← Quay lại trang sách

Chương Năm ANH TƯ BẠCH ĐẰNG

Qua ngày hôm sau, chị Thu Dung kêu điện thoại đến Chính, người bạn cùng lớp với chị từ hồi còn ở ban Trung học.

Bây giờ anh Chính hiện giữ chức vụ phụ tá trưởng phòng giải phẫu ở Học viện Cơ thể Quốc gia. Sau khi trình bầy lời yêu cầu của mình về việc nhờ cho biết những vết tích trên thi thể ông già bị tai nạn ở đường Nhân Ái, chị Thu Dung được trả lời:

“Những vết sẹo loang lổ trên làn da ngực cho biết nạn nhân đã có lần bị phỏng nặng. Ngoài ra ở trên hai bắp tay và bả vai của nạn nhân còn nhiều lằn thẹo in những lằn tím đen của lớp da đã chết, hình như nạn nhân đã từng bị trói lâu ngày bằng dây kẽm gai…”

Chị Thu Dung rất chú ý đến chi tiết sau này về dấu tích của ông già mù. Theo ý chị, nó rất có liên hệ đến sự giả mù của ông ta từ bao nhiêu năm nay. Nhưng dầu sao đó mới chỉ là một đốm sáng mờ nhạt trên vòm trời mù mịt mà chị và Sơn đang theo đuổi. Muốn đạt tới một kết quả cuối cùng, chị phải nắm được những mấu chốt cụ thể. Mà những mấu chốt ấy bây giờ đang ở đây, trong thành phố này, dưới bầu không khí ồn ào và náo nhiệt. Đó là anh Tư Bạch Đằng và ông chủ garage.

Muốn vén màn bí mật, phải tìm cho ra những nhân vật đó. Cho dù hai cá nhân nhỏ tí này đắm chìm trong đám đông của hơn hai triệu con người chen chúc dưới một vòm trời nhỏ bé.

Đó cũng là những ý nghĩ lo lắng của Sơn khi nhận trọng trách dò la tung tích của hai nhân vật bí mật này. Trải hơn một ngày lang thang khắp các khu vực bến tàu, Sơn không tìm thấy dấu vết gì khả nghi. Có rất nhiều quán nước mang tên quán Bạch Đằng, nhưng đó chỉ là những quán hàng thật nhỏ, sự buôn bán chỉ lèo tèo năm ba chai nước ngọt, một vài ly kem hay mấy chiếc bánh, hoàn toàn không xứng đáng để một tay anh chị cỡ bự như anh Tư có thể hãnh diện mà mang tên. Còn ngay tại bến Bạch Đằng thì những tay sừng sỏ nhất cũng chẳng ai mang cái tên Bạch Đằng. Nó có vẻ… văn nghệ quá, và không dao búa chút nào bằng những cái tên làm rởn mình những loại du côn tép riu ở ngoài bến như: anh Ba Độc Nhỡn, anh Sáu Dao, anh Bảy Búa, chị Năm Rỗ v.v…

Vậy Tư Bạch Đằng vùng vẫy ở đâu? Hùng cứ ở địa phương nào? Sơn đã huy động cả một guồng máy lớn lao của đám trẻ bán báo đồng nghiệp rồi mà vẫn không thấy tăm hơi.

Rồi bỗng một hôm, vào ngày thứ ba của cuộc tìm kiếm, Sơn tình cờ đụng độ ngay chính anh Tư Bạch Đằng! Nói là tình cờ thì cũng không đúng, mà trái lại, đó là kết quả cuộc tìm kiếm cũng muốn hụt hơi của anh Tư Bạch Đằng. Thì ra trong khi Sơn cố gắng tìm anh, thì anh Tư cũng đã lang thang mấy ngày để kiếm nó, thằng ôn con hỗn xược đã dám ăn ngon ơ của anh trăm bạc và đánh lừa gã đàn ông đi xe gắn máy một cú khá đau để đến nỗi gã phun ra khá nhiều điều bí mật ở cửa phòng điện thoại, xế chỗ xẩy ra vụ mưu sát ông già mù.

Sự xuất hiện của Sơn bất ngờ vào buổi sáng hôm ấy khiến bọn chúng rất e ngại. Chúng tự hỏi Sơn là ai? Có liên hệ gì đến ông già mù? Đến giáo sư Thomas Vincent. Tại sao Sơn lại đánh lừa Tín, tên gã đàn ông đi xe gắn máy, một cách tọc mạch, soi mói như thế? Theo lệnh của ông “chủ garage”, Tư Bạch Đằng phải điều tra bằng được thằng oắt con đó để tìm ra manh mối và ngăn chặn tức thời mọi cản trở cho kế hoạch “đom đóm trời” mà chúng đang theo đuổi.

Chính vì thế mà anh Tư Bạch Đằng đã khổ công đi tìm Sơn. Anh có biết đâu rằng chính Sơn cũng đã khổ công tìm anh như vậy.

Và đến bây giờ thì hai người đụng độ bất thần ở ngay kè đá bên bờ sông. Lúc đó Sơn còn đang mải mê liến thoắng trổ tài khai thác tin tức của mấy chị bán rong thì một bàn tay hộ pháp đã túm lấy nó và xoay phắt mình nó lại. Sơn lạnh toát người khi đụng phải khuôn mặt dữ dội của Tư Bạch Đằng sau cặp kính đen cố hữu. Gã đàn ông nhếch một nụ cười khoái trá rồi nói bằng giọng hằn học:

– Thằng ôn con, tao tưởng mày nói dối ăn trăm bạc xong thì cút luôn rồi… hà… hà… mày có chui xuống âm phủ tao cũng lôi mày lên con ạ.

Nói rồi không chờ cho Sơn kịp đối đáp, gã xách áo Sơn lôi xềnh xệch xuống bến. Đáng lẽ Sơn có thể gào to để cầu cứu mấy ông lính đứng gác ở gần đó, nhưng rồi nó lại ngoan ngoãn đi theo, vì nó chợt nghĩ rằng đây là dịp độc nhất để có thể tìm ra tung tích về ông chủ garage và sự liên hệ của ông ta với ông già mù và giáo sư Thomas Vincent với những con đom đóm trời.

Sơn được dẫn qua một khu toàn những mái nhà sàn lụp xụp mùi rác rưởi xông lên hôi thối, và cuối cùng nó bị đẩy lên một chiếc thuyền nhỏ. Lúc con thuyền trôi đi thì mắt nó đã bị bịt kín lại. Nó cố vận dụng giác quan của mình để đoán lấy đường đi.

À, có tiếng chân rậm rịch trên đầu là con thuyền chui qua cây cầu sắt Khánh Hội rồi mùi khét lẹt hơi khí đá (đất đèn) tức là thuyền đã đi qua nhà máy của công ty hóa phẩm Việt Nam, rồi có tiếng ồn ào như họp chợ ở mé sông tay mặt, chắc chắn là nó đã đi qua khu chợ ven sông ở gần miền Xóm Củi Chợ Lớn.

Cứ một cái lối suy luận như vậy, cho đến khi thuyền ngừng lại, xáp vào bờ thì Sơn nhận ra mình bị dẫn vào một khu ồn ào tiếng dệt cửi của vùng nằm sâu trong Chợ Lớn. Kể từ đó Sơn bị đổi xe hai lần, và lần nào khi bước xuống đất, nó cũng bị anh Tư úp chụp lên đầu một cái mũ rộng thùng thình xuống đến gần mũi rồi lôi đi sềnh sệch với một lời rỉ tai đanh thép:

– Coi chừng con ạ. Con mà la lên thì mũi dao này sẽ không tha thứ cho đâu.

Sơn mỉm cười trong bụng và nghĩ thầm:

– Anh Tư chủ quan quá. Nếu đàn em muốn “dọt” thì đàn em đã nhảy xuống sông như một con nhái bén từ lúc ở ngoài kè đá bờ sông kia rồi. Nhưng không vào hang cọp thì làm sao chiêm ngưỡng được dung nhan của cọp mẹ với những cọp con. Vậy thì cứ yên tâm đi anh Tư. Em đi tới nơi về tới chốn mà.

Những tiếng ồn ào của thành phố cứ mỗi lúc một xa dần. Tiếng còi xe như thưa thớt hẳn đi. Mọi tiếng động cũng như chìm dần trong một khoảng trời êm ả. Sơn hít một hơi thật dài và nó ngửi thấy mùi cỏ ẩm ướt. Có lẽ đây thuộc về vùng ngoại ô. Bầu không khí có vẻ thanh tịnh hơn lúc trước chiều.

Còn đang suy nghĩ thì chiếc xe ngừng lại, và Sơn lại được lôi xuống.

Lần này nó có cảm giác như được dẫn qua một con đường đất tới một cái nền tráng xi măng khá rộng, và cuối cùng thì nó được đẩy vào một căn buồng đầy hơi ẩm mốc. Lúc đó cái băng ác nghiệt trên mắt Sơn mới được cởi ra, và nó ngạc nhiên xiết bao, thấy xung quanh vắng lặng không có một bóng người. Căn buồng nầy có lẽ là một chỗ để chứa đồ phế thải dài chừng sáu thước, rộng chừng bốn thước, bốn bề kín như bưng vì bọc kín bởi bốn bức tường vôi. Chỉ có một lối ra độc nhất là cánh cửa gỗ chắc nịch bây giờ đã đóng kín và ở trên sát trần nhà, có mấy ô cửa sổ nhỏ với những dóng sát để ánh sáng lọt vào le lói. Sơn định thần nhìn kỹ chung quanh, thì thấy chỉ toàn những thùng gỗ không, những cuốc xẻng han rỉ, và một vài đống vỏ chai chất đầy ở một góc tối. Sơn cố gắng nghe những tiếng động ở mé bên ngoài xem có gì khác lạ, nhưng khung cảnh thật là yên tĩnh, chỉ thỉnh thoảng Sơn mới thấy có tiếng chó sủa vọng vào từ xa. Nó đoán thầm tiếng sủa ấy phải thuộc loại chó Tây cao lớn, nhanh như điện và khỏe như beo. Điều này cho Sơn thấy đó là trở ngại khá quan trọng nếu sau này nó tìm cách trốn thoát để ra về.

Quan sát một hồi rất lâu, Sơn mệt mỏi nằm quay ra đất ngủ hồn nhiên như một đứa trẻ thơ. Nó nhớ lại lời chị Thu Dung khuyên rằng, trong trường hợp khó khăn, đầu óc bí rì không còn suy nghĩ được gì nữa thì cứ thảnh thơi mà nghỉ ngơi. Khi tỉnh dậy, đầu óc sẽ tỉnh táo hơn, sáng suốt hơn và chừng đó giúp mình nẩy sinh nhiều ý kiến mới lạ. Đó là một nghệ thuật biết đuổi con ma ám ảnh để tìm thấy sự sảng khoái và óc tự chủ.

Theo cái phương pháp đó, Sơn đã ngủ thẳng một hơi không rõ được bao lâu. Cho đến khi nó choàng tỉnh dậy vì có người đá vào cạnh sườn, Sơn mở mắt ra nhìn và nhận thấy cánh cửa gỗ ở góc phòng đã mở rộng, đồng thời ngay cạnh nó có một gã đàn ông cao lớn chùm khăn che gần kín mặt, phía trên chỉ có hai mắt sáng dữ dội. Gã ra hiệu cho Sơn đứng dậy và chỉ tay ra phía cửa phòng, Sơn thầm nghĩ:

– Đã tới lúc rồi đây.

Nó ngoan ngoãn đứng lên và lẳng lặng bước ra. Hai người đi qua một dãy hành lang đầy bóng tối và sau cùng tiến vào một căn phòng trần thiết lộng lẫy. Ở đây đã chờ sẵn ba người: anh Tư Bạch Đằng một người cao to béo bệ vệ và một người nữa khoanh tay đứng hầu ở bên cạnh. Chỉ riêng anh Tư chắc vì đã quen mặt với Sơn nên không cần giấu diếm, còn hai người kia cũng trùm khăn kín mít, chỉ hở có những đôi mắt long lanh.

Anh Tư Bạch Đằng lên tiếng trước:

– Thưa ông chủ, nó đây!

Sơn có cảm giác như bị một luồng nhỡn tuyến lạnh như băng chạy qua người. Thật vậy, ông chủ (chắc là ông chủ garage) đã nhìn nó bằng một cặp mắt chăm chú từ đầu ngọn tóc xuống đến những ngón chân. Một lát ông ta mới cất tiếng, giọng nói khô ngắn, gọn sắc như không vướng bận một đôi chút tình cảm nào:

– Thế nào? Biết điều thì nói hết chứ?

Sơn cúi đầu xuống không đáp, và trong óc nó sửa soạn sẵn một sự chịu đựng chắc là ghê gớm lắm. Quả nhiên gã đàn ông dẫn nó từ căn phòng giam lên đây đã vung bàn tay lên tát vào má nó một cái thật mạnh.

Sơn ngã chúi xuống. Nó có cảm giác như vừa có một gáo nước sôi chạy qua làn má. Gã đàn ông định bồi thêm một cái tát nữa thì ông chủ garge đã giơ bàn tay lên ra hiệu cho gã ngừng lại. Rồi ông ta tiếp tục nói:

– Trẻ con đừng thi gan với người lớn. Nào có ích gì đâu khi chú mày xen vào nội bộ chuyện của người khác. Cứ nói đi, mọi sự sẽ êm đẹp. Bằng không sẽ có nhiều điều ly kỳ xẩy ra mà chắc chú mày không muốn chút nào. Chẳng hạn một lon acit tạt vô khuôn mặt kiều diễm và khả ái của con bé Thu Dung chả hạn.

Sơn cảm thấy lạnh người khi nghe lão ra thốt ra những lời ghê gớm một cách hết sức bình thản như vậy. Trời ơi! Tại sao trên đời lại có những kẻ nhẫn tâm đến như vậy được. Đối với Sơn nó chịu sự hình phạt gì cũng được, nhưng sự đe sọa tạt acit vào mặt chị Thu Dung là điều không thể chấp nhận được. Quả nhiên bọn này là một lũ dã man, tàn ác ngoài sức tưởng tượng của Sơn. Nó chưa kịp phản ứng gì thì lão chủ đã nhấc máy điện thoại vô tuyến để ở cạnh bên lên, xoay tần số và chỉ một lát lão hỏi người ở bên kia đầu dây:

– A lô! Công đấy hả!… Tới chưa?… Con bé đã về nhà chưa? À… à… tốt lắm!… Đừng vô vội. Cứ chờ ở cổng, chừng nào có lệnh sẽ thẳng tay cho nó một lon giữa mặt nghe chưa?

Nói rồi lão đặt máy nói xuống bàn và hất hàm nhìn Sơn với cặp mắt tinh quái. Sơn uất ức nhìn lão buông một tiếng thở dài:

– Thôi được, ông cứ hỏi đi! Và hãy để cho chị Thu Dung yên ổn.

Lão chủ garage gật gù ra dáng vừa ý rồi trầm ngâm một lát, lão lên tiếng.

– Câu hỏi thứ nhất, mày làm gì? Ở đâu?

Sơn trả lời:

– Tôi bán báo cổ động cho tờ Ánh Sáng. Nhà đi ở trọ dưới Bàn Cờ.

– Nói láo! Nghề bán báo của mày chỉ là một nghề để che mắt thế gian.

– Tại sao ông lại nghĩ như vậy?

– Bởi vì từ khi xẩy ra cái chết của lão Viên, mày không có lấy báo ở đâu nữa. Mày đánh đu với con nữ ký giả Thu Dung để xía vào công chuyện người khác. Ai xui tụi bây dại dột như vậy.

– Không ai xui hết. Đó là quyền tự do của mọi người.

Lão chủ garage bật lên một tiếng cười lạnh lẽo:

– Mày nói dễ nghe thật. Bộ tụi tao là con nít lên ba sao mà mày bịt mắt bằng những lý do dễ dàng như thế. Nghe cho rõ đây! Tao hỏi lại: Ai xúi tụi bay xía vào chuyện người khác.

Sơn cãi:

– Tôi đã nói rõ rồi. Không ai xúi hết.

Một tiếng đập bàn vang lên rồi kèm theo một tiếng hét:

– Không ai xúi sao tụi bay biết đường mà tìm tới một ông Vincent, rồi lại vụ viên đá gắn trên mộ bia, rồi lão giáo sư Trần Vũ cũng dính vào công việc của tụi bay nữa.

– À! Vấn đề đó nào có khó khăn gì mà phải cần tới ai xúi. Trước tiên là tôi chứng kiến từ phút đầu cái cảnh tay chân của ông ám sát một cách dã man ông già mù…

– Tầm bậy! Đó là một tai nạn xe hơi!

– Trời ơi! Bộ các ông cho là Sở Cảnh sát đui mù cả hay sao. Vết xe trên đường đã quá rõ ràng. Với lại ông già mù đâu có mù. Ông ta đã chạy trốn một quãng thật xa trước khi bị chiếc xe cán phải.

– Rồi sao nữa…

– Rồi… rồi anh Tư Bạch Đằng xuất hiện một cách lộ liễu…

Anh Tư Bạch Đằng đang đứng một cách nghiêm chỉnh bỗng thấy bị đề cập đến một cách khinh rẻ, cả người anh bỗng khựng lại và anh ta nhìn Sơn bằng cặp mắt như muốn ăn sống nuốt tươi.

Tuy vậy chỉ một cái lừ mắt đanh thép của ông chủ garage là vẻ mặt anh bỗng dịu ngay lại. Anh ta vội vã nhìn lảng lên trần nhà với một vẻ bồn chồn, không yên tâm. Trong lúc đó Sơn vẫn tiếp tục nói:

– Đúng như vậy. Anh Tư Bạch Đằng đã lộ liễu bầy tỏ sự lo lắng chờ đợi của ảnh. Rồi lâu lâu ảnh lại nhìn về chỗ xẩy ra tai nạn một cách hốt hoảng, như thế con nít cũng phải nghi ngờ những cử chỉ của ảnh.

– Đồ nói láo.

Anh Tư gầm lên như thế và chỉ thiếu một chút nữa thì anh đã nhảy bổ lại bóp nát thằng bé trong hai bàn tay hộ pháp. Nhưng lão chủ garage đã giơ tay ngăn lại:

– Chú Tư không được hỗn. Chú phải biết rằng chú đang đứng trước mặt tôi.

Nói đoạn lão quay về phía Sơn hất hàm:

– Nói nốt đi…

– Thế rồi hình như chờ không được anh Tư mới thuê tôi 100đ để nhờ nhắn lại cho một người đi xe gắn máy…

– Thằng Tín!

– Vâng, bác Tín. Ảnh nhờ nhắn bác Tín rằng trước khi về đằng chủ garage, thì hãy ghé qua ảnh trước.

Lão chủ garage thoáng một tia biến sắc:

– À!…

Còn anh Tư thì lồng lên:

– Thằng nhãi ranh, mày chuyên môn đi bịa chuyện…

Lập tức ông chủ garage quát lên:

– Chú Tư! Tôi đã nhắc chú là chú đang đứng trước tôi, chú không được hỗn. Bây giờ chú hãy ra ngoài, nếu cần, tôi sẽ gọi.

Anh Tư còn định phân trần thêm, thì đụng phải tia mắt sắc như dao và lạnh như băng của lão chủ, nên đành khuất phục bước ra, sau khi ném lại cho Sơn một cái nhìn đầy hận thù.

Lúc anh Tư ra khỏi phòng, lão chủ garage nói với Sơn bằng một giọng dịu dàng hơn:

– Này, chú bé! Những lời khai của chú mày rất quan trọng. Nếu chú mày nói đúng sự thực thì từ nay khỏi phải đi bán báo nữa và sẽ có thật nhiều tiền để ăn chơi thỏa thích. Nhược bằng chú mày bịa chuyện thì hãy coi chừng. Ta sẽ bỏ vô rọ đem trôi sông và cho con bé Thu Dung nếm vài lon acit. Nghe rõ chưa?

Sơn đáp:

– Rõ chứ. Tôi nào có dại gì mà đương đầu với một tổ chức qui mô rộng rãi như của ông.

– Khá lắm. Nói như vậy là biết điều đó. Bây giờ tiếp tục đi… Rồi sao nữa?

Sơn ngừng lại một phút để dàn xếp câu chuyện cho hợp lý, rồi tiếp:

– Sau khi anh Tư dặn tôi thế, và đi khỏi một lúc thì Tín mới tới. Bác ta hỏng xe.

– Đúng!

– Bác ta hớt hải tìm anh Tư. Nhưng tôi tự giới thiệu là người của anh. Bác ta tin ngay. Bác ta hỏi cây gậy trúc đã tìm được chưa?

Người lão chủ garage lại nhổm lên một lần nữa và lần này lão không giữ được vẻ bình tĩnh:

– Trời!… Cây gậy trúc…

– Vâng, cây gậy trúc…

– Thế tụi nó tìm thấy rồi hả?

Sơn lắc đầu:

– Làm sao tôi biết được. Nhưng có lẽ là như vậy.

Lão chủ garage hỏi dồn:

– Tại sao lại có lẽ như vậy?

– Bởi vì hình như… hình như.

– Chú cứ nói đi, đây toàn là chỗ thân tín cả…

– Tôi sợ anh Tư lắm!

– Thằng Tư đó việc gì mà sợ. Nó sắp tới số rồi, cứ nói… thiệt đi.

– Dạ… gọi là hình như cho có vẻ cẩn thận chứ thật ra thì chắc đến chín phần mười. Tôi thấy anh Tư cầm một một vật dài non thước bọc ngoài bằng một tờ giấy báo.

Lão chủ garage chồm lên:

– Đúng rồi! Vậy mà thằng chả dám báo cáo là cây gậy trúc biến mất ở bên cạnh xác lão già. Gớm thực! Gớm thực!

Sơn hỏi lại:

– Cây gậy trúc của ông già có gì mà quan trọng đến như vậy?

Lão chủ garage buột mồm:

– Tất cả bí mật về kim cương của ông Thomas Vincent nằm ở trong đó…

Chợt thấy mình lỡ lời, lão vội lảng ra:

– Mà điều đó chỉ là phỏng đoán còn phải có cây gậy trong tay mới biết thực hư được…

Sơn suy luận giùm:

– Vậy chắc là anh Tư Bạch Đằng đã nắm được cái bí mật ấy, nên đã phỗng tay trên của ông rồi báo cáo là mất tích… hèn chi… hèn chi…

Lão chủ garage nhìn Sơn nghi ngờ:

– Hèn chi cái gì?

Sơn đắn đo:

– Tại vì sau khi nghe tôi nói là trước khi về garage hãy ghé đằng anh Tư trước, vẻ mặt của bác Tín sáng rỡ hẳn lên. Bác ta không còn kịp cám ơn tôi một câu và đã phóng thẳng một mạch.

Lão chủ garage nghiến răng ken két:

– Thì nó đã nắm được bí mật quan trọng nhất của nội vụ rồi mà, làm sao mà không sáng rỡ mắt chuột lên được.

Sơn bấm bụng cười thầm về sự nổi giận mỗi lúc một gia tăng của lão ta. Tuy vậy nó cũng không khỏi lo ngại cho tình thế đối với nó mỗi lúc một thêm nguy hiểm. Tạm thời bây giờ nó có thể yên ổn được một thời gian do sự mâu thuẫn giữa lão chủ garage và anh Tư Bạch Đằng về cây gậy trúc biến mất một cách bí mật bên cạnh thi hài của ông già mù cho đến khi cây gậy được tìm thấy. Nhưng hiện giờ nó ở đâu? Không phải anh Tư Bạch Đằng có chủ mưu chiếm đoạt, cũng không nằm trong tay chị Thu Dung hay lão chủ garage. Vậy thì bàn tay bí mật nào đã nhúng vào nội vụ? Thật là khó hiểu. Tuy thế dầu sao sự bí mật này cũng giúp cho Sơn yên ổn được một thời gian. Và trong thời gian đó Sơn phải hành động gấp. Nó nghĩ ngay đến ông thanh tra Mạc Kính. Đã đến lúc nó và chị Thu Dung không thể kéo dài trò chơi nguy hiểm này nữa rồi. Vấn đề cần thiết là bây giờ làm thế nào để báo tin được cho ông ta biết tình trạng khốn đốn của nó đang bị giam giữ. Cả chị Thu Dung nữa, không biết chị sẽ hành động ra sao khi thấy đúng hẹn mà Sơn không trở vể. Đối với Sơn bây giờ, thế giới bên ngoài đã hoàn toàn cách biệt. Nó không thể nhận rõ được mình đang ở đâu và đối diện với ai. Nó đã bị cầm tù với một số phận hết sức ngặt nghèo.

Chỉ còn một cách là tự lực để trốn thoát. Sơn cầu mong sẽ kiếm được một dịp mà bọn chúng sơ hở để ra tay. Càng sớm càng tốt. Nhưng ý nghĩ này làm Sơn bỗng cảm thấy đau nhói ở ruột. Thật khó mà kiểm được một dịp sơ hở gây ra bởi bọn người có tổ chức hết sức qui mô và kinh nghiệm này.

Còn đang mải suy nghĩ thì bỗng lão chủ garage lại cất tiếng hỏi:

– Ê! Chú bé! Còn mẩu đá ở trên mộ lão Vincent hiện tại nó nằm ở đâu?

Sơn nghĩ thật nhanh rồi vội vàng nói dối:

– Trong tay ông thanh tra Mạc Kính.

– Láo! Con bé Thu Dung cất giữ.

– Đúng! Chị Thu Dung đã tìm thấy ở trên mộ ông Vincent, nhưng chị đã gửi cho ông Mạc Kính rồi. Cất giữ làm gì vô ích.

Lão chủ garage vặn lại:

– Nếu vô ích thì tại sao không liệng nó đi lại cứ phải gửi cho lão Mạc Kính.

Sơn biện bác:

– Bởi vì nó liên quan tới ông già mù. Mà ông Mạc Kính thì đang điều tra về cái chết của ông già mù.

– Tại sao con bé Thu Dung lại biết mẩu đá liên hệ tới ông già mù?

– Dễ hiểu quá. Bởi vì nhờ có mẩu giấy do ông già để lại trong đồng xu rỗng ruột chúng tôi mới tìm tới được mộ ông Vincent. Tự mộ ông Vincent vô tình chúng tôi mới tìm thấy mẩu đá phún xuất.

– Lão giáo sư Trần Vũ đã nói gì về mẩu đá ấy?

– Tôi không biết, vì hôm chị Thu Dung tiếp chuyện với giáo sư Trần Vũ không có mặt tôi ở đó.

– Con bé Thu Dung không bàn bạc gì với chú sao?

– Có chứ. Nhưng không phải bàn bạc về viên đá mà liên hệ giữa ông già mù và giáo sư Thomas Vincent.

– Liên hệ như thế nào?

– Cái đó ông thừa biết, cần gì phải hỏi, ông già mù ngày xưa là thuộc cấp của giáo sư Vincent. Hai thầy trò đã theo nhau như bóng với hình trong suốt thời gian giáo sư Vincent làm công việc khảo cổ ở vùng biên giới Lào Việt.

Lão chủ garage buột miệng khen:

– Tụi bay điều tra giỏi lắm, nhanh lắm.

Sơn bồi thêm một lời đoán già:

– Và chúng tôi còn biết cả vụ ám sát giáo sư Vincent hồi năm 1942 khi giáo sư mới đi khảo cổ trở về bằng cách ngụy trang một vụ đụng xe.

Lão chủ garage cười ha hả:

– Khá lắm! Khá lắm! Và ta còn báo cho chú với con bé Thu Dung hay rằng nếu còn tiếp tục nhúng tay vào nội vụ của ta thì sẽ cũng còn những vụ… đụng xe tương tự. Đó là một lời cảnh cáo nghiêm khắc chứ không phải là một lời đe dọa xuông.

Sơn nhún vai:

– Thủ đoạn của các ông chẳng ai là không biết…

– Chú biết cái gì cứ nói thử nghe coi.

Sơn nhìn lão:

– Biết mọi chuyện mờ ám mà các ông đã làm. Nhưng thực sự tôi thắc mắc là tại sao ông cứ phải trừng trị bằng phương pháp đụng xe? Còn nhiều cách nhẹ nhàng gọn ghẽ hơn nữa chứ. Kẹo đồng chẳng hạn. Thơm tho, ngon ngọt mà lại dễ dàng biết bao nhiêu.

Giọng của lão chủ garage trở lên lạnh lùng.

– Điều đó ta không thể chiều chú được. Vì đó là một lời nguyền.

– Ai nguyền với ai?

– Lão Thomas Vincent đã nguyền với cha ta như thế.

Sơn buột miệng reo:

– À!…

– Phải rồi. Ngày xưa không phải đơn độc chỉ có lão Thomas Vincent tìm đến được núi Thiên Mã, mà lão ta đã đi chung với một người. Đó là cha của ta. Hai người đã thề đồng sinh đồng tử trong việc theo đuổi những con đom đóm trời…

– Nói đúng ra là kim cương!

– Phải, một miệng núi lửa lâu đời đầy rẫy những hạt kim cương vô giá.

– Rồi giáo sư Thomas Vincent phản bội lời hứa?

– Đúng! Lão bỗng nổi cơn điên khùng đòi đem vị trí của miệng núi lửa cùng những kim cương đã tìm được trả về cho tài nguyên quốc gia! Thật là một kẻ ngu dại có một không hai trong lịch sử nhân loại.

Sơn cãi lại:

– Đó là một tấm lòng quí giá có một không hai trong lịch sử nhân loại.

Lão chủ garage cười gằn:

– Hừ! Muốn gì thì gì, lão ta dẫu sao cũng đã phản bội lời nguyền. Kẻ nào phản bội sẽ bị chết tức khắc vì tai nạn xe hơi.

– Và như thế, kim cương đã lọt hết vào tay kẻ còn lại…

Lão chủ garage lắc đầu:

– Nếu sự việc chỉ có như vậy thì đâu có lắm chuyện rắc rối xẩy ra sau đó. Khi lão Thomas Vincent bị kết án rồi thì lão Viên, tức tên thuộc hạ, tức lão già mù, đã sát hại cha ta để trả thù cho lão Thomas Vincent rồi ôm tất cả bí mật của núi Thiên Mã biến mất. Trải gần hai mươi năm theo dõi, Lão bị bắt hụt sáu lần, và lần cuối cùng lão giả dạng làm ông già ăn mày mù khi cảm thấy vòng vây đang khép kín. Nhưng tránh sao nổi cặp mắt của tổ chức chúng ta, để cuối cùng lão đã đền tội theo đúng lời nguyền mà ngày xưa, chủ cũ của lão đã thốt lên.

– Còn bí mật về những con đom đóm trời.

– Lão Viên nắm giữ cả. Nó gồm có ba di vật cần thiết: tấm bản đồ, mẩu đá phún xuất và cây gậy trúc. Thiếu một trong ba thứ đó sẽ không thể nào tìm lại được núi lửa Thiên Mã.

– Tấm bản đồ hiện ai giữ.

– Nó nằm trong ruột của cây gậy trúc. Nó không phải một tấm bản đồ xác định rõ rệt tọa độ của Thiên Mã Sơn, nhưng nó hướng dẫn phương pháp đi tìm lại số kim cương do lão Thomas Vincent cất giấu. Còn muốn tới được vị trí của miệng núi lửa thì phải căn cứ vào mẩu đá phún xuất. Có một bộ lạc biết rõ nơi có loại đá phát quang này, nhưng phải đem nó tới cho họ nhận diện họ mới chỉ.

– Thế còn cây gậy trúc?

– À đó là một thứ thước dùng trong tấm bản đồ. Tấm bản đồ ghi 82 thước chẳng hạn, thì không phải 82 thước tây hay thước ra mà 82 chiều dài của cây gậy trúc.

Sơn chép miệng thở dài:

– Thật là rắc rối, bí hiểm, và nếu như vậy thì con đường tiến tới chỗ có kim cương còn thật là xa xôi. Nhưng tôi xin ông chủ vui lòng cho tôi đặt một câu hỏi chót.

– Cứ hỏi đi.

– Tại làm sao ông lại thổ lộ cho tôi biết hết mọi bí mật như vậy?

– Để đề nghị với chú một sự hợp tác.

Sơn ngạc nhiên:

– Hợp tác?

– Phải! Trước tiên chú là kẻ thân thiết với lão thanh tra Mạc Kính, chú có thể tìm cách lấy lại cho tôi mẩu đá phát quang.

Sơn gật gù:

– Cái đó có thể làm được.

– Hay lắm! Sau nữa chú sẽ theo kế hoạch của tôi đánh lạc hướng điều tra của sở cảnh sát về cái chết của ông già mù. Trong chiến dịch “Những con đom đóm trời” tôi không muốn có bàn tay của cảnh sát nhúng vô.

– Kế hoạch ấy như thế nào?

– Dễ lắm, nhưng tôi sẽ trình bày tỉ mỉ sau, nếu chú nhận lời. Còn một điều nữa, là chú phải tìm cách bảo con bé Thu Dung ngừng ngay loại bài phóng sự điều tra về cái chết của ông mù đang bắt đầu khởi đăng trên báo Ánh Sáng. Tôi không muốn vụ này gây sôi nổi trong dư luận.

– Hừ, cái này hơi khó đấy, không một áp lực nào có thể tước đoạt sự tự do của người cầm bút.

Lão chủ garage cười gằn:

– Có chứ! Võ lực có khả năng nhiệm mầu làm được công việc đó. Này chú bé, con bé Thu Dung thật là kiều diễm, một kỳ công của tạo hóa. Nào ai muốn nó bị acit làm cho loang lổ phải không chú nhỉ.

Sơn buột miệng:

– Ông thật là người tàn nhẫn hết sức. Không hiểu ông là hạng người có tấm lòng sắt đá như thế nào…

– Thế nào mặc lòng, ta hỏi chú, chú có bằng lòng cộng tác với ta không?

Sơn tò mò:

– Tôi sẽ được hưởng những quyền lợi gì?

– Một phần năm số kim cương tìm thấy! Bằng lòng chưa? Một gia tài lớn lao xứng bậc tỷ phú rồi đấy nhé.

Sơn gật đầu

– Được, tôi đồng ý! Vậy xin thả tôi ra ngay khỏi đây.

Giọng lão chủ garage bỗng đanh lại:

– Này, tôi nói cho chú hay, đối với bọn tôi, lời nói là như dao chém vào đá. Tôi sẽ không tha thứ cho bất cứ một hành vi phản bội nào. Nếu chú manh tâm lợi dụng sự hợp tác này để quay quắt thì cả chú lẫn con bé Thu Dung đều lãnh đủ những hậu quả trầm trọng sẽ xẩy đến, chú hiểu không?

Sơn già vờ sốt sắng:

– Tôi hiểu chứ, chẳng dại gì mà tôi từ chối một gia sản nâng tôi lên từ một thằng bé bán báo lên hàng tỷ phú! Phản bội ông có ích gì cho tôi đâu.

Lão chủ garage gật đầu ra vẻ bằng lòng:

– Khá lắm. Thế là chú biết đường lui tới đấy. Thôi kể từ phút này chú được tự do. Nhân viên của tôi sẽ bịt mắt chú và đưa về Chợ Lớn. Đây là biện pháp an ninh cần thiết mong chú thông cảm.

Sơn gật đầu:

– Tôi hiểu! Không bao giờ tôi lại phản đối một chuyện rõ ràng cần thiết cho ông như vậy.

– Xin cám ơn chú. Chú là một kẻ thật hết sức biết điều. Chú đi nghỉ đi. Chừng nào có thể ra về được tôi sẽ báo tin cho chú hay.

Lão vừa nói dứt lời thì bỗng cánh cửa bật mở và có một kẻ lạ mặt bước vào. Gã này có một điệu bộ rất vội vã, gã tiến lại phía lão chủ garage nói thì thầm những gì không rõ nhưng Sơn chỉ thấy qua lần vải bịt mặt, con mắt của lão ta long lên sòng sọc, đồng thời hai bàn tay của lão nhiều lúc nắm chặt lại biểu lộ một sự xúc động sâu xa, một nỗi uất ức sắp sửa nổ tung vào bất cứ lúc nào. Quả nhiên chỉ một phút sau, lão ta đập mạnh tay xuống mặt bàn làm rung chuyển cả các đồ đặt trên đó, và giọng lão ta hét to như muốn gào lên:

– Thằng nhãi con chó chết. Dãm vuốt cả râu hùm. Tao phải cắt mày ra làm trăm mảnh mới hả được cái giận này.

Sơn làm bộ ngơ ngác:

– Cái gì thế, thưa ông?

Lão chủ garage chưa kịp trả lời thì một hồi chuông ở góc phòng vang lên. Tiếng chuông rền rĩ đúng một hồi thì ngưng lại. Lão ta gằn giọng:

– Lệnh báo động số 1, có dấu hiệu của đoàn xe cảnh sát tiến vào đường đất đỏ. Sơn! Có phải mày đóng vai khổ nhục kế chịu bắt tới đây làm mồi cho cảnh sát câu hết bọn tao không?

Sơn sửng sốt thực sự. Sự sửng sốt đến nỗi khiến nó quên cả nỗi vui mừng. Bởi vì từ khi bị anh Tư Bạch Đằng dẫn đi ở kè đá ngoài bờ song, luôn luôn Sơn thấy mình cô đơn trong hang cọp. Còn đang phân vân chưa kịp trả lời thì lão chủ garage đã vồ lấy cái ống nói và quát lớn:

– Án binh bất động! Có thể chúng nó đi bắt hàng lậu ở Ấp dưới. Sửa soạn kế hoạch phòng thủ chờ lệnh báo động số 2. Dặn tốp gác ở cổng ngoài nếu thấy chúng nó rẽ vô thì bấm chuông ngay.

Dặn dò xong lão quay về phía Sơn hất hàm:

– Thế nào? Mi giấu diếm cái gì thì nói hết ra đi. Đừng hòng mong chúng nó tới cấp cứu. Ở đây nhiều lối thoát bí mật lắm con ạ.

Sơn lắc đầu:

– Thực sự tôi không biết gì cả. Suốt từ hôm ông già mù bị ám sát, tôi không hề gặp lại ông thanh tra Mạc Kính.

Lão chủ garage đập bàn:

– Nói láo!

Sơn hét lại:

– Tôi không nói láo! Tôi không liên hệ gì tới hoạt động của Sở Cảnh sát.

Trước tiếng hét bất ngờ một cách quả quyết của Sơn, tia mắt của lão chủ garage thoáng một nghi ngờ. Lão nhìn Sơn để đánh giá sự thành thực của nó một lần nữa. Rồi cuối cùng lão nhún vai:

– Được! Chỉ vài phút nữa tao sẽ biết được sự thành thực của mày. Nếu không có lệnh báo động số 2 tức là nếu cảnh sát đi thẳng vào ấp dưới thì tao mới có thể tin được…

Nhưng lão chưa nói dứt lời thì tiếng chuông ở góc phòng lại reo lên khẩn cấp. Lệnh báo động số 2 đã thực sự xẩy đến và căn nhà đã bị bao vây. Lão chủ garage bật dậy, quay về phía tên vệ sĩ vẫn đứng lầm lì từ phút đầu và ra lệnh:

– Giữ thằng này làm con tin. Hẹn gặp lại tất cả ở Công trường 4 vào ngày mai…

Nói rồi lão hấp tấp xô chiếc ghế để lách ra và định đi về phía cửa phòng trong. Nhưng lão ngạc nhiên biết bao khi thấy tên vệ sĩ của lão đã đứng án ngữ lối đi của lão từ lúc nào. Lão quát lên:

– Mạnh! Mày làm cái gì thế?

Chợt tên vệ sĩ cười phá lên, tiếng cười làm cho Sơn trố mắt ra nhìn. Trong khoảnh khắc, chiếc khăn che mặt gã được gỡ xuống. Cả Sơn và lão chủ garage cùng kêu thốt lên:

– Ông Mạc Kính!

Hiển nhiên đó là ông Mạc Kính với khuôn mặt cương nghị, dắn dỏi quen thuộc, ông ta cúi đầu thi lễ rất cung kính rồi nói:

– Xin kính chào ông Đông Hưng, vị thương gia khả kính của vùng Chợ Lớn, và đồng thời cũng là vị chỉ huy tối cao của tổ chức Hoa Phù Dung bấy lâu vẫn từng khét tiếng…

Lão chủ garage lảo đảo đến tưởng chừng như sắp ngất xỉu. Và khi dải khăn trên mặt của lão bị giật xuống, Sơn thấy mặt lão tái xám như chàm đổ. Trải một giây kinh hoàng như sét đánh qua đi, lão lấy lại vẻ bình tĩnh thản nhiên hàng ngày và lão nói bằng một giọng kẻ cả:

– Mạc Kính! Ông giỏi lắm! Tôi xin bội phục.

Ông Mạc Kính nghiêng đầu:

– Xin cám ơn về lời khen tặng quá nồng nhiệt của ông. Nhưng trước khi được tiếp tục hầu chuyện với ông, chắc ông cũng đồng ý với tôi là mình chẳng nên gây đổ máu ở đây làm gì chớ?

Lão chủ garage hiểu ý, giơ tay nhấc ống nói lên và chậm rãi nói bằng một giọng lạnh như băng:

– Ê! Tất cả các chú nghe đây. Ông thanh tra Mạc Kính hiện có mặt ở cạnh tôi và chúng ta thất bại rồi. Giải tỏa hết lệnh phòng thủ để tránh đổ máu vô ích. Tôi ngợi khen các chú về sự giữ gìn an ninh đến độ có kẻ lạ mặt vào chỗ an toàn mà không hay biết. Đời còn dài lắm các chú ạ…

Câu nói chì chiết của lão như một khối băng rót vào ống nói và trên cặp mắt của lão thoáng một tia đỏ ngầu. Khi lão dứt lời, ông Mạc Kính vỗ tay:

– Hay lắm. Cư xử cho hợp với hoàn cảnh như vậy mới đúng là tư thế của Chủ tịch hội Phù Dung. Bây giờ Mạc Kính tôi có thể yên tâm hầu chuyện với ông…

Lão chủ garage mỉa mai:

– Còn gì nữa đâu mà nói. Tôi sẵn sang đi theo ông đây. Và chỉ cần ông nhớ cho một điều là cuộc đời còn dài lắm đấy.

– Vâng cái đó khỏi cần ông nhắc nhở. Bây giờ chỉ cần ông xác nhận với chúng tôi một vài yếu tố. Chắc ông đủ can đảm nhận lãnh việc mình làm chớ…

– Không bao giờ tôi làm điều gì mà tôi lại phải ân hận để từ chối.

– Tốt lắm. Có như vậy mới chứng tỏ là xứng đáng chức Chủ tịch của Hội Hoa Phù Dung. Vậy thì, thưa ông Chủ tịch, ông công nhận ông chủ mưu trong vụ sát hại ông già Nguyễn Quốc Viên ở ngã tư đường Nhân Ái Chợ Lớn chứ?

– Đối với tôi, đó còn là một bổn phận, một nghĩa vụ thiêng liêng.

– Tôi biết. Ông cần thanh toán món nợ máu đối với kẻ đã sát hại cha của ông. Nhưng ông phải biết rằng chúng ta đang sống trong một xã hội có tổ chức, có pháp luật. Xã hội sẽ trở nên hỗn loạn thế nào nếu ai cũng muốn thanh toán nợ nần theo kiểu đó.

– Chúng tôi có điều kiện hoạt động riêng của chúng tôi. Ông Thanh tra chẳng nên lý tới.

– Vâng tôi xin lỗi. Nhưng ông phải hiểu rằng nước ta cũng có pháp luật và những tòa án. Bây giờ tôi xin hỏi thêm một câu thứ nhì về cái chết của giáo sư Thomas Vincent. Chắc giáo sư Vincent thì chẳng nợ nần ai hết chứ, phải không ông? Tại sao các ông cũng sát hại giáo sư tương tự như vạy?

– Bởi vì lão Vincent phản bội lời hứa. Chúng tôi chỉ tuyệt đối thi hành hợp đồng mà lão ta đã ký bằng tâm huyết với chúng tôi. Và bây giờ, tôi xin ông cho tôi hỏi lại ông một điều chót:

– Xin sẵn sàng.

– Cây gậy trúc bây giờ ở trong tay ai?

Ông Mạc Kính mỉm cười:

– Xin mạn phép ông. Sở Cảnh sát đã gìn giữ thay cho tổ chức của ông rồi.

Lão chủ garage thốt lên:

– Vậy không phải Tư Bạch Đằng phản bội tôi.

– Đúng!

Lão chủ garage ném cho Sơn một cái nhìn uất ức. Sơn cố nén một nụ cười, cho dù nụ cười hiền hòa, không châm chích một kẻ ngã ngựa. Ông Mạc Kính nhìn Sơn rồi quay lại nói:

– Vâng, đúng là Tư Bạch Đằng không phản bội gì ông hết. Đó chỉ là chú Sơn giầu tưởng tượng bầy đặt ra để làm kế hoãn binh mà thôi. Sở Cảnh sát chúng tôi có hân hạnh lượm được cây gậy ấy trước khi người của ông tới.

Sơn nhìn ông Mạc Kính thán phục. Nó thầm nghĩ: thảo nào lúc xẩy ra tai nạn, nó đã tìm kiếm kỹ một hồi mà không thấy. Bỗng lão chủ garage nhún vai:

– Ông chưa thể biết giá trị của cây gậy ấy đâu…

Ông Mạc Kính mỉm cười tinh quái:

– Cám ơn lòng tốt của ông. Nhưng thực ra chuyên viên mật mã của tôi đã khám phá hết rồi, bên trong cây gậy là một lá chúc thư của ông già mù dặn tặng Viện Dưỡng lão cái mũ và cặp kính của ông ta khi ông ta chết…

Lão chủ garage phá lên cười:

– Vậy là chuyên viên của ông rất dở và các ông chưa biết gì hết. Tôi đề nghị một sự đánh đổi. Ông cho tôi tự do tôi sẽ nói hết bí mật của lá chúc thư ấy.

Ông Mạc Kính lắc đầu:

– Thưa ông Đông Hưng, tôi rất lấy làm tiếc. Bởi vì ông đề nghị quá sớm khi chưa nghe tôi nói hết. Thực ra chúng tôi đã biết rằng lá chúc thư chỉ là một hình thức ngụy trang một vật quí giá ở bên trong. Xin ông nghe bản phúc trình này trước đã rồi hãy kết luận về tài năng các chuyên viên của tôi.

Nói rồi, ông Mạc Kính lấy một tờ giấy trong túi ra và chậm rãi đọc:

– Báo cáo kết quả giảo nghiệm của công tác số A, 3186. Cây gậy trúc dài 0,86m đường kính 0,04m, gồm 3 gióng. Gióng 1 dài 0,38m, gióng 2 dài 0,32m, gióng 3 dài 0,16m. Đầu trên bịt bạc, đầu dưới bọc đồng thau. Miếng đồng thau là một nắp xoáy trá hình, có thể tháo ra bằng 6 vòng ốc. Nắp này cho biết gióng 3 rỗng ruột và bên trong chứa một tấm giấy da hình chữ nhật dài 12cm rộng 8cm, mặt da ghi một hàng chữ:”Tài sản của tôi chỉ có cặp kính chiếc mũ và cây gậy này. Tôi xin tặng vào viện Dưỡng lão An Hòa để người khác có thể sử dụng“. Miếng giấy da này chỉ là loại da giả được chế tạo bằng chất polyacrylique trộn với Alcool Méthylique, Acétate d’Amyle và Huile de Ricin thành một bản da chịu được nước. Ở giữa các lớp bồi trên tấm da giả này chúng tôi tìm thấy một bản đồ mà bản photocopie dính kèm theo đây.

Lão chủ garage giơ tay:

– Thôi thế là đủ. Các ông đã biết quá nhiều. Tôi chịu nhận là kẻ thất bại hoàn toàn.

Ông Mạc Kính gấp tấm giấy lại, bỏ vào túi áo rồi nói:

– Xin cảm ơn ông. Vậy ông cho phép chúng tôi được mời ông ra xe.

Lão chủ garage uể oải đứng dậy. Ông Mạc Kính tiến theo sau. Lúc qua chỗ Sơn đứng ông ta nói:

– Chú Sơn cũng về luôn nhé. Chiều mai mời chú với cô Thu Dung đi ăn cơm ở Ngân Bình. Tôi sẽ cho người tới đón.

Sơn định hỏi thì ông đã ngăn lại:

– Chắc chú thắc mắc về sự hiện diện bất ngờ của tôi ở đây phải không. Thôi để mai mình nói chuyện nhiều.

Nói rồi ông tất tả đi ra, theo sát lão Đông Hưng lúc này cũng đang cất bước với vẻ thiểu não của kẻ bại trận.