← Quay lại trang sách

Chương 33

Mọi người đều muốn trốn chạy quá khứ.

Tôi cho rằng điều ấy cũng tự nhiên thôi. Khi chúng ta kiểm điểm lại tất cả những gì đã nói đã làm suốt bao nhiêu năm qua, bất chấp những hồi ức tuyệt vời, những niềm hối tiếc tuy ít hơn nhưng chúng đứng riêng ra nổi bật hơn hẳn, những viên than tỏa sáng mà chúng ta không bao giờ có thể hoàn toàn dập tắt được, dù chúng ta có cổ.

Thế nhưng nếu không có quá khứ thì công việc của tôi sẽ không tồn tại. Hoặc vì những điều tốt đẹp mà những người nhữ Ryan Kessler đã làm một cách không vị kỉ khiến họ rơi vào tầm mắt của kẻ moi tin hoặc lịch sử đẫm máu của bọn sát thủ chuyên nghiệp, tôi quan tâm chăm sóc cho họ như một kết quả của những gì họ đã làm nhiều tháng hoặc nhiều năm trước đó.

Nhưng vào lúc này, khi lái xe nhanh hết sức có thể qua những ngã đường trơn trượt mờ tối sẽ đưa tôi quay về hạt Loudoun, tôi đang nghĩ về quá khứ vì một lí do khác. Hai mươi phút trước mắt phơi bày quá khứ của một kẻ là mới đe dọa với các thân chủ của tôi, một quá khứ có thể rất hữu ích trong việc tìm kiếm bằng chứng về sự hiện diện của hắn.

Quá khứ của một kẻ đã tra tấn và sát hại người thầy của tôi.

Và tôi cực kì mong muốn lật giở lại nhiều năm về trước và tìm hiểu những gì mình có thể biết về hắn.

Theo những gì em họ hắn cho tôi biết - rằng trong thực tế, việc rao bán căn nhà gia đình chỉ là mưu đồ bất lương - có khả năng bên trong căn nhà ấy chứa các đồ tạo tác giá trị của gia đình suốt bao thập niên. Liệu tôi sẽ tìm thấy các bức ảnh của Loving thời còn bé? Liệu tôi sẽ tìm thấy các món đồ chơi hắn từng chơi?

Tôi lại nghĩ về một trong những nhiệm vụ đầu tiên của duBois làm cho tôi, trước khi chạm trán Loving tại Rhode Island. Công việc của nữ đệ tử này là tìm hiểu tất cả những gì cô ấy có thể về Marjorie, chị gái của Loving. DuBois đã xắn tay áo dốc cạn năng lượng để thực thi nhiệm vụ và viết ra một tiểu sử về người đàn bà đã dành nhiều thời gian với em trai trong những tháng năm tuổi vị thành niên, trước khi hắn ngả sang hướng tội ác và rời bỏ gia đình, tôi tin tưởng - nhưng hóa ra lại không chính xác - rằng các chi tiết về chị gái hắn có thể bằng cách nào đó dẫn chúng tôi đến với hắn. DuBois biết về những đợt điều trị ung thư của cô ta, thuyên giảm, rồi tái phát mạnh mẽ lần nữa… và rồi cái chết bi kịch dưới lòng sông Occoquan, con sông chảy vào Chesapeake.

Cuộc truy đuổi này chẳng mang lại điều gì hữu ích, nhưng tôi ngày càng thích thú tìm đọc các ghi chép của duBois về một người mà Loving giữ gìn mối liên kết chân thành.

Tôi muốn biết nhiều hơn và hi vọng vào những gì căn nhà cũ ấy sẽ mang lại.

Tất nhiên, khi bố mẹ hắn phát hiện ra những tội ác của con trai mình, có thể họ đã xóa sạch bất kì dấu vết nào của hắn và căn nhà của hắn sẽ trơ trọi chẳng còn gì. Nếu tôi có một đứa con rắc rối như Loving thì tôi sẽ làm gì?

Claire duBois gọi. Cô ấy đã tiến hành tìm kiếm về quyền sở hữu và thu thập những thông tin về căn nhà. Kết cấu của căn nhà tám mươi tuổi, dành cho một gia đình nằm trên khu đất rộng khoảng hai mẫu Anh ngoài Ashburn, một khu vực rộng lớn với những căn nhà phố nằm rải rác và những căn nhà dành cho gia đình đơn nhất nằm giữa đường tới Sân bay Dulles và Leesburg, đang phát triển nhanh chóng, khi các tuyến tàu điện ngầm di chuyển ngày càng xa hơn từ D. C.

Căn nhà của Loving gần một năm rưỡi nay không có ai ở, cho dù chủ nhân tài sản nhờ được chuyển nhượng bằng chứng thư này đã gửi một người thợ khéo tay thi thoảng để sửa chữa và xén tỉa. Chủ nhà báo cáo rằng Loving không hề liên lạc với ông ta nhiều năm nay rồi, tuy nhiên đã trả trước tiền thuê hơn mười năm.

“Cô không tìm thấy tất cả thông tin đó trên Google đâu,” tôi khen ngợi duBois.

“Thú vị thật, tôi có thể bảo chủ nhà rằng ông ta có tội, ngay cả cho dù ông ta chẳng làm gì trái luật cả. Khi bạn là kẻ có tội thì bạn sẽ muốn nói chuyện.”

Mười phút sau tôi chậm rãi lái xe trên con đường trải nhựa lộng gió, không có đèn đường, và kiểm tra các số nhà. Tôi đạp phanh cho xe vào bên cạnh hàng bụi cây dày, cách ngôi nhà khoảng năm mươi thước. Có sáu hoặc bảy ngôi nhà trong vùng này, tất cả đều lùi cách xa con đường. Rác rưởi vứt bừa bãi trên mặt đất xung quanh tôi và một miếng nhựa đèn phanh màu đỏ đã cho thấy là có đường cong không chính xác và tầm nhìn kém.

Tôi rút di động ra gọi một cuộc cho Freddy.

“Ông có lệnh khám nhà chưa?” Tôi hỏi. Có tranh luận rằng chúng tôi sẽ không cần lệnh khám nhà nhưng theo thủ tục pháp lí sẽ tốt hơn, nên tránh tranh cãi ngay từ đầu, và trong trường hợp chúng tôi thấy bên trong có xuất hiện bằng chứng hữu ích, thì tôi muốn chắc chắn một luật sư bào chữa giỏi sẽ không loại trừ nó.

“Rồi.”

“Ông đang ở đâu thế?”

“Cách khoảng mười lăm phút đi xe, có thể ít hơn. Còn cậu?”

“Vừa mới tới.”

“Chúa tôi, Corte, đơn vị của cậu không có loại xe cắm đèn hiệu trên nóc đâu. Cậu sẽ giết chính mình nếu còn cứ lái xe cái kiểu đấy.”

“Tôi muốn đi thật nhanh. Tôi nghĩ tôi có thể có cơ hội thấy hắn ở đó.”

“Nhưng cậu không thấy.”

“Không thấy. Giờ tôi đang nhìn căn nhà đây,” tôi bảo ông ta. “Không đèn đóm, không có chuyển động nào hết. Nhưng có khoảng năm mươi vị trí bắn tuyệt hảo trong khu rừng khắp xung quanh nơi này. Người của ông có mang quần áo giữ nhiệt theo không đấy?”

“Tất nhiên rồi, nhưng nếu cậu nói về rừng, hầu hết bọn hươu sẽ thắp sáng thiết bị. Và Bambi sẽ không bắn tỉa nhiều đâu.”

Để mắt tới ngôi nhà, tôi bảo ông ta, “Tôi sẽ lặng lẽ thôi.”

Chúng tôi ngắt máy và tôi xuống xe. Tôi lấy áo chống đạn ra khỏi cốp xe, mặc vào người rồi khoác ra ngoài bộ áo liền quần màu đen. Tôi di chuyển trong không khí mùa thu lạnh lẽo, dừng lại giữa hai cây sồi to. Sương mù bồng bềnh quanh ngôi nhà, cách mặt đường khoảng gần bảy mươi mét. Tôi có thể nghe thấy tiếng lũ côn trùng sống sót qua mùa hè rên rỉ và rít lên ken két. Cả lũ ếch nữa. Tôi cảm nhận được tiếng đập cánh yếu ớt từ chuyển động vô hình trên đầu mình của lũ dơi.

Bản thân tôi không mê tín và tôi không tin rằng chúng ta có thể cảm thấy những linh hồn của người chết. Nhưng tôi không phủ nhận đôi khi sự phát triển về những ấn tượng, những đầu mối và hồi ức về trải nghiệm khơi nên sự thấu hiểu trong chúng ta như thể giác quan thứ sáu. Tôi chẳng có cảm nhận gì về nỗi sợ hãi hay buồn chán nhưng bỗng tôi biết rằng mình phải rút súng ran gay lập tức, ép tâm trí mình quay về chế độ phòng thủ và cứ giữ mãi như thế. Tôi suýt nữa thì vẹo cổ khi quay lại đằng sau trông thấy hình dáng một người đàn ông. Ngón tay trên cò súng của khẩu Glock, tôi nhắm một mục tiêu. Hít thở nặng nề, tôi tựa người vào gốc cây rắn chắc gồ ghề. Chỉ một lúc sau những cây non tự in bóng thành kẻ moi tin tách nhau ra trong cơn gió nhẹ rồi lại nhẹ nhàng đan vào nhau.

Bóng người nhưng lại không phải người.

Điều ấy không có nghĩa nỗi lo lắng của tôi là không xác đáng. Loving có thể ở gần đây.

Tôi quay vào trong nhà. Ngôi nhà lớn hai tầng miền thôn quê, có đầu hồi, sơn màu nâu thẫm. Tay thợ mà chủ nhà đã thuê làm đẹp phong cảnh một cách rất tỉ mỉ nhưng lại sơ sài khi làm đồ gỗ và sơn nhà. Lan can đang bị lún, các cầu thang dốc xuống và ba trong số các cánh cửa chớp màu be lung lay trên chiếc bản lề cuối cùng. Các vết sơn bẩn mờ xỉn đang chảy xuống từ tấm ván lá sách. Trên hàng hiên trước nhà, mở rộng đến tận mặt tiền toàn bộ ngôi nhà, một chiếc xích đu chỉ được gắn vào các thanh rầm phía trên bằng một sợi xích duy nhất.

Nhìn xung quanh lần nữa. Chẳng thấy bóng sự sống nào của con người. Lại nhìn chằm chằm hàng hiên, tôi tự hỏi phải chăng thằng nhóc Loving có lần nào ngồi trên xích đu vào những tối mùa hè hay mùa thu. Và với ai? Tôi để ý mảnh đất canh tác đằng sau hàng rào kim loại đã hỏng. Hắn có đi săn thú nhỏ quanh đây không? Tôi nghe nói có lời đồn rằng hắn tra tấn các con vật khi hắn còn trẻ. Nhưng tôi không tin chuyện đó. Chẳng có bằng chứng nào cho thấy rằng Loving là một kẻ bệnh hoạn và thích thú nỗi đau thể chất do mình gây ra, khi hắn đặt giấy nhám và chai cồn trước mặt kẻ thù mà hắn cần khai thác thông tin, tôi biết rằng ý nghĩ chính trong tâm trí hắn là ý nghĩ của tôi. Mục tiêu của bạn là gì và cách hiệu quả nhất để đạt được mục tiêu là gì?”

Tôi nhìn chằm chằm các ô cửa sổ tối om, hai ô cửa sổ trong số này đã hư hỏng do những phát đạn súng trường khí nén hoặc có thể là khẩu cỡ nòng 22. Những nơi bỏ hoang như nơi này, theo luật quy định, là những điểm gây phiền toái nhưng hấp dẫn với trẻ em địa phương. Tôi biết điều này từ căn nhà tại Woodbridge mà Peggy và tôi từng sở hữu. Cách căn nhà ấy hai căn là một ngôi nhà theo kiểu Victoria bỏ hoang và những đứa trẻ trong xóm vào lúc nào đấy đã cố gắng lẻn vào trong cái nơi nguy hiểm ấy. Tôi đã tới tòa thị chính nhằm thúc giục chính quyền quận dựng các hàng rào vững chắc hơn, về căn bản họ đã làm thế.

Một lần nữa tôi tự hỏi do gia đình Kessler hay Henry Loving mà những hồi ức này khuấy lên trong lòng tôi. Tôi xua chúng đi. Không phân tâm thêm nữa, tôi quyết định.

Tôi nghe tiếng những chiếc xe đến gần, dù tôi không nhận ra ánh đèn. Tôi gọi Freddy, để ông ta biết mình đang ở đâu. Vài phút sau ông ta cùng các sĩ quan chiến thuật đến chỗ tôi.

“Thấy gì trên chiếc xe tại nhà em họ hắn không?” Tôi hỏi Freddy.

Tay đặc vụ cao cấp đang ngắm nhìn hình dáng mảnh đất, các sĩ quan chiến thuật cũng vậy, mỗi người ôm một góc phần tư khác nhau. “Chúng tôi tìm thấy vài giọt máu tại khu đậu xe cách khoảng mười lăm mét. Chẳng còn thứ gì khác hữu ích nữa. Không vết lốp xe. Không dấu vết. Nhưng cậu mong đợi điều gì chứ?”

Đúng, với Loving, bạn sẽ không tìm thấy mảnh bằng chứng nào giúp bạn truy ngược về sào huyệt của hắn.

“Tôi muốn di chuyển,” tôi nói, ra hiệu về phía ngôi nhà. Tôi thấy sốt ruột đến lạ lùng. Tôi liếc nhìn các đặc vụ chiến thuật và thì thầm, “Tôi không thấy bất kì dấu hiệu nào của bất kì ai kể từ lúc đến đây. Loving có thể không nhớ mình đã nói với em họ hắn chuyện gì - do ảnh hưởng thuốc mê - và hắn có thể quay về để đào lên hoặc ít nhất là lấy đồ của mình.” Tôi nhìn họ chăm chú nghiêm túc. “Và có khả năng hắn đã nói cho cậu em họ biết mình đã làm gì để chắc chắn cậu ta sẽ kể lại với chúng ta. Đây có thể là một cái bẫy. Và ghi nhớ, hắn có đồng bọn đấy.”

Họ nhìn khắp các khu đất, những cái cây, các ô cửa sổ đen ngòm của căn nhà bằng đôi mắt sắc sảo.

Chúng tôi chia thành ba nhóm tiến về phía trước, tôi và Freddy dẫn đầu.