Chương 16
Con sẽ đi đâu, ngoài thế giới này?”
Đó là một bình minh rực rỡ, ánh sáng bất chợt soi rọi ký ức con người, và những ký ức đau đớn của họ được trao gửi cho bóng đêm đang thoái lui, bóng đêm tan dần và mang theo những kỷ niệm xót xa đó. Trên vòm mái nhà thờ Saint-Isaac, hai bàn tay dài và trắng của Chúa toàn năng nắm chặt đầu một quả trái phá chưa nổ và bồng bềnh trong không trung như lông chim bồ câu. Phải sống và chóng quên đi, phải để cho ánh sáng xóa nhòa bức tường rào bao quanh mộ địa. Xung quanh tu viện Mont-Cassin, những dải áo của lính mộ từ dưới đất nhô lên như những bông hoa lạ mà một cơn gió nhẹ mùa hè mơn man âu yếm, dọc theo bờ biển Latvia, những đợt sóng xám của biển Baltic đã mài nhẵn xương cốt của những đứa trẻ bị vùi lấp trong cát để tạc thành những đồ trang sức hổ phách hóa thạch trông lạ mắt, trong cánh rừng đầy nắng, từ đó Sulamith sẽ không trở về theo tiếng gọi vô vọng của đức vua, từ đó phấn hoa trên mái tóc bằng tro của Sulamith bay ra, mặt đất xanh rờn đầy da thịt người rách bươm, đầy những xác người, cả mặt đất như đang dựa vào vòm vai gãy của họ nhưng bình minh rực rỡ đã nhô lên, và, trong ánh sáng rạng ngời của nó, những xác người bị lãng quên chỉ còn là đống mùn màu mỡ của thế giới mới. Làm sao Marcel có thể lưu giữ được kỷ niệm về những người đã chết khi mà sau sự hoài phai chậm chạp của chiến tranh, lần đầu tiên, thế giới này mở ra trước mặt ông những đường tụ trên những con đường sáng của ông? Tất cả những người còn sống được huy động vào nhiệm vụ tái thiết đầy hứng khởi và Marcel là một trong số đó, bàng hoàng trước biết bao nhiêu những cơ hội, sẵn sàng lên đường, mắt chói lòa trước ánh sáng, ông toàn tâm toàn lực hướng về một tương lai cuối cùng cũng đã xóa bỏ cái chết. Thế giới mới tuyển thầy ký, cử họ đi các nước thuộc địa để khai thác cái chất cần thiết cho cơ thể tham lam và vinh quang của nó đứng lên, và thế là họ đi khai thác từ mỏ, rừng và cao nguyên những thứ mà thế giới háu ăn háu đói đó đòi hỏi. Trước khi đi Tây Phi thuộc Pháp, nơi ngày xưa những con sông phía Nam chảy qua, Marcel tưởng rằng tư cách công chức sắp tới buộc mình phải chọn một cô vợ. Trong làng có nhiều cô gái đến tuổi lấy chồng và Marcel nhờ anh mình, bấy giờ đang trong cảnh nhàn cư chờ đợi được gọi đi Đông Dương, bí mật tìm hiểu qua gia đình họ xem những cô nào sẵn sàng nhận lời nếu có người hỏi cưới. Ngay ngày hôm sau, Jean-Baptiste cho biết đã hoàn thành nhiệm vụ, y cũng nói rõ, vì quá nhiệt tình nên không may ý đồ kín đáo của y đã tiêu tan. Y đã bắt đầu tìm hiểu từ quán bar bằng cách nói chuyện với anh cả của một cô gái thuộc gia đình khá giả. Hai người đàn ông rất có cảm tình với nhau, đến mức cùng nhau uống rượu đến say và ngả vào vòng tay nhau, khi đó Jean-Baptiste mới bất ngờ chính thức hỏi cưới cô em của anh ta cho Marcel, đẩy Marcel vào một tình thế khó xử, và càng khó xử hơn khi người anh của cô gái hớn hở chạy đi báo tin mừng cho bố mẹ mình, Jean-Baptiste cũng vô cùng xúc động đi theo. Không thể nào mạo hiểm xúc phạm những người này bằng cách lấy cớ rằng đó chỉ là sự nhầm lẫn, sự nhục nhã có thể biến họ thành những kẻ dữ tợn và do vậy, Marcel phải chấp nhận cô vợ trẻ mà số phận cũng như sự quảng giao thái quá của người anh cùng mang lại. Cô vợ mới mười bảy tuổi, sắc đẹp e lệ của cô an ủi Marcel cho đến khi, sau một hồi nói chuyện, ông nhận ra rằng vợ mình ngu ngốc đến độ gần như tuyệt đối bởi cái gì cũng khiến cô ta kinh ngạc và nhìn người chồng mới với ánh mắt đam mê, ngưỡng mộ đến nổi Marcel luôn dao động giữa sung sướng tràn trề và tức tối khó chịu trong khi con tàu đưa họ sang châu Phi đi qua núi Gibraltar và rẽ sóng Đại Tây Dương. Chống khuỷu tay lên thành tàu, vợ Marcel trao gửi sự ngây thơ của mình cho những cơn gió lạ và nếm bằng đầu lưỡi vị mặn của bụi nước giá băng, cô cười và run mạnh đến nỗi, đột nhiên, cô ẩn mình vào vòng tay của Marcel, đặt ông vào tình thế không biết nên quở cô giả vờ giả vĩnh hay cảm ơn sự nhiệt huyết trẻ con của cô, ông lưỡng lự trong chốc lát, bối rối và vụng về, nhưng rốt cuộc ông luôn ôm chặt cô vào lòng, không sợ hãi, không ghê tởm, bởi vì cô có cơ thể ấm áp và trắng muốt của một thiên thần trước khi gãy cánh, bay lên một cách thần kỳ từ một thời đại còn chưa biết đến chướng khí của tội lỗi và dịch bệnh. Qua ô cửa sổ, bến bờ xa xôi mỗi lúc mỗi trở nên hoang dã, cây cối vặn mình cúi xuống những con sóng, ở cửa những con sông bao la đang vạch lên đại dương trong xanh những đường lượn bằng bùn, nắng nóng trở nên ngột ngạt và gần như suốt ngày Marcel ở trong cabin, nằm lì trên giường cùng với vợ, ông để cho cô quỳ gối lên mặt mình, hai tay chống vào vách ngăn, cô vừa cười vừa thở hổn hển đằng sau làn tóc rối tung, ông để mặc cho cô ngắm nhìn ông, vuốt ve ông với sự tò mò của đứa học trò, đôi lông mày nhíu lại, sờ vào từng bộ phận cơ thể ông như để chắc chắn rằng ông không phải là một bóng ma sắp biến mất trong ánh sáng, ông để mặc cô trần truồng trơ trẽn ngồi xếp bằng ở đầu giường, rồi ông trườn về phía cô, gối đầu lên đùi cô và ngủ trong chốc lát, hoàn toàn thoát khỏi con đĩ ở Marseille, bởi vì những cái vuốt ve của cô vợ trẻ đã rút hết từ mạch máu của ông những giọt độc cuối cùng mà ông đã bị nhiễm phải, ông không còn sợ gi nữa. Những cơ thể người không còn là những ổ mủ thối trong đó những con quỷ xấu xa mờ ám đang canh chừng và Marcel lẽ ra đã rất hạnh phúc nếu như lo âu không xâm chiếm lấy ông mỗi lần ông phải xuất hiện cùng vợ ở bàn ăn trên boong tàu, ông luôn sợ ai đó hỏi vợ ông một câu vớ vẩn nào đó mà cô trả lời một cách ngu ngốc đến mức cả bàn ăn im bặt, nếu không thì cô lại không trả lời gì mà chỉ há miệng ngạc nhiên rồi vừa rúc rích cười vừa cúi mặt xuống, và ông khổ sở vô cùng mỗi lần cô nói với ông trước đám đông, ông xấu hổ vô cùng khi cô nói với ông bằng tiếng Corse, cái thổ ngữ buồn cười mà ông không tài nào xua đi nổi những âm vang khó chịu của nó, nhưng đồng thời ông lại cảm thấy nhẹ nhõm bởi vì không ai có thể hiểu điều cô muốn nói, và ông chờ đến lúc có thể đóng cửa cabin lại, tự giam mình trong sự gần gũi, chỉ có sự gần gũi này mới chiến thắng được những oán hận và dằn vặt trong lòng ông. Ông làm biên tập viên cho cơ quan hành chính nhà nước của một thành phố lớn ở châu Phi, cái thành phố giống một đống bùn và khu nhà ổ chuột không tưởng hơn là một thành phố mà ông từng ao ước, bởi vì thế giới vẫn bền bỉ làm cho những ước mơ của ông trái khoáy ngay cả khi đã trở thành sự thật. Trên đường phố, hương thơm nồng nặc đến mức quả chín hay hoa tươi cũng tuồng như bốc lên mùi độc hại của sự thối rữa, ông thường phải kìm nén những cơn buồn nôn bằng cách lang thang, trong bộ đồ bằng vải lanh chỉnh tề, giữa những con người và súc vật, hơi hám của thịt da ngoại lai và hoang dã bốc lên từ những bộ quần áo vải màu mè cà vào nhau sột soạt và cảnh những người bản xứ sát sạt chen nhau khiến cho ông càng ngày càng ghê tởm, ông đến đây không phải để mang văn minh đến cho họ, thứ văn minh đó bản thân ông cũng chỉ biết phong thanh từ xa qua giọng nói của các ông thầy, mà ông đến để đòi một món nợ lâu đời bị khất trả từ rất lâu, ông đến để sống một cuộc sống mà ông xứng đáng được hưởng, một cuộc sống đã luôn thoát khỏi vòng kiềm tỏa của ông. Ông không đặt hy vọng vào Chúa Trời mà đặt vào cái ghế công chức, tin tức tốt lành về cái ghế đó vừa mới được thông báo cho những người con của nền Cộng hòa, nó cho phép ông không phải qua giai đoạn ngồi trên ghế nhà trường thuộc địa mà vẫn được thăng quan tiến chức bình thường để cuối cùng có thể thoát khỏi minh phủ, nơi mà khi ra đời ông vẫn chưa hoàn toàn thoát khỏi. Ông ôn thi công chức và đồng thời rũ khỏi những vết sẹo gớm ghiếc của quá khứ, đoạn tuyệt với điệu bộ, dáng đi, nhất là giọng nói của ông, và ông gắng gượng nói với một giọng rõ ràng, không trọng âm, như thể ông đã được nuôi dạy tại một trang viên ở Touraine, ông phát âm họ của mình một cách giả tạo, bằng cách nhấn mạnh âm tiết cuối, ông kiểm soát thận trọng độ mở của các nguyên âm, nhưng lại phải thất vọng chấp nhận tiếp tục phát âm r rung lưỡi bởi vì, khi cố gắng phát âm r gốc lưỡi, bao giờ ông cũng chỉ phát ra một tiếng khạc tồi tệ như tiếng mèo gừ hay tiếng rên khàn khàn của kẻ hấp hối. Jeanne-Marie viết thư báo cho ông biết André Degorce đi Đông Dương trong một trung đoàn lính dù, chị nói với ông về những lo ngại của mình, về niềm vui khi cô con gái nhỏ chào đời, chị mô tả chi tiết về tuổi già của bố mẹ, mỗi một bức thư của chị đưa ông trở lại với cái tội lỗi không bao giờ có thể chuộc lại về cội nguồn của mình cho dù giờ đây ông cảm thấy rất thoải mái ở phòng làm việc cũng như trong những bữa ăn tối dành cho các tùy viên hành chính, ông phải đi ăn một mình vì sợ sự hiện diện của cô vợ làm tiêu tan niềm vui nhỏ nhoi đang giúp ông thoát ra khỏi chính mình, và cô ở nhà chờ ông, ẩn nấp trong thành trì sung sướng của sự ngây thơ vui vẻ và không hề thay đổi. Cô không chịu học bất cứ thứ gì, cứ luôn nói tiếng Corse và giúp cô hầu người Malinké* trong công việc nội trợ, dù Marcel có trách nhưng cô bắt ông phải im lặng ngay bằng những nụ hôn và những cái vuốt ve tới tấp, cô lột truồng ông rồi kéo ông vào giường, ông ngã người xuống, hai tay dang rộng trong khi cô bỏ màn. Ông nhìn cô, nhè nhẹ thổi vào cặp vú ẩm ướt của cô, hôn vào bẹn cô, hôn lên môi, lên cánh mũi, lên mi mắt cô, và rồi một ngày ông rất ngạc nhiên khi nhận ra cái bụng tròn trĩnh của vợ
•
Một dân tộc ở Tây Phi, sống chủ yếu ở Mali và Guinée.
mình, nơi ông đang đè lên. Cô bảo ông rằng cô đã hơi lên cân, váy cô hơi chật, cô ăn quá nhiều, cô biết thế, rồi ông đỏ mặt hỏi cô lần cuối cô có kinh là khi nào nhưng cô không biết, cô không để ý, thế là ông ôm lấy cô, ông ôm lấy cô và nhấc bổng cô lên cùng sự ngơ ngẩn hồn hậu của cô, cùng cái cười và những âm vang của tiếng nói hoang dã, thứ ngôn ngữ mà ông không muốn đó cũng là ngôn ngữ của chính mình, và ông thả mình theo một niềm hân hoan phi lý, một niềm vui thú vật mà ông không hiểu cũng chả sao bởi niềm vui đó không đòi hỏi phải được người ta hiểu, không đòi hỏi người ta phải tìm ra nghĩa mới được. Cô vợ có thai sáu tháng thì Marcel, sau khi trúng tuyển cuộc thi nội bộ, được thăng chức làm quản lý một phân chi hẻo lánh ở ngoài rìa một tỉnh xa xôi không thuộc địa ngục mà chỉ thuộc một địa bạ thuộc địa. Từ giờ, ông quản lý một vùng đất rộng lớn, trong vùng đất ẩm thấp này, chỉ có côn trùng, người da đen, cây dại và ác thú. Lá cờ Pháp lòng thòng trên một chiếc cán như chiếc áo rách rưới sũng nước treo trên trán tường nhà ông, nằm hơi xa một ngôi làng nghèo xơ xác có những túp lều được dựng lên bến một con sông lầy bùn, dọc theo con sông đó, có những đứa trẻ đang dùng một sợi dây dắt một đám người già mù lòa, dưới một bầu trời trắng nhờ y như đôi mắt chết của họ. Láng giêng của ông gồm một viên cảnh sát hiến binh mà sở thích uống rượu ngày càng được khẳng định, một tay bác sĩ giờ đây đã nghiện rượu cùng một nhà truyền giáo chuyện hát nhạc lễ bằng tiếng Latin trước những người phụ nữ ngực trần và thường cố gắng thu hút một cử tọa ương ngạnh bằng cách nhắc lại câu chuyện của Chúa Trời, Chúa đã biến thành con người trước khi chịu chết để cứu rỗi cho tất cả bọn họ. Cùng với những con người đó, Marcel cố gắng không để cho ngọn lửa văn minh tắt lịm, họ là những nữ tu sĩ Vesta duy nhất*, họ được những chàng trai ăn mặc theo kiểu bếp trưởng phục vụ ăn tối, những anh bồi này đặt bát đĩa sáng choang lên những tấm khăn trải bàn màu trắng được là ủi cẩn thận, Marcel để người vợ vừa tròn vừa vui vẻ ngồi cùng bàn với họ bởi vì, trong trò hề mà ông biết mình đang diễn với những diễn viên phụ khốn khổ, những tập tục xã hội, sự vụng về hay trò cười không còn nghĩa lý gì nữa, ông không muốn nhân danh những thứ đó mà chịu thiếu người giờ đây là nguồn vui duy nhất của mình. Không có cô, niềm cay đắng về sự thành công trong xã hội chắc hẳn sẽ không thể nào chịu đựng nổi với ông và ông nghìn lần muốn làm người thứ mười, thứ hai mươi ở La Mã còn hơn trị vì một vương quốc hoang tàn man rợ ở nơi tận cùng Đế chế, nhưng không bao giờ ông được quyền lựa chọn vì La Mã không tồn tại nữa, La Mã đã bị hủy diệt từ lâu, chỉ còn những vương quốc man rợ như nhau, không ai thoát ra được, và kẻ đang chạy trốn sự khốn khổ không thể hy vọng gì khác ngoài việc thực thi cái quyền lực vô bổ của mình lên những con người còn khốn khổ hơn hắn, như Marcel bây giờ đang làm, với sự say mê tàn nhẫn của những người đã từng biết đến sự khốn khổ và không còn có thể chịu đựng cảnh tượng ghê tởm đó, và luôn tìm cách trả thù trong xác thịt của những người giống họ. Có thể mỗi thế giới chỉ là sự phản ánh méo mó của tất cả các thế giới
•
Những cô gái đồng trinh có nhiệm vụ trông coi lửa thiêng ở La Mã.
khác, một tấm gương xa vời trong đó rác rưởi dường như cũng sáng lên như kim cương, có thể chỉ có một thế giới và không ai có thể thoát ra bởi những tuyến đường hão huyền của thế giới đó luôn gặp nhau ở ngay đây, gần chiếc giường trên đó người vợ trẻ của Marcel đang hấp hối, một tuần sau khi sinh ra Jacques. Ban đầu, cô kêu đau bụng, sau đó cô bị sốt không thuyên giảm. Vài ngày sau, vì hết kháng sinh, ông bác sĩ thử khu trú ổ viêm nhiễm ở một chỗ ápxe nhân tạo. Ông bác sĩ nhấc tấm chăn đẫm nước lên, cúi xuống người vợ trẻ bệnh tật, vén váy ngủ lên, Marcel cũng cúi xuống, ông cảm thấy mùi vị nóng hổi của rượu whisky trong hơi thở của ông bác sĩ và ông nhìn đôi bàn tay run run tiêm tinh chất nhựa thông vào đùi vợ mình, chỉ để lại trên làn da một nốt đỏ nhỏ xíu mà trong nhiều ngày nhiều đêm liền Marcel không rời mắt, chờ đợi khoảnh khắc mà tất cả các mạch máu trong cơ thể vợ mình dẫn lưu cái chất độc chết người, ông cầu xin vợ hãy cố gắng chống chọi, như thể cô, chỉ bằng ý chí thần kỳ, có khả năng buộc cơ thể kiệt sức của mình phải cứu lấy mình, nhưng đáng sợ thay, làn da trắng trên đùi cô vẫn mềm mại không hề hấn gì, không có ổ ápxe nào hình thành ở đó và Marcel biết cô sắp chết, ông biết, và ông vừa hôn lên vầng trán nóng bỏng của vợ vừa hy vọng rằng ít nhất cô sẽ không bao giờ biết, ông hy vọng sự ngớ ngẩn hồn hậu sẽ bảo vệ cô đến cùng nhưng ông đã nhầm, bởi vì sự ngớ ngẩn cũng không giữ cho người ta khỏi cơn tuyệt vọng, và cô khóc trong cơn sốt, cô đòi bồng con, cô hôn nó, vuốt ve nó rồi vừa ôm lấy cổ Marcel vừa nói cô không muốn, không, cô không muốn bỏ rơi họ, cô còn muốn sống nhưng cô ngủ thiếp đi trong chốc lát rồi thức dậy trong nước mắt, cô sợ đêm tối, không gì có thể an ủi cô, Marcel ôm chặt cô vào lòng mà không thể giành giật cô khỏi dòng chảy đang cuốn cô vào đêm tối, không thể cưỡng lại được, cô rất sợ đêm tối, cô kiệt sức vì rùng mình và nước mắt, rồi cô buông xuôi, mặc kệ dòng chảy đó cuốn đi và cuối cùng ném cô bất động và lạnh băng trên tấm vải liệm là cái chăn nhàu nát. Khuôn mặt cô bị biến dạng vì khiếp sợ, nhưng đó là khuôn mặt của một người mẫu bằng sáp trên đó Marcel không còn nhận ra người vợ trẻ hay cười mà ông rất thích sự hồn nhiên và sự sỗ sàng, trong phút chốc, ông tràn trề niềm hy vọng rằng một cái gì đó của cô, một hơi thở yếu ớt và mong manh, như một linh hồn nhẹ bỗng, đã rời bỏ cơ thể cứng đờ điếm nhục đó để tìm chỗ ẩn náu trong một nơi sáng sủa, êm đềm và yên tĩnh, nhưng ông biết rằng không đúng như vậy, cô chỉ còn là một xác chết đã bắt đầu phân hủy, đến lượt mình, ông để cho nước mắt nhỏ xuống di vật này. Trong khi chôn cất, ông nghĩ đến gia đình mình, họ vẫn chưa hay biết gì về cái tang này, ông muốn bà mẹ vốn đã thạo chuyện tang ma của mình ở bên cạnh hơn là viên cảnh sát hiến binh và ông bác sĩ đang loạng choạng dưới trời mưa nhiệt đới trong khi giọng nói đã tỉnh ngộ của giáo sĩ đang từng tiếng tụng thánh vịnh trên một hố chôn ngập nước. Mai táng xong, ông ở lại một mình một lúc khá lâu rồi trở về với thằng con, nó vẫn đang nhắm nghiền mắt bú bầu vú đen hoắc của cô hầu người Malinké. Ông ghét đứa con này, ông ghét cái xứ này, ông căm thù vô hạn cả đứa con lẫn xứ sở này bởi cả hai đã liên minh lại với nhau để lấy đi người vợ của ông, ông không chịu nghe lời bác sĩ khi ông ta phàn nàn chuyện thiếu kháng sinh vì ông cần thủ phạm chứ không quan tâm đến công lý, ông cũng chẳng quan tâm đến logic khi bỗng dưng sợ cái xứ sở đáng ghét này tước đi thằng con đáng ghét mà ông không muốn mất đi cho dù ông luôn oán trách nó, vì nó đã ra đời thay vì ở mãi trong minh phủ, có ai mong nó ra đâu, cái màn che nôi bị hở tí thôi cũng đủ nhấn chìm Marcel trong nỗi lo sợ chết người, ông sợ phải gặp lại con trong tình trạng nó bị những con côn trùng gớm ghiếc xâu xé, những con côn trùng được che chở trong những nơi sâu thẳm ngột ngạt của đêm châu Phi, nơi biết bao con mắt phát lân quang rực sáng, nơi biết bao điều đang hối thúc, trong cảnh lúc nhúc dị hình, tất cả như đang thèm muốn thịt da tươi mềm của Jacques, chực ngoạp lấy cơ thể non nớt ấy bằng bộ hàm đầy nọc độc, để nhả vào cơ thể đó những ấu trùng của chúng, và Marcel có linh cảm mình sẽ không thể bảo vệ đứa con của mình, ông viết một bức thư dài cho Jeanne-Marie, chị thân mến, em không thể bảo vệ nó khỏi sự khủng khiếp đáng sợ của khí hậu nơi đây, nơi thuộc về những loài vật lúc nhúc, em không muốn nó chết như mẹ nó, em không muốn nó lớn lên mà không có mẹ, chị hãy giúp Jacques lại được có mẹ và được là chị em với bé Claudie của chị, em đã cân nhắc những gì em đang cầu xin chị, em xin chị, em sẽ trông cậy vào ai nếu không phải là chị, thương ai, chị không bao giờ tính toán, và khi Jeanne-Marie động lòng đồng ý, ông chờ cho đến khi được nghỉ phép để về Pháp giao Jacques cho chị gái. Ông khóc khi trở lại châu Phi một mình, khóc vì cảm thấy tội lỗi, và có thể vì buồn nữa, ông không biết, nhưng trong đáy sâu lòng mình, ông cảm thấy một sự nhẹ nhõm mênh mang và vô định khi vừa cứu được con trai mình vừa thoát khỏi nó. Khi trở lại chốn lưu đày của mình, ông tiếp tục hành trình đơn độc dài lâu với những chuyến đi trong rừng trong rú, qua những ngôi làng nơi những đứa trẻ ngây dại đang xếp hàng từ thấp đến cao chờ ông, ông gán cho chúng một ngày sinh hú họa nào đó để cập nhật sổ hộ tịch, ông xử án bằng những hành động và cử chỉ chán nản của vị thần bị giáng thế, ông ghi chép tỉ mỉ chi tiết của những tranh chấp ngớ ngẩn mà những người đi kiện thất vọng kể lại cho ông bằng tiếng peaul, tiếng soussou, tiếng maninka, và bằng mọi thứ ngôn ngữ khốn nạn và mọi rợ mà ông không thể chịu đựng nổi những âm vang của chúng dù buộc phải nghe từ đầu chí cuối để đưa ra những bản án mà sự công bằng sẽ trả lại cho không khí sự im lặng dễ chịu ông ao ước, và trong thời kỳ thu hoạch bông, ông đả kích kịch liệt lòng tham vô độ của những tay lái buôn người Bỉ chuyện buôn gian bán lận, ông khinh bỉ từ chối những lời đề nghị hối lộ, không phải vì ông lo lắng cho quyền lợi của những người trồng trọt da đen mà vì tính trung thực là giá trị cao quý duy nhất ở ông, ông quản lý cực kỳ chặt chẽ sổ theo dõi thu thuế, và khi xế chiều, ngồi bên cạnh ông bác sĩ, ông thấy tiếc vì vết loét không cho phép ông uống say với ông ta để thoát khỏi sự đe dọa của đêm tối. Jeanne-Marie viết thư cho ông báo rằng Jacques đã lớn và rất nhớ ông, chị không có tin tức gì của André Degorce sau khi Điện Biên Phủ thất thủ nhưng chị rất tin tưởng bởi vì có lẽ Chúa sẽ không tàn nhẫn đoạt chồng của chị đến hai lần, Đế chế dần sụp đổ, Jeannc-Marie viết, Việt Minh đã thả André, chị rất mừng, Jacques rất nhớ em và ôm hôn em, nó lớn rất nhanh, André sắp sang Algérie, và Marcel ghen tị với cuộc sống phiêu du của ông anh rể, nó tương phản một cách đớn đau với sự trống rỗng trong cuộc đời ông, ông không thấy Đế chế sụp đổ, thậm chí ông không nghe thấy tiếng nền móng của Đế chế đang rung chuyển răng rắc bởi vì ông đang hoàn toàn tập trung vào sự sụp đổ của chính cơ thể mình vốn đang bị châu Phi từ từ truyền nhiễm bằng sự thối tha dai dẳng của nó, ông nhìn ngôi mộ của vợ, ông điên tiết lấy dao rựa chặt đứt những cái cây đã mọc lên đó, ông biết mình sẽ sớm gặp lại vợ vì con quỷ trong vết loét của ông, được khí hậu nóng ẩm nuôi dưỡng, đang hành hạ ông với sức mạnh vô song, như thể trực cảm ma quái của nó cho phép nó cảm nhận được rằng, ở bên ngoài, trong không khí ẩm thấp và thối rữa, muôn vàn liên minh đang rắp tâm giúp nó hoàn thành quá trình phá hủy chậm chạp của mình và Marcel trừng mắt nhìn bóng đêm, ông nghe thấy tiếng kêu của những con mồi, ông nghe thấy tiếng cơ thể của những kẻ mộng du trượt trên cát trong khi những con cá sấu chầm chậm kéo lê họ về kho xác chết dưới nước của chúng, ông nghe thấy tiếng lộp cộp thô bạo của những quai hàm đang cuốn lên những chùm bùn và máu, và ông cảm thấy các cơ quan trong cơ thể đảo điên của chính mình đang nặng nề cà xát vào nhau rung chuyển để bắt đầu xoay quanh quỹ đạo của con quỷ dữ đang thọc tay vào tận trong bụng ông, bất động như một mặt trời đen, những bông hoa chọc nụ vào phế nang của ông, rễ cây bằng thớ dai của chúng chạy dài trong mạch máu cho đến tận đầu ngón tay của ông, những cuộc chiến kinh hoàng đang diễn ra trong vương quốc mọi rợ của cơ thể ông với những tiếng hô vang chiến thắng hoang dã, những kẻ bại trận bị tàn sát, cả một dân tộc sát nhân, và Marcel nhìn chằm chằm vào chỗ mình vừa nôn mửa, nhìn nước tiểu và phân của mình với nỗi sợ kinh hoàng là sẽ tìm thấy trong đó những chùm ấu trùng, nhện, cua hay rắn nước vàng óng, và ông chờ chết một mình, thậm chí bị thối rữa ngay cả trước khi chết. Ông cầm cuốn nhật ký theo dõi bệnh trạng của mình, ông ghi rất chi tiết tất cả các triệu chứng, những khi khó thở, những nốt đỏ bí ẩn trên khuỷu tay hay trên bẹn, những lần tiêu chảy hay táo bón, những khi dương vật đổi màu đáng lo ngại, những lần bị ngứa, khát, ông nghĩ đến đứa con trai mà ông không bao giờ gặp lại nữa, nghĩ đến người vợ trẻ của mình, đến cặp đùi của cô ấy quặp vào mặt mình, mỗi lần như thế dường như cô ấy đầy sức sống, khiến ông phải thèm khát, si mê cô ấy, và vậy là ông ghi vào nhật ký, hoang tưởng, chứng cương đau dương vật, chứng loạn dâm tử thi, nỗi nhớ quê hương gây chết, rồi ông lặng lẽ xán lại gần cô hầu phòng người Malinké khi cô ta đang quét bụi trên các đồ đạc trong phòng, ông kéo váy cô ta lên rồi không một lời nào ông ôm lấy cô ta, hai tay khua khoắng như đôi cánh của con chim kền kền đang sà xuống một xác chết trơ trơ, và ông chỉ dừng lại khi sự nhơ nhuốc của lạc thú bật ông ra đằng sau vào khoảnh khắc cuối, mình dựa vào tường, quần tụt xuống mắt cá, mắt nhắm nghiền kinh hãi còn bộ phận sinh dục thì giật nẩy một cách nhơ nhớp cho đến khi cô hầu phòng lấy cái giẻ thấm nước ấm lau rửa của quý của ông như lau rửa một đứa trẻ, rồi cũng bằng cái giẻ đó cô ta lau vũng tinh dịch màu xám trên nền gạch. Nhưng ông vẫn còn sống bởi vì sức mạnh đang hành hạ ông là sức mạnh của sự sống chứ không phải là sức mạnh của cái chết, một cuộc sống nguyên thủy và thiển cận, một cuộc sống vô tình làm nảy sinh hoa, những loài ký sinh và chầy rận, một cuộc sống ri rỉ những chất tiết hữu cơ và chính tư duy cũng ri rỉ chảy ra từ não người như chảy ra từ một vết thương mưng mủ, chẳng có tâm hồn, chỉ có những chất lỏng bị chi phối bởi quy luật của một cơ chế phức tạp, phong phú, bạo ngược, mật bị vôi hóa kết lại vàng khè, cục máu đông đóng lại hồng hồng trong động mạch, mồ hôi, sự hối hận, tiếng nức nở và nước miếng. Một đêm, Marcel nghe có tiếng động ngoài thềm, tiếng những chiếc ghế dựa bị đổ, những tiếng gõ cửa thất thường, và khi mở cửa ra, ông thấy ông bác sĩ đang tựa người vào khung cửa, ông ta run lên vì sốt, ông ta nói, xin anh hãy giúp tôi, tôi không còn thấy gì nữa, tôi mù mất rồi, giúp tôi với, và khi ông ta ngước mắt nhìn Marcel, giòi bọ tuôn ra từ mí mắt ông, chảy dọc xuống má như nước mắt. Marcel để ông ta nằm trên chính chiếc giường của mình trong suốt mười ngày điều trị bệnh Loa loa*, Marcel nghe ông ta rên rỉ mỗi khi ga trải giường chạm nhẹ vào vết phù đau đớn trên chân và trên hai tay bị biến dạng, ông giúp ông bác sĩ chịu đựng tác dụng ghê gớm, tác oai tác quái của thuốc Notezine, mặc dù cơ thể đó làm cho ông kinh sợ, cái cơ thể phù lên vì một cuộc sống dư thừa quá mức, cái cơ thể luôn chực nổ tung cùng với những chứng ngứa, những cái hạch, những ổ ápxe mà những con giun tròn chết thối dưới da đã làm cho lở ra,
•
Bệnh về da và mắt do một loài giun tròn gây nên, thường gặp ở châu Phi.
đôi mắt ông ta đỏ ngầu và sưng húp, mù lòa như đôi mắt của một bào thai. Ông bác sĩ bình phục, Marcel nhẹ nhõm cả người khi thấy ông ta ra về. Ông yêu cầu cô người hầu tẩy trùng toàn bộ nhà cửa để lấy lại không gian sạch sẽ mà sự thăng hoa của những nỗi lo sợ trong ông đòi hỏi, ông rửa tay bằng cồn, cạy móng tay đến chảy máu, ghi thêm vào sổ nhật ký những triệu chứng, những cái u mới mọc, bệnh nhiễm khuẩn huyết, những chỗ hoại thư, cho dù căn bệnh duy nhất của ông là nỗi cô đơn đáng sợ, ông cố gắng vượt qua nỗi cô đơn đó bằng cách hằng ngày gửi thư cho ông anh rể ở Algérie, ông phải thổ lộ niềm tin chắc rằng mình sắp chết, và bộc bạch hết những gì trong lòng, chí ít là để nối lại chút gì gọi là quan hệ con người, ngay cả khi người đối thoại duy nhất mà ông đã chọn, mà ông ngưỡng mộ đến cuồng tín, không bao giờ hồi âm, bởi vì, ở dưới tầng hầm Alger, đại úy André Degorce ẩn cư bặt vô âm tín, từ từ chìm đắm trong vực thẳm cô đơn của chính mình, những kẻ đồng hành duy nhất là đôi bàn tay nhuốm máu. Marcel về nhà chôn cất bố mình, rồi mẹ mình, ông không khóc, bởi vì chết luôn là thiên hướng của họ, và ông gần như vui mừng vì cuối cùng họ cũng có thể đáp lại một tiếng gọi mà có lẽ họ đã giả vờ không nghe thấy từ rất lâu. Ông gặp lại các chị gái nhưng không nhận ra, gặp lại Jean-Baptiste, Jeanne-Marie và đứa con trai mà ông không dám ôm vào lòng nữa, vả lại có vẻ như nó cũng không muốn. Ông hỏi con có khỏe không, nó trả lời khỏe, ông nói thêm dù ở xa nhưng ông vẫn thương nó và Jacques lại trả lời vâng rồi hai bố con im lặng cho đến khi Marcel lên đường trở lại châu Phi nơi ông chuẩn bị được thăng chức tổng đốc. Ông giã biệt ông bác sĩ, nhà truyền giáo và viên cảnh sát hiến binh, những người bạn đồng hành dễ cảm thông trong suốt bao năm vô bổ, rồi ông ra đi, cùng cô hầu người Malinké, ông mang theo di hài của vợ rồi chôn cất gần ngôi nhà mới. Sáu tháng sau, Đế chế không còn tồn tại, nhưng Marcel không nhận ra bất cứ điều gì. Phải chăng các đế chế thường chết như thế, chẳng ai nghe thấy dù là một tiếng rung rinh? Chẳng có gì xảy ra, Đế chế không còn nữa và khi nhận phòng làm việc trong một cơ quan bộ ở Paris, Marcel biết cuộc đời riêng của ông cũng như thế, mãi mãi sẽ không có chuyện gì xảy ra. Tất cả những con đường đầy ánh sáng lần lượt tắt ngúm, và trung tá André Degorce, sau thất bại cuối cùng, trở về trong vòng tay của vợ, tìm cách chuộc lỗi mà không bao giờ được, và con người lại nặng nề rơi vào trọng trường của đất nước thất thủ của họ. Thời gian nhẹ nhõm sau khi trút bỏ được niềm hy vọng, nó nhanh trôi, vô hình và hoang tịch, theo nhịp điệu luôn hối hả của những lần mai táng, việc đó gọi Marcel trở về làng, như thể sứ mạng duy nhất và bất biến của ông trên thế giới này là đưa người thân đi chôn cất, hết người này đến người khác, giờ đây vợ ông đang an nghỉ ở Corse, nhưng cô ấy đã mất lâu lắm rồi nên ông sợ thứ chôn xuống mồ chỉ là vài mẩu gỗ mục lấm lem đất sét, rồi những người chị của ông chết, hết người này đến người khác, đúng theo trật tự đã được xác định một cách khéo léo trong hộ tịch, ở Paris, mùi vị của cô đơn dần trở nên lạt lẽo, mưa bụi giá lạnh đã đuổi những con côn trùng đẻ trứng dưới làn da của bờ mi trong mờ, trong ánh sáng trắng bệch của mặt trời, mưa bụi cũng đã bịt kín miệng cá sấu, đã hết rồi những cuộc chiến sử thi, phải bằng lòng với những kẻ thù đáng khinh bỉ, dịch cúm, thấp khớp, thoái hóa, những luồng gió trong căn hộ rộng rãi ở quận 8 nơi Jacques đã từ chối đến ở với ông mà không nói lý do bởi nó không thể thú nhận đang nuôi một mối tình ô nhục với người đáng lẽ nó phải xem như chị gái. Jacques mười lăm tuổi, Claudie mười bảy, và Jeanne-Marie vừa khóc sướt mướt vừa kể lại rằng, thật là kinh khủng, chị bắt gặp hai đứa trần truồng quấn lấy nhau trong căn phòng tuổi thơ của chúng, chị tự trách mình quá ngây thơ, quá mù quáng và tội lỗi, chị biết chúng yêu nhau bằng một thứ tình yêu mà chị cứ nghĩ là tình cảm chị em thắm thiết, chúng sợ biết bao nhiêu khi phải xa rời nhau, nhưng chị không thấy trong tình cảm đó có điều gì xấu, trái lại, thật là ngu ngốc, chị cảm thấy mủi lòng, trong khi chị đang ôm ấp trong lòng mình hai đứa trẻ tà dâm, tất cả đều là lỗi của chị, tốt hơn chị đừng nên biết khi điều kinh khủng đó bắt đầu, còn chúng thì thậm chí không cảm thấy xấu hổ về sự vô luân của mình, Claudie bật dậy trước mặt chị, người nó không mảnh vải che thân và mồ hôi xâm xấp, nó nhìn chị với đôi mắt thách thức, không gì có thể làm cho đôi mắt đó cụp xuống, trách móc hay đánh đập cũng thế, Jacques bị đưa đến một ký túc xá Công giáo, Claudie không thèm nói chuyện với bố mẹ, nó bảo nó ghét bố mẹ nó, thời gian không làm cho ý đồ loạn luân của nó phai nhạt, một bức thư bí mật và nhơ bẩn đã bị chặn, Claudie không hề buông tha bố mẹ mình, trong nhiều năm trời, hằng ngày, nó bắt bố mẹ phải chịu đựng những giọt nước mắt của nó, những tiếng thét của nó, sự im lặng cuồng loạn của nó, Jacques trốn khỏi ký túc xá, nơi người ta bắt nó chịu phạt nhưng vô ích, cho đến khi, một lần nữa, André Degorce, lúc đó đã là tướng về hưu, và sự thất bại với ông không mấy quan trọng nữa, phải chịu đầu hàng và bắt tất cả phải chấp nhận sự đê hèn không thể tránh khỏi của một cuộc hôn nhân, mà rốt cuộc cũng trở nên thiêng liêng khi Aurélie ra đời, sau vài năm mà đôi vợ chồng tham lam ích kỷ đã dành cho việc thỏa mãn nhục dục, bởi vì sự ích kỷ đớn hèn nhất cũng không thể thoát khỏi chu kỳ bất di bất dịch của sự sinh ra và chết đi. Marcel cúi xuống nôi của Aurélie và Matthieu, cúi xuống cái miệng tối đen của những hầm mộ khép kín thi thể của Jean-Baptiste và Jeanne-Marie, vẫn luôn theo trật tự đã được xác định một cách khéo léo trong hộ tịch, và khép kín đôi bàn tay nhuốm máu của tướng André Degorce mà trái tim ngừng đập đã từ rất lâu. Chỉ còn lại một mình Marcel và giờ khắc thoái lui đến khẳng định cho ông điều mà có thể ông vẫn luôn biết, không có chuyện gì xảy ra cả, đường tụ là những vòng tròn bí mật mà quỹ đạo của nó khép lại một cách nghiệt ngã, đường tụ đó đưa ông trở về ngôi làng đáng ghét của tuổi thơ cùng với một bức ảnh cũ chụp vào mùa hè năm 1918, được đặt trên bộ quần áo bằng len và vải lanh trong va li của ông, gương mặt bí ẩn của sự vắng mặt được gắn chặt bằng muối bạc lên bức ảnh đó bên cạnh mẹ và các anh chị của ông. Thời gian giờ đây thật nặng nề và gần như bất động. Đêm, Marcel kéo lê sự già nua của mình từ phòng này sang phòng khác trong ngôi nhà hoang vắng để tìm người phụ nữ trẻ ngốc nghếch hay cười, nỗi đau mất cô ấy vẫn chưa nguôi ngoai trong lòng ông, nhưng ông chỉ thấy bố đang đứng trong bếp chờ mình. Từ đôi môi trắng bệch của cụ không thốt lên một âm thanh nào, và cụ nhìn con trai út qua hàng mi cháy rụi, ánh mắt cụ như muốn trách con đã bao lần lỡ hẹn với những thế giới không tồn tại nữa, Marcel quỵ xuống dưới sự trách cứ nặng nề, ông biết không ai có thể làm cho tuổi thanh xuân của mình hồi sinh, mà ông cũng không muốn bởi vì điều đó chẳng giúp ích được gì cả. Giờ đây, khi mà ông đã lần lượt mai táng từng người thân của mình, sứ mạng khó khăn mệt nhọc mà ông đã hoàn thành phải nhường lại cho người khác, và ông chờ cho đến khi sức khỏe vẫn luôn yếu ớt và bền bỉ của ông cuối cùng cũng bị khuất phục, bởi vì, theo trật tự đã được hộ tịch xác định, đã đến lượt ông một mình đi ra mộ địa.