Chương 34
Biết rằng tên đồng bọn bắn tốt thế nào, chúng tôi không phơi mình ra bằng cách khảo sát các điểm lợi thế trong hơn một, hai giây trước khi nằm rạp xuống đất hoặc nấp mình sau những cái cây.
Trong năm phút chúng tôi tới căn nhà và tiến hành bố trí chiến thuật đột nhập. Đây không phải là lĩnh vực chuyên môn của tôi, cũng như tôi không có vũ trang đầy đủ như tất cả mọi người khác trong nhóm. Tôi sẽ ở bên ngoài trên hiên trước và trông chừng bất kì chuyển động thọc sườn nào cho đến khi căn nhà được lục soát xong xuôi. Một sĩ quan chiến thuật khác sẽ làm điều tương tự ở cửa sau.
Freddy ra hiệu cho một trong các sĩ quan chiến thuật của ông ta. Người đàn ông cao lớn xem xét cửa ra vào rồi đá một cú đẩy bật cửa vào phía trong, đồng thời bật ra câu nói tất yếu, “FBI, chúng tôi có lệnh khám xét!” Các đặc vụ tràn vào bên trong qua các cửa trước và cửa sau. Những ánh đèn pin được bật lên nhưng tôi tảng lờ cuộc tìm kiếm và tiếp tục quan sát các sân trước và sân bên, cúi xuống và biến mình thành mục tiêu càng nhỏ càng tốt để đề phòng bất kì tay súng bắn tỉa nào trong các cánh rừng xung quanh. Sử dụng ống nhòm hồng ngoại, tôi nhìn nhưng không nhận thấy tay súng nào.
Cuối cùng Freddy thò đầu ra ngoài cửa trước. “Chúng tôi xong rồi.”
“Có dấu hiệu nào cho thấy gần đây trong nhà từng có người ở không?”
“Có. Thực phẩm và đồ uống với ngày hết hạn còn cách khá xa nữa. Một đồng hồ báo thức đã đặt. Năm giờ sáng. Thằng nhóc này dậy sớm đây. Quần áo bằng vải lanh mới. Vài quần áo trông có vẻ không quá cũ. Kích cỡ bằng Loving.”
Vậy là hắn đã ở đây.
Tôi bước vào bên trong kéo toàn bộ rèm cửa và mành cửa sổ xuống, rồi bật đèn lên. Không khí có mùi ẩm mốc và thoảng mùi gỗ tuyết tùng và thối rữa. Một đặc vụ xuất hiện ở cửa, anh ta kiểm tra bằng chứng về các xe cộ nhưng báo cáo rằng trên lối xe vào nhà và vỉa hè lát sỏi không tìm thấy dấu lốp xe nào.
“Chúng ta đang tìm cái gì đây?” Một đặc vụ khác gọi. Freddy nghiêng đầu sang tôi.
“Các biên lai thẻ tín dụng, thư từ, các máy tính hoặc ổ cứng, hóa đơn… bất kì cái gì có hoặc không có tên của Loving trên đó. Hắn sử dụng rất nhiều nhân dạng giả.
Tôi đoán rằng shúng tôi sẽ tìm thấy nhiều kế hoạch trước mắt của hắn; hắn quá thông minh không để lại bằng chứng rõ ràng nào, tuy nhiên ngay cả một người chơi game chu đáo như hắn đôi khi cũng có thể phạm sai lầm.
Lí thuyết trò chơi có tính tới điều này. Trong “lí thuyết cân bằng bàn tay run rẩy,” một người chơi có thể vô tình chọn một chiến lược ngoài dự tính - ví dụ, khi bạn bắt con tốt giám mục của quân hậu và tình cờ đi sai quân tốt của hiệp sĩ. Nếu bạn di chuyển một quân cờ là bạn đã đi một nước, ngay cả nếu kết quả không như bạn dự tính và biến thành thảm họa.
Dẫu vậy, chúng tôi tìm thấy rất ít hoạc chẳng có thứ gì hữu ích cả.
Nhưng tôi thực sự đã tìm thấy một thứ, quá khứ của Henry Loving.
Hầu như là tất cả lịch sử. Cả hắn cũng như gia đình hắn không hề xóa đi lịch sử của hắn.
Khắp mọi nơi trong căn nhà này là các bức ảnh, những tấm bưu thiếp viền khung, các băng rôn từ những giải thưởng giành được tại các hội chợ và lễ hội của bang, các bức ảnh về những kì nghỉ của gia đình Loving. Trên bệ lò sưởi và trên các giá sách thay vì các cuốn sách là những tấm bưu thiếp và các đồ vật đáng ghi nhớ như các con thú bằng gốm, gạt tàn, mũ và các giá đỡ nến.
Và trong phòng làm việc là những cuốn album. Có khoảng ba mươi hoặc bốn mươi ảnh. Tôi kiểm tra nhanh nhưng không có tấm nào mới chụp khoảng năm năm trước. Tấm mới nhất chỉ chứa đựng một món đồ duy nhất thuộc về chín Henry. Đó là một mẫu cắt ra từ tờ báo Washington Post, thực ra mà nói, cũng chính là mảnh báo mà tôi có trong văn phòng mình. Về vụ Henry Loving giết hại Abe Fallow và người phụ nữ mà anh ấy bảo vệ. Hắn đã cắt nó ra ư? Và nếu hắn làm thế thì tại sao? Tôi đoán vấn đề chỉ là mánh khóe: để xem các nhà chức trách giải quyết cuộc điều tra này thế nào.
Tôi lục qua các món đồ vật này và xem xét nhiều bức ảnh chụp một Henry trẻ trung hơn, chị gái và bố mẹ của hắn. Tôi choáng váng trước thực tế rằng trong hầu hết các bức ảnh trông hắn đều có vẻ buồn rười rượi và lơ đãng, hiếm khi mỉm cười và có vẻ như bị phân tâm. Nhưng ngoài ra có một số hình ảnh Henry hồi trẻ đang cười. Một trong hai tấm chụp hắn cùng một cô gái, có lẽ là một buổi hẹn hò, cho dù có rất ít tiếp xúc thể chất giữa hai người.
Các môn thể thao Henrt chơi hồi trẻ là chạy đua và bắn cung. Không có bức ảnh nào chụp hắn với các đội tuyển. Có vẻ hắn yêu thích những cuộc săn đuổi đơn độc.
Tôi quay lại thời điểm còn cũ hơn. Tôi mở một trang rồi nhìn chằm chằm. Bên dưới một miếng băng Scotland màu vàng là một lọn tóc nâu được cắt ra. Tôi đọc cẩn thận dòng chữ bên dưới. Là tóc của Henry, hồi một tuổi. Tôi đã định vươn tay ra và chạm vào nó. Nhưng lại rụt tay lại khi Freddy bước vào phòng.
“Nghĩ gì thế con trai?” Freddy hỏi. “Có gì hữu ích ở đây không? Trông cậu như đã tìm thấy món đồ được cất giấu của Bernie Madoff ấy.”
Tôi lắc đầu. “Chẳng có gì cho thấy nước đi tiếp theo của hắn. Nhưng mọi thứ đều chỉ về hắn.”
“Hữu ích không?”
“Ngay lập tức thì không. Nhưng về cơ bản tôi hi vọng thế. Chỉ là có rất nhiều thứ ở đây cần xem kĩ. Chúng ta sẽ thu thập tất cả. Người của anh có mang theo túi bằng chứng không?”
“Trong xe ấy.”
Rồi tôi để ý thấy cái gì đó tựa vào bức tường đối diện: một giá sách khác mà trên đó đặt một tá hộp giày. Tôi nhặt một hộp lên. Bên trong có các xấp ảnh. Tôi cho rằng gia đình tạm thời cất giữ chúng ở đây cho đến khi ai đấy ghé qua dán chúng vào trong album. Trước sự ngạc nhiên của mình, ở dưới cùng có một hình chữ nhật không hề dính bụi. Hộp giày cuối cùng đã bị lấy đi - hôm nay, nếu không phải trong một giờ trước hoặc hơn.
Phải chăng hắn đã quay lại đây từ chỗ nhà em họ chỉ để lấy cái hộp này đi?
Cái gì ở trong đó mà Loving muốn lấy?
Nó cho biết điều gì về quá khứ của hắn mà hắn muốn giữ bí mật sao? Hay có thứ gì liên quan đến nó về mặt tình cảm?
Tôi nói suy nghĩ này với Freddy, ông ta lưu ý nó nhưng không mấy quan tâm. Tôi lật qua các hộp giày khác. Giống như các cuốn album, chúng chẳng cho thấy điều gì hữu ích, cho dù các nhóm pháp y sẽ mày mò để tìm kiếm đầu mối dẫn tới các ngôi nhà mùa hè hoặc thành viên gia đình mà trước đây chúng tôi chưa xác định được.
“Corte?” Freddy hỏi. Ông ta đang mất kiên nhẫn, tôi nghĩ vậy.
“Được rồi,” tôi đáp.
“Tìm được một thứ ở đây,” một sĩ quan chiến thuật gọi từ phía tiền sảnh dẫn vào bếp phía sau nhà. Freddy và tôi tới chỗ anh ta.
“Có vẻ như là hóa đơn, thưa ngài.”
Đang nằm trên sàn nhà cạnh bàn bếp là một xấp phong bì, buộc băng cao su.
“Chắc hắn đã làm rơi mà không biết.”
Bàn tay run rẩy…
Tay đặc vụ nhặt chúng lên rồi đông cứng người lại. Đang cầm lên đến nửa đường anh ta bỗng dừng phắt lại.
“Mẹ kiếp,” anh ta lẩm bẩm và tất cả chúng tôi nhìn chằm chằm vào sợi dây câu mỏng tang biến mất qua cái lỗ trên sàn nhà.
Freddy chộp lấy điện đàm.
“Ra khỏi nhà ngay. Mìn tự chế, mìn tự chế!”
Từ tầng hầm tôi nghe thấy tiếng nổ của cái bẫy vụng về - nhẹ hơn tôi tưởng - và nhìn thấy tán lá, những cái cây sáng bừng lên một thoáng khí ánh lửa chiếu sáng các ô cửa dổ tầng hầm.
Căn phòng chìm trong im lặng đáng sợ. Trong một lúc tôi nghĩ thiết bị có thể bị xịt và tôi sẽ có đủ thời gian nhặt mấy album và các hộp giày.
Nhưng tôi vừa bước một bước về phía chỗ lưu giữ lịch sử của Henry Loving thì cánh cửa căn hầm gần đó bật tung ra ngoài, một cơn lốc xoáy ánh lửa màu vàng cam nuốt lấy bức tường, trong khi ngọn lửa đang cuồng nộ dưới tầng hầm bùng lên qua từng lỗ thông gió và khe nứt ván sàn trên tầng một.