như chậm hơn, tay chân lạnh toát. Thằng Riêng dừng lại đợi, thấy bộ dạng tôi, nó hỏi:
- Mày bị đói cái bụng à?
Đức lỳ quay lui, đưa tay sờ lên trán:
- Có thể nó kiệt sức hoặc trúng gió.
Nói xong Đức lì mở miệng túi vải, lôi ra một cái chai nhỏ, lớn hơn ngón chân cái. Bên trong còn lưng nửa chai nước màu vàng, đặc sánh, nói:
- Mật ong đấy! Mày ngậm một tí là khỏe ra ngay.
Tôi lúng túng đưa tay đẩy lui:
- Không, mình không mệt!
Riêng bỏ gùi xuống móc ra mấy củ mỳ, đưa mỗi đứa một củ:
- Ăn đi! Ăn no rồi đánh giặc!
Ba đứa ngồi xuống vệt cỏ bên đường mòn gần bìa rừng. Mặt trời đã ngã về tây, những tia nắng không còn mạnh mẽ, nó yếu ớt, hiền lành. Hơi sương từ cỏ cây tỏa ra lành lạnh, tôi nhẹ kéo cổ áo lên, co vai lại nhìn Riêng và Đức lỳ:
- Trời về chiều nhanh quá! Không chừng nhá nhem chẳng thấy đường… mà về.
- Bây giờ lơ mơ một tí là hỏng như chơi.
- Tao thề với Giàng sẽ bắn thằng “Việt gian” để trả thù cho Ngọng, cho cha mẹ với buôn làng tao.
- Nhất định rồi! Cả nhà tao chết vì giặc, tao đâm lưỡi lê này vào ngay tim nó.
Miệng đắng nghét, đầu hơi váng nhưng nghe hai đứa bạn quyết tâm chắc cú, dứt khoát khiến mặt tôi nóng bừng. Lòng tôi vẫn thấy như in hình ảnh bác Trong cõng mẹ chết cháy thê thảm trên hiên nhà, làng xóm cháy tan hoang. Những xác người trôi trên mương dẫn thủy trương phình, tôi nhớ hình ảnh Ngọng bị bóp cổ, đôi chân choài đạp lên đất, hai tay cào cào trong không khí.
Đức lỳ nhét lại chai mật ong vào túi vải, rút ra một tờ giấy gấp tư, chìa sang tôi nói như reo:
Quên mất Hà em ơi! Cậu có thư của bác ba.
Tôi sung sướng hét lên, nhào tới ôm chầm lấy Đức lỳ, chộp nhanh tờ giấy từ tay nó. Không thể diễn tả nỗi vui sướng của tôi lúc này đâu, nó chạy rần rần khắp cả người, nó lâng lâng tưởng như mọi cái chung quanh tan nhòa, biến mất. Tôi chưa vội đọc, áp lá thư vào ngực để nghe niềm sung sướng trào dâng, chợt có mấy tiếng súng nổ nghe gần lắm Đức lỳ chạy ra bìa rừng rồi phán đoán:
- Nổ từ hướng trạm xá, có chuyện rồi!
Tôi nhét vội lá thư của ba vào túi áo đựng đầy sỏi lượm dọc đường, cài khuy nút cẩn thận rồi bước nhanh ra bìa rừng. Thằng Riêng đưa mắt nhìn tôi và Đức lì như muốn nói: “Chạy tới đó thôi!” Đức lỳ lao ra trảng rừng thưa xen lẫn đồi cỏ tranh. Vừa chạy vừa gọi:
- Chạy tới trạm xá anh em ơi! Nó bắn thằng Ngọng rồi!
Riêng cầm nỏ phóng lên trước, tôi cà nhắc chạy theo sau. Ba đứa cắm cổ lao về hướng trạm xá. Chạy một đoạn tôi la lớn:
- Chạy tản xa ra đừng tụm lại.
- Sao lại xa ra?
Tôi nhớ hồi chơi giặc giả, mỗi lần rượt đuổi “địch” không ai lại chạy dồn đống mà đuổi, nó nện một cục đất, trật thằng này cũng trúng đứa kia. Nghĩ thế nên gào tiếp:
- Lỡ thằng Nam bỏ chạy lên đây gặp bọn mình…
Đức lỳ nổi máu lỳ:
- Chắc gì nó chạy hướng này!
- Nó chạy cũng điên như con heo rừng bị rượt thôi, không biết được đâu mà!
Tôi tạt qua mé trái, Riêng thấy thế tách về bên phải, Đức lỳ ở giữa, cứ thế mà chạy trên đồi cỏ tranh cao gần lút đầu. Nắng chiều vàng rực, gió lao xao làm gợn sóng cỏ tranh như đồng lúa quê nhà. Ba đứa mãi miết chạy. Tôi và Riêng chạy hai bên tuy ít cỏ tranh nhưng những bụi cây lùm bùm vướn lối, hơn nữa chân lại đau nên tôi chạy khá chậm. Đức lỳ bị tranh che nên nó cứ lúp xúp giữa đồi tranh mênh mông. Đang chạy loằng ngoằn với những lùm cây vướn lối, tôi quay nhìn ngang sang phải, chẳng thấy Đức lỳ đâu, nhìn lui không có. Bên kia bóng dáng Riêng cũng biến đâu mất. Tôi đâm chột dạ: Rơi hố bẫy hay bị trăn quấn, cọp vồ? Toan lên tiếng gọi thì thấy giữa đồi cỏ tranh nơi Đức lỳ vừa chạy, từng mảng tranh rạp xuống, bóng người lồm cồm, nhấp nhô. Tôi khủng khiếp thét: “Trời ơi! Trăn quấn Đức lỳ rồi!” Chẳng còn nghĩ được điều gì, tôi lao tới chỗ Đức lỳ, tiếng ú ớ, tiếng quẫy xuống đất thình thịch. Chưa rõ ra sao nhưng chắc chắn Đức lỳ đang bị nạn. Tôi mò tìm khúc cây hoặc hòn đá cầm tay nhưng chẳng có gì. Hoảng quá tôi khóc thét lên: “Đức ơi! Riêng ơi!” Tiếng ú ớ, tiếng vật lộn rõ lên rồi bỗng dưng im bặt, nó bị trăn nuốt rồi sao? Im lặng đến ghê rợn, tôi đứng chết điếng, tê cứng cả người. Bỗng từ chỗ Đức lỳ bị nạn vụt đứng lên một con người. Nếu là con trăn hay một con cọp chồm tới có lẽ tôi ít kinh ngạc hơn. Tôi đứng sững như trời trồng, bóng người cao lớn tiến nhanh tới, nó cầm trên tay lưỡi lê sáng loáng của Đức lỳ, nơi khe rãnh lưỡi lê còn đỏ lòm máu tươi. Tôi chỉ thốt lên được một tiếng: “Nam!” - Đúng nó là thằng Nam với khuôn mặt đằng đằng sát khí, tôi chỉ còn biết lao thẳng vào nó ôm chặt cánh tay cầm lưỡi lê, dùng hết sức cắn thật mạnh. Nó rít lên:
- Thằng chó chết, tao sẽ bằm nát mày ra.
Nó dùng bàn tay còn lại đấm thẳng vào đầu, tôi văng ra ngã bật ngửa xuống đám cỏ tranh. Thằng Nam xoa xoa cổ tay vừa bị cắn, tiến về phía tôi, lưỡi lê ngúc ngoắc đùa giỡn như con mèo đang vờn chuột. Nó cười gằn, tôi gượng đứng dậy thật nhanh tuy nơi đầu còn choáng váng, chụp giàn ná thun đang đeo nơi cổ - không kịp nữa rồi, nó đưa lưỡi lê đâm thẳng vào ngực tôi. Quả thật khi nghĩ, người ta có thể nghĩ được nhiều thứ trong một khoảnh khắc, nhưng lúc này đây tôi chẳng nghĩ được gì. Tôi chỉ thấy máu của Đức lỳ loang trên lưỡi lê, chỉ thế thôi. Tôi nhìn trừng trừng vào nó như không hề sợ hãi. Mũi lê nhọn và sáng quắc phóng xẹt đến bỗng khựng lại một tẹo. Thằng Nam hơi nẫy người ra trước nhưng bàn tay cầm lưỡi lê vẫn đâm tới, tôi thấy đau nhói nơi ngực. Thế là mày chết thật rồi Hà em ơi! Mà thật kỳ lạ, khi ở thời khắc này thì những hình ảnh lại xuất hiện trong tôi nhanh và rất nhiều. Này là ba, ba đang vẫy tay đón tôi. Còn mẹ, anh Hà, chị Hai… Rồi anh Sơn nữa, anh đang bơi trên sông, nhỏ Vân mặt mày tái méc đứng khóc… Rồi thằng Ngọng, thằng Riêng, Đức lỳ… Nó đâm một nhát chí mạng vào ngực tôi mà chừng như vẫn chưa thấy thỏa lòng, nó lại chém ngang thêm nhát nữa vào cổ tôi, nó muốn giết đến hai lần. Mũi lê theo sức chém phạt ngang thật mạnh, chắc do khoảng cách quá tầm tay nó nên tôi không bị rơi đầu, chỉ thấy tê tê lành lạnh nơi cổ. Lại một luồng gì đó nong nóng chạy dài xuống ngực, xuống bụng. Thằng Riêng không biết từ đâu xuất hiện đột ngột sau lưng tên Nam, Riêng giáng một cú bổ bằng báng nỏ xuống đầu tên Nam, nó buông lê lảo đảo. Sực nhớ đến Đức lỳ, tôi lao đến, nó nằm im lìm bên bãi cỏ tranh bị giày nát. Mặt mày bầm tím, máu thấm đẫm chiếc áo sơ mi sờn rách, tuột hết khuy: “Nó chết rồi sao?” Tôi đưa tay sờ lên mũi, không nghe động tĩnh gì. Tôi ngồi xuống áp tai vào ngực, tiếng đập thoi thóp, đứt quãng. Tôi hét toán lên: “ Đức lỳ còn sống Riêng ơi!” Tên Nam bị Riêng đập bán nỏ ngay đỉnh đầu khiến nó nằm quay lơ, dang tay víu víu nạm cỏ tranh, trên lưng còn thòi lòi phần mũi tên dựng đứng lên trời, tôi ngạc nhiên quay sang Riêng:
- Sao lại có mũi tên ở đây?
- Tao bắn khi nó sắp đâm mày.
Nói rồi thằng Riêng kể lại sự viêc mà nó trông thấy: Khi tôi còn đang vướn víu với mấy lùm cây, nó phát hiện một bóng người chạy lom khom phía chân đồi tranh, Riêng kêu nhưng tôi và Đức lì đều không nghe thấy, nó ngồi xuống kéo dây nỏ lắp vào lẫy cò nhưng có lẽ run quá, lóng ngóng thế nào mà căng mãi dây nỏ vẫn cứ tuột. Lúc lắp được cây tên vào thì mất tiêu bóng người đang chạy lên đồi. Nó nhìn thấy tôi, định kêu thì bất ngờ tên Nam đứng bật dậy, thằng Riêng nói tiếp:
- Tao luồng dưới cỏ tranh đến sau lưng và thấy nó vung dao đâm mày tao “phựt” một cái, mũi tên cắm gần lút nửa.
Ngay lúc đó, từ dưới đồi có mấy người chạy lên. Tôi nhận ra trong đó có anh Thiệu và anh Kim. Tôi vẫy tay gọi rối rít, mọi người chạy xô đến. Anh Thiệu hỏi qua mọi việc rồi cho khiêng Đức lỳ và tên Nam về trạm xá. Anh Kim cầm súng đi phía sau. Đang đi, tôi thấy mọi người như chao đảo, đất trời bỗng tối sầm lại và dường như có ai đó gọi í ới tên tôi.