← Quay lại trang sách

Chương 23

Bài giảng về sự sụp đổ của La Mã

Aurélie ngồi bên cạnh giường nơi ông mình đang nằm nghỉ. Ông có thể không e sợ thả minh theo những giấc mơ tối tăm của kẻ đang hấp hối bởi đã có cô rình chờ cái chết đến giúp ông, và sự mệt nhọc cũng không làm mờ được đôi mắt lính canh của cô. Các bác sĩ đã ban cho Marcel Antonetti quyền được chết tại nhà, cái đặc quyền trước đó chưa ai có. Họ có thể chống lại bệnh tật chứ không thể chống lại con quỷ của tuổi quá già, sự sụp đổ tất yếu của một cơ thể đã tan hoang. Dạ dày đã đầy máu. Trái tim vỡ tan trước sức tấn công của nhịp đập chính mình. Mỗi lần hít vào, không khí trong lành nung đốt làn da khô đang cháy dần như nhựa trám hương. Cứ hai lần mỗi ngày, một cô y tá đến thay ống truyền và đánh giá quy mô của sự suy tàn. Virginie Susini mang từ quán bar về đồ ăn do Bernard Gratas nấu cho Aurélie. Marcel đã hoàn toàn không ăn gì nữa từ hôm trước đó. Claudie cùng Matthieu đã lên máy bay và sẽ đến trong ngày. Aurélie những muốn họ không đến nhưng Matthieu đã năn nỉ. Judith sẽ ở lại Paris cùng bọn trẻ đến chừng nào cần thiết. Trong thời gian tám năm, anh chỉ trở lại đảo Corse có một lần để dự phiên tòa xét xử Libero ở tòa đại hình Ajaccio nhưng anh không còn đặt chân đến ngôi làng đó nữa. Anh không thay đổi. Anh luôn tin rằng chỉ cần quay lưng ngoảnh mặt là có thể trả lại cho hư vô tất cả những phần đời của chính mình. Anh vẫn luôn tin rằng những gì người ta không thấy đều không tồn tại nữa. Nếu Aurélie nghe theo cái bụng xấu của mình, hẳn cô đã bảo với anh đang ở đâu thì ở nguyên đó. Giờ đã quá muộn rồi. Anh đã có thể tự miễn cho mình cái việc đến đây để mà diễn cái trò cứu thế. Nhưng cô không nói gì, cô chờ đợi. Trong phòng, cửa sổ hé mở. Cô không muốn ánh sáng quá chói làm hại đến đôi mắt của ông nội. Mà cô cũng không muốn ông chết trong bóng tối. Thỉnh thoảng, ông mở mắt và quay đầu về phía cô. Cô cầm tay ông.

Cháu yêu của ông. Cháu yêu của ông.

Ông không sợ. Ông biết cháu mình đang ở đó, đang rình chờ cho ông thời khắc cái chết thầm lặng đến, rồi ông buông người xuống gối. Aurélie không thả tay ra. Cái chết có thể sẽ đến trước Matthieu và Claudie, nhờ có sự đồng lòng sâu kín giữa họ, và khi đến thì nó sẽ mang theo cùng lúc với Marcel là cả một thế giới chỉ còn sống trong lòng ông. Từ thế giới này chỉ còn một bức ảnh, được chụp mùa hè năm 1918, nhưng Marcel sẽ không còn ở đó nữa để mà ngắm nó. Sẽ chẳng còn đứa trẻ nào mặc đồ thủy thủ, chẳng còn bé gái bốn tuổi, chẳng hề có sự vắng mặt bí ẩn nào nữa, chỉ còn sự kết hợp của những mảng đen xám trơ ì mà không ai sẽ có thể hiểu ý nghĩa của nó là gì. Trên thực tế, chúng ta không hiểu thế giới là gì. Nhưng chúng ta có thể rình chờ những dấu hiệu suy tàn của thế giới. Tiếng cửa trập bật ra trong ánh nắng mùa hè, bàn tay mịn màng của một người phụ nữ trẻ mệt mỏi đặt trên tay người ông, hay cánh buồm hình vuông của một con tàu đang vào cảng Hippone mang về từ nước Ý một cái tin không thể tưởng tượng được, đó là La Mã đã sụp đổ.

Trong ba ngày, người Visigoth dưới triều Alaric đã cướp phá thành phố và kéo lê những bộ áo choàng dài màu xanh lơ trong máu của trinh nữ. Được tin, Augustin chẳng động lòng là mấy. Từ nhiều năm nay, ông chống lại sự cuồng điên của những tín đồ giáo phái Donar*, và giờ đây, khi bọn họ đã thua, ông ra sức đưa họ về với Giáo hội Thiên Chúa giáo. Ông giảng về những phẩm chất đạo đức liên quan đến sự tha thứ cho những con chiên vẫn còn bị thôi thúc bởi tinh thần trả thù. Ông không quan tâm đến những tảng đá đang đổ xuống. Bởi vì, cho dù ông đã kinh hãi ném xa những tư tưởng dị giáo thời tuổi trẻ đầy tội lỗi, hẳn ông vẫn còn lưu giữ trong mình, qua những bài học của Mani*, niềm tin tưởng sâu sắc rằng thế giới này xấu xa và không xứng đáng để người ta khóc trước sự suy tàn của nó. Đúng thế, thế giới đầy rẫy bóng đêm của cái ác, ông luôn tin điều đó, nhưng giờ đây ông biết không có tinh thần nào còn thúc đẩy họ, như vậy sẽ làm phạm tới sự thống nhất của Chúa vĩnh cửu, bởi vì bóng tối chỉ là sự thiếu vắng ánh sáng, cũng như vậy, cái ác chỉ cho thấy dấu vết rút lui của Chúa ra khỏi thế giới, khoảng cách bất tận chia lìa thế giới và Chúa, mà chỉ có sự ban ơn của Người mới có thể lấp đầy trong nước tinh khiết được dùng trong lễ rửa tội. Thế giới chỉ đi qua bóng

Giáo phái Cơ Đốc có xu hướng ly giáo và sau đó đã trở thành dị giáo, phát triển trong địa phận châu Phi La Mã thế kỷ IV và V.

Mani (216-276), nhà tiên tri, ông tổ của đạo Mani (thiện ác).

tối nếu trái tim con người mở ra đón nhận ánh sáng của Chúa. Nhưng mỗi ngày, những người tị nạn lại mang đến châu Phi vị thuốc độc của cơn tuyệt vọng. Những kẻ theo tà giáo kết tội Chúa vì đã không bảo vệ được cái thành phố đã trở thành thành phố của những tín đồ Cơ Đốc. Từ tu viện ở Bethléem, Jérôme cho ngân vang những lời oán thán sỗ sàng của mình về những người dân theo đạo Cơ Đốc, ông rên rỉ không nguôi về số phận của La Mã đang rụi tàn trong lửa cháy cũng như trước sự tấn công của những kẻ man rợ và ông quên, trong nỗi buồn có ý báng bổ của mình, rằng những người theo đạo Cơ Đốc không thuộc về thế giới mà thuộc về sự vĩnh cửu của những sự vật vĩnh cửu. Trong những nhà thờ ở Hippone, những con chiên sẻ chia sự hoang mang cùng những mối nghi ngờ của mình và quay về phía giám mục của họ để nghe tự miệng ông nói ra họ bị trừng phạt khủng khiếp như thế là vì tội lỗi đen tối nào. Người chăn cừu không nên trách đám cừu cái về nỗi sợ sệt của chúng. Anh ta chỉ nên trấn an chúng. Và chính để trấn an họ mà vào tháng Mười hai năm 410, Augustin tiến về phía họ trong gian giữa nhà thờ và bước lên đài giảng kinh. Rất đông người đến nghe ông, họ chen chúc ở lan can quanh điện và chờ đợi cho đến khi một giọng nói cất lên giúp họ thoát khỏi nỗi thống khổ của mình.

Các con thương yêu của ta, hãy nghe ta đây.

Chúng ta, những người theo đạo Cơ Đốc, chúng ta tin vào sự vĩnh cửu của những sự vật vĩnh cửu và chúng ta thuộc về sự vĩnh cửu đó. Chúa đã chỉ hứa hẹn với chúng ta cái chết và sự hồi sinh. Nền móng thành phố của chúng ta không đổ sụp xuống đất mà sụp đổ trong trái tim của Tông đồ mà Chúa đã chọn để xây dựng Giáo hội, bởi vì Chúa không dựng cho chúng ta những thành trì bằng đá, bằng thịt da và bằng cẩm thạch, Người dựng xây ngoài thế giới này thành trì của Đức thánh thần, một thành trì tình yêu không bao giờ sụp đổ và sẽ mãi mãi uy nghi trong vinh quang, khi thế gian đã biến thành tro bụi. La Mã đã bị chiếm và lòng các con đang công phẫn cực độ. Nhưng ta hỏi các con, các con thương yêu của ta, thất vọng về Chúa trong khi Chúa đã hứa với các con là sẽ giải thoát các con bằng sự ban ơn của Người chẳng phải là điều điếm nhục hay sao? Con khóc bởi vì La Mã bị thiêu rụi? Chúa đã bao giờ hứa là thế giới sẽ vĩnh cửu chưa? Những bức tường thành Carthage* đã sụp xuống, lửa của thần Baal đã tắt và những chiến binh của Massinissa, những người từng đánh đổ thành lũy Cirta, cũng đã biến mất như cát lún. Điều đó con biết, nhưng con cứ nghĩ là La Mã sẽ không sụp đổ. La Mã chẳng phải đã được những con người như con xây dựng nên hay sao? Từ khi nào con tin rằng con người có khả năng tạo lập những sự vật vĩnh cửu? Con người xây mọi thứ trên cát. Nếu con muốn ôm khư khư những thứ mà con người đã dựng xây nên, thì chẳng qua con chỉ ôm khư khư một làn gió nhẹ. Hai bàn tay con trống rỗng còn tim con khổ đau. Và nếu con yêu thương thế giới này thì con sẽ chết theo nó.

Thành cổ ở Tunisie, phía Đông Bắc thủ đô Tunis.

Các con thương yêu của ta.

Các con là các anh chị em ta và ta rất buồn khi thấy các con đau khổ như thế. Nhưng ta còn buồn hơn khi thấy các con câm điếc trước lời Chúa nói. Những gì sinh ra trong xác thịt sẽ chết trong xác thịt. Các thế giới đi từ bóng tối này đến bóng tối khác, lần lượt từng thế giới một, và cho dù La Mã có vinh quang đến mấy thì La Mã vẫn thuộc về thế giới và phải chết cùng thế giới. Nhưng linh hồn các con, vốn đầy ánh sáng của Chúa, sẽ không chết. Bóng tối sẽ không nuốt chửng linh hồn các con. Đừng nhỏ lệ trước bóng tối của thế giới. Đừng nhỏ lệ trước những cung điện, nhà hát bị phá hủy. Như thế không xứng với đức tin của các con. Đừng nhỏ lệ khóc những anh chị em của chúng ta đã bị lưỡi gươm của Alaric cướp đi. Làm sao các con có thể bảo Chúa giải thích vì sao họ chết, chính Người đã hiến dâng Người Con duy nhất của Người để chuộc lại những tội lỗi của chúng ta. Chúa thích tha ai thì Người tha. Và những người mà Chúa để cho tử vì đạo giờ lại đang hân hoan vì đã không được tha về mặt xác thịt bởi họ mãi sống trong sự cực lạc vĩnh cửu của ánh sáng Người. Chúng ta, những người theo đạo Cơ Đốc, được hứa hẹn điều đó, và chỉ có điều đó.

Các con thương yêu của ta,

Cũng đừng có hoang mang về những cuộc tấn công của những kẻ nghịch đạo. Biết bao thành phố đã đổ sụp và những thành phố đó đâu phải của người Cơ Đốc, những thánh thần của chúng cũng đã không bảo vệ được chúng. Nhưng con, con đang yêu chuộng một vị thần bằng đá ư? Con hãy nhớ ai là Chúa của con. Con hãy nhớ những gì Người đã báo cho con. Người đã báo cho con biết rằng thế giới sẽ bị phá hủy trong binh đao lửa khói, Người đã hứa với con sự hủy hoại và cái chết. Làm sao con lại sợ những điều tiên tri trở thành sự thực? Và Người cũng đã hứa rằng Người Con vinh quang của Người sẽ trở về vùng đất hoang tàn này để cho triều đại vĩnh cửu của ánh sáng được thiết lập và con sẽ thuộc về triều đại đó. Con - người chỉ sống trong sự chờ đợi ngày tận thế, sao con lại khóc, nhẽ ra con phải vui mừng mới đúng chứ, nếu chí ít con là người theo đạo Cơ Đốc? Nhưng cũng có thể khóc cũng không thích hợp mà vui mừng cũng không thích hợp. La Mã đã sụp. La Mã đã bị đánh chiếm nhưng trái đất và trời cao không vì thế mà lung lay. Hãy nhìn xung quanh mà xem, các con thương yêu của ta. La Mã đã đổ sụp nhưng phải chăng, trên thực tế, nó sụp đổ mà như không có chuyện gì xảy ra? Đường đi của các tinh tú không vì thế mà bị rối loạn, đêm vẫn nối tiếp ngày và ngày vẫn nối tiếp đêm, vào từng khoảnh khắc, hiện tại nổi lên từ hư vô rồi lại trở về với hư vô, các con đang ở đây, trước mặt ta, và thế giới này đang tiến tới thời khắc suy tàn của nó nhưng vẫn chưa tới nơi, và chúng ta không biết khi nào sẽ tới nơi bởi vì không phải cái gì Chúa cũng tiết lộ cho chúng ta. Nhưng những gì Người tiết lộ cho chúng ta cũng đủ thỏa mãn những ước vọng trong lòng ta và giúp chúng ta kiên cường hơn trong gian nan thử thách, bởi vì niềm tin của chúng ta vào tình yêu của Người sâu sắc đến độ che chở cho chúng ta khỏi những nỗi đau mà những kẻ không biết đến tình yêu này phải chịu đựng. Và chính vì thế mà chúng ta giữ được một trái tim trong trắng trong niềm vui của Chúa.

Augustin ngừng giảng một lúc. Trong đám đông, ông thấy những gương mặt chăm chú, nhiều trong số đó đã trở nên bình thản. Nhưng ông hãy còn nghe thấy những tiếng nức nở nghẹn ngào. Ngay sát ông, đứng dựa vào lan can, một phụ nữ trẻ ngước đôi mắt nhòa lệ nhìn ông. Ban đầu, ông ném về phía cô một cái nhìn nghiêm khắc của một người cha giận dữ nhưng ông lại thấy cô mỉm cười với ông một cách bí ẩn qua nước mắt, và ngay trước khi tiếp tục nói, ông làm dấu ban phúc lành cho cô, và ông sẽ nhớ lại chính nụ cười này hai mươi năm sau nữa, khi ông nằm dài trên nền nhà hậu cung, trong khi các thầy tu đang quỳ gối cầu nguyện cho linh hồn ông được giải thoát, điều mà không ai có thể nghi ngờ.

Augustin đang chết trong thành phố mà những toán quân của Genséric* vây hãm từ ba tháng nay. Có thể đã không có chuyện gì xảy ra ở La Mã vào tháng Tám năm 410, ngoài sự lung lay của một trọng tâm, khởi đầu cho một trạng thái mất thăng bằng nhẹ rốt cuộc đã thôi thúc những người Vandal đi qua Tây Ban Nha, vượt trùng dương và đến tận dưới những bức tường thành Hippone. Augustin đã kiệt sức. Sự thiếu thốn đã làm cho ông yếu ớt đến mức không thể nào gượng dậy được nữa. Ông không còn nghe thấy tiếng la hét của đội quân Vandal hay những tiếng nói sợ hãi của những con chiên trốn mình trong nhà thờ. Tinh thần cạn kiệt, nhà thờ dường như lại trở thành chỗ nương thân đầy ánh sáng và yên tĩnh được che chở bởi bàn tay của Chúa. Những người Vandal sắp sửa tràn vào Hippone. Họ sẽ đưa vào thành nào ngựa, nào sự bạo tàn và tà thuyết chống tam vị nhất thể của họ. Có thể họ sẽ phá hoại những gì trước đây ông đã từng thích trong sự yếu đuối của kẻ phạm tội,

Genséric (399-477) là vua của tộc người Vandal, là nhân vật chính yếu gây xáo trộn và hỗn loạn cho Đế quốc Tây La Mã vào thể kỷ thứ V.

nhưng ông đã giảng nhiều về sự tận thế đến mức ông không còn phải bận tâm về điều đó nữa. Đàn ông sẽ chết, đàn bà sẽ bị hiếp, áo của những kẻ mọi rợ sẽ còn vấy máu của họ. Mặt đất chỗ Augustin đang nằm khắp nơi được vẽ những alpha và omega, ký hiệu của Chúa Ki Tô, đầu ngón tay ông sờ lên đó. Lời hứa của Chúa vẫn chưa thành hiện thực và linh hồn hấp hối thì yếu ớt và dễ bị cám dỗ. Chúa có thể hứa với con người điều gì, khi mà Người biết họ quá ít nên vẫn không chịu nghe nỗi tuyệt vọng của chính con trai Người và Người không hiểu họ dù đã biến thành một người trong số họ? Và làm sao con người có thể tin vào lời hứa của Chúa khi chính Chúa Ki Tô đã thất vọng với thiên chất của chính mình? Augustin rùng mình trên đá cẩm thạch lạnh giá, và ngay trước khi mắt ông mở ra với ánh sáng vĩnh cửu đang soi rọi thành phố mà không đội quân nào sẽ có thể đánh chiếm, ông lo sợ tự hỏi phải chăng tất cả những con chiên đang khóc, mà bài giảng về sự sụp đổ của La Mã vẫn không thể làm cho họ nguôi ngoai, cũng chẳng hiểu những lời ông nói hơn chính bản thân ông hiểu những gì mình nói. Trên thực tế, các thế giới lần lượt đi từ bóng tối đến bóng tối và sự tiếp nối đó hẳn không có nghĩa gì hết. Giả thiết không thể chấp nhận được đó đốt cháy linh hồn của Augustin, ông trút một hơi thở dài, nằm xuống với những người anh em và gắng gượng quay vế phía Chúa, nhưng ông chỉ thấy lại nụ cười khó hiểu thấm đẫm nước mắt mà sự trong trắng ngây thơ của người phụ nữ trẻ xa lạ trước đây đã ban tặng cho ông, để mang đến cho ông minh chứng của sự kết thúc, đồng thời cũng là minh chứng của sự khởi đầu, bởi vì có một, và chỉ một minh chứng mà thôi.