Chương Bốn SỰ BÍ MẬT CỦA CÂY GẬY TRÚC
Ngay chiều hôm ấy, chị Thu Dung tìm cách bắt liên lạc được với Sơn rồi rủ nó cùng đi đến nhà xác của bệnh viện Thủ đô. Dọc đường, chị Thu Dung tóm tắt kể cho Sơn nghe về kết quả mà chị điều tra được từ Sở Địa dư Quốc gia, Viện Nghiên cứu Sưu tầm Cổ vật và giáo sư Trần Vũ. Chị may mắn nắm được dấu vết của “những con đom đóm trời”, “ngọn núi Thiên Mã” và “sự liên hệ giữa giáo sư Thomas Vincent với ông già mù” thì ngược lại, Sơn trải qua suốt một ngày lang thang ở ngoài bến tàu mà không tìm ra được tung tích của “ông chủ garage”, “anh Tư Bạch đằng” và gã “đàn ông đi xe gắn máy”. Chị Thu Dung an ủi nó và khuyên nó hãy kiên nhẫn, rất cần phải kiên nhẫn, nhất là khi dấn mình vào mọi công tác điều tra.
Lúc hai chị em tới được bệnh viện Thủ đô thì trời đã tối hẳn, một vài ngọn đèn vàng úa treo lơ lửng trên cao không soi tỏ được con đường gồ ghề đi xuyên qua bóng tối của những lùm cây nằm im lìm bất động. Sự ồn ào náo nhiệt của thành phố đã bị bỏ lại từ phía đàng xa. Ở đây không gian êm ả và tĩnh mịch đến độ nghe thấy cả tiếng cành khô nứt rạn trong từng khóm lá. Thỉnh thoảng tiếng rên rỉ của những bệnh nhân từ trên các lầu cao đưa xuống nghe rởn mình. Phảng phất trong bầu không khí lạnh lẽo là mùi bông băng, mùi ê te và các hơi hướng kỳ lạ theo hơi gió thoang thoảng bay qua mũi hai người. Chị Thu Dung bất giác nắm chặt lấy bàn tay của Sơn như truyền bớt sang nó sự hồi hộp đang đè trĩu lấy lồng ngực của chị.
Sơn nhìn chị giễu cợt:
– Chị sợ hả?
Chị Thu Dung nhoẻn miệng cười rồi phác một cử chỉ rùng mình:
– Ghê thấy mồ!
– Nhưng đã tới nhà xác đâu?
– Cứ gì phải nhà xác. Mỗi lần chị vô cái không khí của nhà thương là chị thấy rờn rợn thế nào rồi.
– Chị đã lần nào xuống nhà xác chưa?
Chị Thu Dung lại rùng mình rồi lắc đầu lia lịa:
– Chưa! Chưa lần nào cả. Mỗi lần có công tác phải vô đó viết tin chị toàn đưa cho anh Kỳ Hùng đi cả.
– Vậy hôm nay xuống một lần cho biết chị nhé…
– Eo ơi! Ngán quá!
Sơn bật cười vì tính nhút nhát của chị. Nó phê bình:
– Làm thám tử mà sợ ma như chị thì còn điều tra cái nỗi gì…
Chị Thu Dung cãi lại:
– Cần gì. Nếu không có Sơn đi với chị thì chị đã “sai” anh Kỳ Hùng đi dùm rồi. Vẫn điều tra đâu đó cẩn thận như thường.
– Vậy hôm nay chị có dám vô cùng với em không?
Mắt chị Thu Dung long lánh ánh sáng, chị chớp chớp thật mau hai hàng mi cong vút rồi trả lời bằng một giọng không lấy gì làm hùng hồn cho lắm:
– Sợ gì! Chị vô cũng được!…
Sơn kéo tay chị đi mau hơn, và chỉ trong giây lát hai người đã đứng trước một dẫy nhà lụp xụp tối tăm một cách ghê rợn với một ngọn đèn tù mù yếu ớt bắt ở trên tường lối bước lên bậc thềm. Cánh cửa chính của dẫy nhà xác hôm nay mở rộng vì có một nhà đám đang canh một chiếc quan tài kê ở gian giữa. Thân nhân người chết thật vắng vẻ ngoài một bà cụ già ngồi buồn thảm bên cạnh chiếc áo quan, chị Thu Dung chỉ nhìn thấy một đứa bé đang ngủ gục trên ghế gỗ kê ngoài đầu hè. Một vài ngọn nến leo lét, một mớ hương cháy đỏ tỏa ra một làn khói xanh lơ bay tản mạn, chập chờn quanh bát cơm xới đầy ở trên đặt quả trứng luộc hầu như đã héo khô.
Chị Thu Dung như không dám chứng kiến lâu cái cảnh buồn thảm thê lương đó nên vội vàng bước nhanh qua ngưỡng cửa để đi sâu vào dãy hành lang tối hun hút, Sơn vội vàng lẽo đẽo đi theo sau. Trong lớp ánh sáng mập mờ không soi tỏ mặt người bỗng chị Thu Dung đứng sững lại và bấu chặt lấy cánh tay của Sơn làm nó giật mình nhìn về phía trước. Cả hai người cùng trông thấy trong một góc tối có một bóng đen ngồi bó gối với một dáng điệu ngủ gà ngủ gật. Hơi rượu nồng nặc thoang thoảng bay qua xen lẫn với mùi ẩm mốc lạnh lẽo của ngôi nhà xác. Sơn vội vàng bấm chiếc đèn pin cho sáng lóa lên. Ánh sáng tràn ngập góc phòng tối và bây giờ thì hai người nhận ra được hình dáng của một ông già đang say rượu. Đó là người canh nhà xác. Ông ta đang lim dim ngủ bỗng mở choàng mắt ra ngước lên nhìn. Chị Thu Dung gạt tay của Sơn qua một bên cho ánh đèn khỏi làm chói mắt ông ta, rồi chị tự giới thiệu mình là thân nhân của một người bị mất tích, chị muốn tìm xem người đó hiện nay đã nằm trong nhà xác của bệnh viện hay không! Lão gác gian nhìn chị càu nhàu rồi phác một cử chỉ như bảo chị cứ việc vô tìm sau đó lão lại tiếp tục nhắm mắt ngủ gục. Chị Thu Dung đỡ lấy cây đèn bấm trên tay Sơn rồi kéo nó đi tới. Mùi tanh tưởi, lạnh lẽo càng lúc càng gia tăng.
Chị Thu Dung ngỏ ý tiếc rằng không mang sẵn đi một vài quả ô mai gừng hiệu Tiến Lợi hay ít ra thì cũng phải một vài quả xí muội Hồng Kông made in Chợ Lớn. Hai chị em thận trọng bước vào căn phòng đặt những xác chết.
Đó là một căn phòng vuông vức mỗi bề ước chừng bốn thước.
Trên cao có hai ngọn đèn tuýp ngắn ngủi tỏa xuống một làn ánh sáng xanh rớt chập chờn. Ở giữa phòng có đặt bốn chiếc bàn đá và trên mỗi chiếc đã nằm sẵn một xác người phủ khăn trắng kín mít. Chị Thu Dung cố nén xúc động, lấy ở trong sắc ra một chiếc khăn tay thơm sực mùi nước hoa đưa lên mũi. Nhưng mùi thơm của nước hoa không đủ át cái mùi lạnh lẽo, chết chóc như đang thấm từng chút một qua kẽ tóc, qua làn da, và như đã làm cho xương sống mỗi người có một luồng hơi buốt lạnh chạy qua. Chị Thu Dung bấm đèn soi lên tử thi thứ nhất rồi đưa mắt ra hiệu cho Sơn. Sơn khẽ khều tay lật tấm khăn trắng lên rồi nhìn vào. Ánh đèn tắt ngấm ngay trong sự ngỡ ngàng của hai người. Đó là thi hài của một thiếu nữ có khuôn mặt xanh rờn. Chị Thu Dung quay lại chiếc bàn đá ở phía sau lưng và rọi đèn lần nữa, Sơn mạnh bạo lật tấm khăn lên. Cả hai lại thất vọng vì đó chỉ là thi hài của một người đàn ông trẻ có khuôn mặt hóp lại như một tấm xác ve. Mà lạ lùng chưa, cả bốn tấm vải liệm đều được lật lên và cả bốn thi hài đều không phải là ông già mù!
Sơn nhìn chị Thu Dung ngơ ngác:
– Hay là người ta không đem ông ta vô đây.
Chị Thu Dung lắc đầu:
– Nhất định không phải. Ông Thanh tra Mạc Kính đã báo cho chị biết là sẽ chở vào đây mà.
– Hay là người ta đã đem chôn mất rồi.
– Để phải hỏi nhân viên trực mới rõ được, mình làm việc hấp tấp quá, thành ra phí công toi.
Sơn cãi lại:
– Em thì em nghĩ tới rồi, nhưng muốn bảo vệ sự bí mật của công tác điều tra nên mình không muốn dò hỏi lộ liễu quá đấy chứ.
– Vậy bây giờ chú có thấy rằng phải hỏi nhân viên trực không nào?
Sơn mỉm cười:
– Bây giờ thì đành chịu vậy. Không xem sổ sách thì biết đâu mà mò!
Chị Thu Dung mỉm cười vui đùa:
– Ừ! Biết đâu mà mò. Nhỡ nửa đêm hôm qua ông già mù sống lại đi phom phom về nhà, rồi mai mốt lại ngồi chồm chỗm ở cửa tòa báo Ánh Sáng của mình thì hay biết mấy.
Rồi như lại sợ hãi vì chính câu nói đùa của mình, chị Thu Dung vội vã giục:
– Thôi! Thôi! Kinh quá rồi. Phải chuồn khỏi chỗ này gấp đi Sơn.
Vừa nói chị vừa lôi thằng Sơn đi thật nhanh. Cả hai chị em bây giờ như mới thấm thía đến cái sợ. Và cả hai chị em không ai bảo ai cùng co giò bước như muốn chạy. Trong chốc lát, họ ra đến ngoài sân cỏ, chị Thu Dung ngửa mặt nhìn lên bầu trời sâu thẳm hít một hơi thật dài cho nhẹ nhõm rồi kết luận bằng một câu chắc như đinh đóng cột:
– Thôi nhé, lần sau các vàng chị cũng không dám trở lại đây nữa. Ghê thấy mồ!
Thằng Sơn nhìn chị, khẽ mỉm cười. Một lát sau, hai chị em kéo nhau tìm nhân viên trực. Đó là một cô y tá trẻ tuổi có khuôn mặt khả ái rất dễ thương. Chị Thu Dung ngỏ ý muốn tìm xác của ông già bị tai nạn ở góc đường Nhân Ái Chợ lớn hồi sáng ngày hôm trước. Cô y tá tra xét sổ sách rồi trả lời:
– A! Ông già bị tai nạn ở góc đường Nhân Ái. Trường hợp của ông ta được xác định là vô thừa nhận nên đã chở sang Học viện Cơ thể Quốc Gia mất rồi.
Chị Thu Dung thất vọng vì mất bao nhiêu công trình mà không nên việc. Chị buông một tiếng thở dài rồi cám ơn cô y tá và dẫn Sơn trở ra. Sơn nhìn chị, dò hỏi:
– Bây giờ mình có qua Học viện Cơ thể không chị?
Chị Thu Dung đáp:
– Thôi khỏi cần, sáng mai chị điện thoại cho anh Chính ở bên đó hỏi thăm cũng được. Anh Chính là phụ tá trưởng phòng giải phẫu ở bên đó.
– Nhưng nếu mình không qua bên đó sớm, người ta đem thi thể của ông già mổ xẻ tan tành thì còn đâu mà điều tra.
Chị Thu Dung mỉm cười:
– Còn lâu. Các xác chết vô thừa nhận trước khi đem mổ xẻ cho sinh viên học tập còn phải qua nhiều giai đoạn làm ngót nước thối rồi ngâm Formol sau đó mới xài được chớ bộ mổ xẻ ngay được sao.
– Chị có tin rằng ông già mù là người hầu hạ thân tín của giáo sư Vincent không?
– Theo ý chị thì chắc đến chín mươi phần trăm. Việc tìm ra những lớp sẹo vì bỏng nước sôi trên mình ông lão chỉ để xác định chắc chắn một phần trăm mà thôi.
– Đặt giả dụ chính ông già mù là người liên hệ đến giáo sư Vincent, thì chị thấy câu chuyện mình đang theo đuổi này ra làm sao và sẽ đi đến đâu.
Chị Thu Dung ngẫm nghĩ một lát rồi đáp:
– Theo ý chị thì câu chuyện có thể xếp đặt thứ tự như thế này. Trong công tác sưu tầm cổ vật ở vùng biên giới Lào Việt hồi năm 1940 hay 1941 gì đó, giáo sư Thomas Vincent tình cờ tìm thấy một miệng núi lửa trong dẫy núi Thiên Mã. Tại miệng núi lửa cổ xưa này, giáo sư thấy có dấu vết của kim cương, hay hoặc giả giáo sư đã khám phá thấy một chỗ nào quanh đó có nhiều kim cương. Hai thầy trò liền lập kế hoạch khai thác số kim cương. Nhưng vì một lẽ gì đó mà công việc của hai người bị tiết lộ bí mật và một nhóm người khác muốn chiếm đoạt nên đã ám sát giáo sư dưới hình thức ngụy trang bằng một tai nạn xe cộ.
Nhưng việc ám sát này trở nên vô ích vì ông già, người hầu cận của giáo sư Thomas Vincent đã mang bí mật của số kim cương trốn đi mất biệt. Tổ chức của nhóm người kia quyết không từ bỏ ý định nên vẫn âm thầm theo dõi, tìm kiếm và cho đến nay họ đã tìm thấy tung tích của ông giá. Một vụ ám sát thứ nhì lại xẩy ra để chiếm đoạt cây gậy trúc, một di vật chắc chắn liên hệ vô cùng mật thiết đến những con đom đóm trời.
– Thế còn mẩu đá lấy được ở mộ chí ông Vincent?
– Mình chưa biết rõ, nhưng chắc chắn nó sẽ vô cùng hệ trọng. Có thể nhờ mẩu đá này chúng ta mới tìm tới được miệng núi lửa bí mật kia mà hiện nay đang nằm giữa lớp rừng già trùng điệp ở biên giới.
– Chị dàn xếp sự việc như vậy nghe đã có vẻ ăn khớp hợp lý với nhau. Nhưng em vẫn còn một vài thắc mắc, thứ nhất là tại sao ông già lại phải giả mù? Thứ nhì tại sao tổ chức bí mật kia lại chỉ dùng một hình thức sát hại bằng phương pháp gây tai nạn xe hơi. Đã có tổ chức qui mô, họ có thể sử dụng nhiều cách nhẹ nhàng hơn nữa chứ.
– Thắc mắc của chú xác đáng lắm. Và đó chính là những lý do khiến cho chị em mình còn phải tốn nhiều công phu hơn nữa. Vì dầu sao những giả thuyết chị đưa ra vẫn chỉ là những giả thuyết, và có thể sự việc không chỉ dễ dàng như vậy đâu.
– Em cũng đồng ý như vậy. Em thấy cái đầu mối “Anh Tư Bạch Đằng” với “ông chủ gara” vẫn là một đầu mối hấp dẫn phải dò tìm cho ra.
– Chắc chắn là phải tìm bằng được. Nếu không chúng mình sẽ hoàn toàn mù mịt, chúng ta đã có mẩu đá Phún xuất ở mộ chí ôngVincent nhưng chúng ta còn thiếu cây gậy trúc bí mật của ông già mù. Nếu túm được nó chắc chắn nó sẽ mách cho ta rất nhiều điều hay ho lý thú…
Sơn phấn khởi:
– Chị làm em ham quá xá. Ngày mai em sẽ huy động tất cả bọn bán báo để tìm cho ra tung tích của anh Tư Bạch Đằng.
Chị Thu Dung gật đầu:
– Bây giờ thì công tác đó chính là ưu tiên số một. Chị cảm thấy về phần chị là phải khoanh tay rồi. Sau khi liên lạc với Học viện Cơ thể để xác định về tung tích của ông già, chị không còn biết phải làm gì tiếp theo mà phải chờ cái đầu mối của chú đã.
Sơn quả quyết:
– Em sẽ cố gắng. Chị cho em thêm một cái hẹn ba hôm.
– Đồng ý! Nhưng hãy hết sức thận trọng. Biết đâu những việc đang theo đuổi của chúng mình đã chẳng lọt vào tai mắt tổ chức của “ông chủ gara”. Và nếu như thế, chỉ sơ sẩy một chút là mất mạng như chơi đấy nhé.
Rồi chợt nhớ ra điều gì. Chị Thu Dung nói tiếp:
– À! Chú cũng nên liên lạc với ông Thanh tra Mạc Kính xem cuộc điều tra của Sở Cảnh sát đi đến đâu về cái chết của ông giá mù. Biết đâu ông ta chả cho mình được những chi tiết hữu ích.
– Vâng! Em sẽ dò hỏi thêm ở phía đó, ông Mạc Kính đối với tụi em thì rất là bồ bịch.
Sau khi bàn định xong xuôi hai chị em từ giã nhau và hẹn gặp lại ở tòa soạn báo Ánh Sáng.