← Quay lại trang sách

Chương 4 - Văn Phòng Hiệu Trưởng.

Conner ngồi bên ngoài văn phòng hiệu trưởng chỉ mới mười phút mà có cảm tưởng như đã hai giờ đồng hồ. Lý do cậu được gọi đến đây vẫn còn là một bí ẩn, và nó đang gặm nhấm tâm trí cậu như một đôi chim ó đói ngấu.

Cậu bé đã là một học sinh ngoan ngoãn đến kinh ngạc trong suốt năm nay – có lẽ không xuất sắc như chị cậu, nhưng thế là giỏi rồi. Điểm số của Conner khá tốt, dù lẽ ra cậu bé có thể làm tốt hơn nữa ở môn khoa học và toán, mà theo ý cậu thì hầu hết các bạn học khác đều làm được. Ngoại trừ việc thỉnh thoảng lại quên mất cuộc cách mạng nào xảy ra ở đâu, cậu cũng học khá tốt môn lịch sử. Và lần đầu tiên trong đời, cậu bé thực sự thích thú với các bài tập Ngữ văn.

Cậu bé tin là mình không làm gì sai cả. Vậy thì sao cậu lại ở đây chứ? Cậu phát hoảng với ý nghĩ ai đó đã đổ tội cho cậu. Cậu bé có phải chịu trách nhiệm cho dòng chữ graffiti trên tủ đồ hay con cá vàng bị cho vào nhà vệ sinh của giáo viên không? Đúng là Conner thấy những trò chơi khăm đó thật hài hước, nhưng cậu bé không làm ra chúng. Nếu họ không nghĩ cậu là thủ phạm, phải chăng họ nghĩ cậu biết thủ phạm là ai và muốn cậu làm chứng? Cậu có thể từ chối trả lời bất cứ câu hỏi nào như quy định của Tu chính án thứ năm không? Cậu bé có quyền nhờ luật sư hay gọi một cuộc điện thoại không?

Cánh cửa văn phòng hiệu trưởng bật mở và một cô bé vụt ra, rơm rớm nước mắt. Conner lập tức trở nên căng thẳng.

“Cậu Bailey?” cô Peters gọi với ra từ trong văn phòng của cô.

Conner nuốt khan. Nghe tiếng cô gọi tên hôm nay cũng chẳng kém phần đáng sợ hơn thời gian trước, khi cô dạy Conner lớp sáu…

Được thăng chức là điều cuối cùng cô Peters nghĩ tới, nhưng gần đây, cô đã thăng tiến vượt bậc.

Sau hai mươi lăm năm giảng dạy, cô Peters đã đưa ra một quyết định khó khăn là lui về nghỉ hưu. Ý nghĩ này đã đeo đẳng tâm trí vị giáo viên kỳ cựu một thời gian. Học sinh của cô Peters không hề hay biết trong nhiều năm liền, cô vẫn đặt một cuốn lịch trên bàn và đếm ngược từng ngày cho đến khi cô đủ tuổi nghỉ hưu.

Cô thường mơ màng tưởng tượng về cuộc sống của mình sau khi nghỉ dạy. Cô đã lên kế hoạch tất cả những chuyến du lịch nước ngoài mà cô muốn thực hiện. Cô lập danh sách tất cả những gì cần sửa chữa ở căn hộ mà cuối cùng cô cũng có thời gian để làm. Cô gom góp tất cả những thứ cần thiết để trồng một vườn rau trong khoảnh sân nhỏ của mình. Nói cách khác, cô đã sẵn sàng nghỉ hưu.

Nhưng vào tuần cuối cùng khép lại sự nghiệp dạy học của cô, cô Peters nhận được lời đề nghị làm hiệu trưởng. Một cuộc đời chỉ có làm vườn và thư giãn thì cũng hấp dẫn đấy, nhưng cuộc đời một hiệu trưởng lại cho cô cái đặc quyền mà cô yêu thích nhất ở công việc giáo viên: uy quyền trước những học sinh nhỏ tuổi dễ bị ảnh hưởng.

Khỏi phải nói, cô nhận công việc mới chẳng chút phân vân. Cô phát huy được bản thân mình ở vị trí đầy quyền uy khi đưa ra những quyết định kỷ luật, và thỉnh thoảng lại có một việc gì đó cho phép cô thực hiện điều cô yêu thích hơn bất cứ thứ gì khác trên đời, đó cũng là lý do cô gọi Conner Bailey đến văn phòng.

“Ngồi xuống đi,” cô Peters ra lệnh.

Conner ngồi xuống đối diện cô một cách ngoan ngoãn đến mức làm cậu phải liên tưởng đến con Buster, chỉ khác là không mong được thưởng một cái bánh quy. Ánh mắt cậu lướt một vòng quanh gian phòng; cậu bé nhận thấy cô Peters trang trí văn phòng với cùng hoa văn như bộ váy cô mặc.

“Em có biết vì sao tôi gọi em vào đây hôm nay không?” cô Peters hỏi. Cô thậm chí không nhìn tới cậu. Mắt cô đang bận xem qua một chồng giấy tờ trong tay.

“Em không biết ạ,” Conner đáp. Cậu bé gần như có thể thấy được nội dung của mớ giấy tờ đó qua hình ảnh phản chiếu trên mắt kính cô.

“Tôi muốn nói chuyện với em vì bài viết mà em thực hiện trong lớp Ngữ văn,” cô nói, cuối cùng cũng chịu nhìn vào mắt cậu.

Conner phát hiện những tờ giấy cô đang xem đều mang nét chữ của cậu. Cậu bé phát hoảng.

“Cuộc trò chuyện này có phải là vì bài luận về tác phẩm Giết con chim nhại của em không ạ?” cậu hỏi. “Em biết là em đã viết, ‘Một trong những phần đáng buồn nhất trong quyển sách này là cô bé bị mang cái tên Scout,ʼ nhưng em đã nói chuyện với cô York về cách tiếp cận của mình và hiểu được vì sao bài viết lẽ ra có thể tốt hơn nữa rồi ạ.”

Mắt cô Peters nheo lại và chân mày cô cong lên với vẻ phê phán; chuyện này thể nào cũng xảy ra ít nhất một lần khi cô ở chung phòng với Conner.

“Hay có là tại bài phân tích Trang trại động vật của em chăng?” Conner tiếp. “Em biết em đã nói, ‘Tôi ước gì George Orwell đã phản ánh chế độ chính trị bằng những hình ảnh không khiến tôi phát thèm một cái burger phô mai thịt muối,’ nhưng đó thực sự là những gì em nghĩ; em không cố tỏ ra hài hước đâu ạ.”

“Không, cậu Bailey,” cô Peters giải thích. “Tôi gọi em đến văn phòng để nói về những bài viết sáng tạo mà em đã làm ở lớp của cô York.”

“Ồ?” Conner ngạc nhiên. Viết sáng tạo thực ra là phần cậu yêu thích nhất trong lớp ngữ văn. “Em đã làm sai chỗ nào ạ?”

“Em không sai gì cả,” cô Peters đáp. “Nó rất xuất sắc.”

Conner ngẩng phắt lên với vẻ không tin nổi.

“Có phải cô vừa nói cái điều mà em nghĩ cô đã nói không ạ?” Conner kinh ngạc.

“Tôi tin là thế,” cô Peters đáp, cô cũng có vẻ ngạc nhiên như cậu vậy. “Cô York sợ rằng các truyện em viết là do đạo văn mà ra, nên cô ấy đã gửi chúng cho tôi kiểm tra, nhưng chúng không giống như bất cứ thứ gì tôi từng đọc. Tôi đã đảm bảo với cô ấy rằng theo tôi thấy, chúng đều là nguyên bản.”

Conner khó khăn lắm mới tin được chuyện này; không phải ai khác mà chính cô Peters đang khen ngợi và bảo vệ cậu.

“Vậy em đang ở đây vì một chuyện tốt đẹp ạ?” Conner hỏi. “Một chuyện rất tốt đẹp,” cô Peters trả lời. “Truyện của em và góc nhìn khác biệt về các nhân vật cổ tích thật tuyệt vời! Tôi rất thích các truyện về việc Hoàng tộc Charming tìm kiếm cậu em đã mất tích từ lâu và chuyện người yêu đã mất của Hoàng hậu Độc Ác bị giam giữ trong Tấm Gương Thần của bà ta. Trix, nàng tiên phạm lỗi và Trollbella, cô công chúa quỷ lùn chất phác là những nhân vật tưởng tượng cực kỳ độc đáo. Rất ấn tượng!”

“Cảm ơn cô!” Conner nói.

“Tôi có thể hỏi điều gì đã truyền cảm hứng cho em viết những câu chuyện này không?” cô Peters thắc mắc.

Conner nuốt khan. Cậu bé không biết phải trả lời thế nào. Thực ra, cậu đã tận dụng giờ học để viết về trải nghiệm thật của mình, nên các câu chuyện không hẳn là “bài viết sáng tạo.” Có thể coi là cậu đang nói dối không, ngay cả khi không thể nói ra sự thật?

“Chúng chỉ đơn giản là tự đến với em thôi ạ,” Conner giải thích với cái nhún vai. “Em không giải thích được tường tận.”

Cô Peters làm một việc mà Conner chưa bao giờ thấy cô làm trước đây: Cô mỉm cười với cậu.

“Tôi đã hy vọng em sẽ nói thế,” cô Peters nói. Cô lấy ra một tập tài liệu từ trong hộc bàn. “Tôi đã tự xem qua hồ sơ học sinh mà em điền vào đầu năm học. Tôi thấy thật thú vị khi ở dưới chỗ ‘nghề nghiệp mong muốn trong tương lai,’ em chỉ viết đơn giản là ‘việc gì đó thật oai.’”

Conner gật đầu. “Em vẫn trung thành với ý đó,” cậu nói.

“Trừ phi mục đích của em là trở thành một người tuyết chuyên nghiệp, có được không nếu tôi cho là em sẵn lòng tiếp nhận vài gợi ý?” cô Peters hỏi.

“Chắc chắn rồi ạ,” Conner đáp. Cậu vẫn chưa nghĩ ra công việc nào phù hợp với miêu tả đó.

“Bailey, em có bao giờ nghĩ đến chuyện trở thành một nhà văn chưa?” cô Peters gợi ý. “Nếu những câu chuyện này là một tín hiệu, tôi nghĩ, với thời gian và rèn luyện, có lẽ em sẽ có đủ các phẩm chất cần thiết để là một nhà văn.”

Mặc dù chỉ có họ trong văn phòng, Conner vẫn phải tự nhắc mình nhớ rằng cô đang nói chuyện với cậu.

“Một nhà văn?” Conner ngạc nhiên. “Em ạ?” Ý nghĩ này chưa bao giờ xuất hiện trong đầu cậu. Ngay lập tức, những nghi ngờ về khả năng này lấp đầy tâm trí cậu, như các tế bào bạch cầu tấn công virus vậy.

“Phải, em đấy,” cô Peters khẳng định và chỉ vào cậu để làm rõ hơn.

“Nhưng chẳng phải các nhà văn phải thông minh lắm sao?” Conner thắc mắc. “Không phải họ thường nói những câu như, ‘Tôi đồng tình’ và ‘Tôi không đồng tình với cái này’ sao? Những người như vậy mới là nhà văn, không phải em. Họ sẽ cười chê em nếu em cố gắng trở thành một người như họ.”

Cô Peters thở hắt ra, và Conner nhớ rằng đó là cách cô cười.

“Trí thông minh không phải là một cuộc tranh giành,” cô nói. “Có dư dả trí thông minh cho tất cả mọi người, và có rất nhiều cách để thể hiện nó.”

“Nhưng ai cũng có thể viết văn, phải không ạ?” Conner hỏi. “Ý em là, các nhà văn bị phê bình rất nghiêm khắc cũng vì thế, không phải vậy sao ạ? Bởi vì thực ra ai cũng có thể sáng tác nếu họ muốn.”

“Chỉ vì ai cũng có thể làm được việc gì đó không có nghĩa là ai cũng nên làm thế,” cô Peters giảng giải. “Ngoài ra, thời buổi này, ai có kết nối Internet cũng cảm thấy họ có đủ tư cách để phê phán và hạ thấp giá trị mọi thứ mà.”

“Em cho là thế,” Conner đáp, nhưng vẻ ỉu xìu của cậu lại nói lên điều ngược lại. “Điều gì làm cô nghĩ em sẽ làm một nhà văn giỏi? Truyện của em quá đơn giản khi đem so với những truyện khác ngoài kia. Em còn không có vốn từ vựng phong phú nữa – em sẽ vô dụng hoàn toàn nếu không kiểm tra lỗi chính tả.”

Cô Peters gỡ kính ra rồi dụi mắt. Conner là một học sinh khó bảo.

“Có được một câu chuyện đáng kể và nhiệt tâm để kể nó ra mới là yếu tố làm em trở thành một nhà văn giỏi,” cô Peters nói. “Tôi không thể nói được đã bao nhiêu lần tôi đọc thấy những bài báo hay tiểu thuyết sử dụng ngôn từ phức tạp và cách chơi chữ lắt léo để che đậy sự thật rằng chúng chẳng có câu chuyện nào để kể cả. Một câu chuyện hay nên được mọi người thưởng thức; đôi khi, sự đơn giản lại đem đến thành công đấy.”

Conner vẫn chưa bị thuyết phục. “Em không nghĩ biết việc đó có phù hợp với em không.”

“Em không phải quyết định ngay bây giờ,” cô Peters bảo. “Tôi chỉ khuyên em hãy suy nghĩ về khả năng đó thôi. Tôi không muốn một người có trí tưởng tượng tốt như em tốt nghiệp mà không làm một nghề gì ‘thật oai’ với nó.”

Cô nhìn vào mắt cậu bé và một nụ cười hiếm hoi, rất khẽ nở ra trên mặt cô.

“Có hai việc mà tôi rất thích được làm trong công việc của mình: quở phạt và khích lệ,” cô Peters tiếp tục. “Cảm ơn em vì đã để tôi khích lệ em. Tôi không có nhiều dịp để làm thế đâu.”

“Không có gì ạ,” Conner đáp. “Thật tốt khi được xếp vào nhóm khác để đổi gió một chút.”

Cô Peters đeo lại mắt kính và đưa cho Conner chồng bài tập của cậu. Cậu bé nghĩ rằng buổi gặp mặt của họ đã kết thúc và bước ra cửa, nhẹ nhõm vì không rơi vào tình trạng nước mắt ngắn dài như vị khách trước đó của cô hiệu trưởng.

“Cô rất tự hào vì em, Conner,” cô Peters cất lời ngay khi cậu bé chạm tay lên nắm đấm cửa. “Em đã tiến bộ nhiều từ một cậu bé vẫn ngủ gật trong lớp của cô đấy.”

Tất cả những gì Conner có thể làm là gửi đến cô một nụ cười trìu mến. Nếu một năm rưỡi trước có ai bảo với cậu rằng một ngày kia, cô Peters sẽ trở thành một trong những người ủng hộ tuyệt vời nhất của cậu (hay gọi cậu bằng tên), cậu sẽ chẳng tin đâu.

Trên đường về nhà, Conner nghĩ ngợi về chuyện vừa qua. Ý nghĩ của cậu bay bổng lên những tầng trời của cơ hội và chìm xuống cõi mênh mông của sự mơ hồ. Cô Peters đã phát điên hay đúng là cậu, Conner Bailey, thực sự có thể trở thành một nhà văn trong tương lai? Cậu thực sự có thể lập nghiệp bằng việc viết về những trải nghiệm của cậu và chị gái trong thế giới cổ tích sao?

Liệu có ai muốn đọc những truyện cậu viết về Trollbella và Trix, hay Hoàng hậu Độc Ác và Bầy Sói To Hung Tợn, hay Jack và Goldilocks không? Liệu những người đó có phiền lòng không nếu cậu viết về họ? Nếu cậu có dịp gặp lại Goldilocks, liệu cô ấy có đánh cậu tối mặt tối mũi vì dám viết truyện về mối tình tay ba giữa cô ấy, Jack, và Quàng Khăn Đỏ?

Conner cho là người ta đã viết đi viết lại truyện về các nhân vật đó suốt hàng thế kỷ rồi; chắc họ chẳng bận tâm nếu cậu cập nhật cho thế giới biết vài tin mới đâu.

Nhưng còn Alex thì sao? Chị cũng có quyền sở hữu đối với những trải nghiệm này như cậu; chị ấy có khó chịu vì cậu chia sẻ chúng với cả thế giới không?

Alex bao giờ cũng là người có triển vọng tương lai, không phải cậu. Lên kế hoạch lúc nào cũng là nghề của cô bé; Conner luôn trông đợi chị sẽ lớn lên và trở thành một bác sĩ, luật sư, hay tổng thống. Chẳng may là cậu bé vẫn chưa suy tính nhiều cho tương lai mình, nên bất cứ khả năng nào cũng có vẻ quá xa vời.

Conner nghĩ mình muốn nghe ý kiến của Alex về tất cả chuyện này. Nhưng khi về đến nhà, cậu bé khựng lại. Có một thứ mà cậu không nghĩ sẽ bắt gặp ở đó.

“Chú Bob đang làm gì ở đây vậy?” Conner tự hỏi, nhận ra chiếc xe đậu trước nhà.

Cánh cửa trước bật mở trước khi Conner có thể tự mở nó ra. Alex đang đứng ở phía bên kia, đôi mắt mở to và gương mặt trắng bệch.

“Cuối cùng thì em cũng về!” cô bé thở phào nói.

“Có chuyện gì vậy?” Conner hỏi. “Sao chú Bob lại ở đây?”

“Chú ấy muốn nói chuyện với chúng ta trước khi mẹ về nhà,” Alex đáp. “Chú ấy biết chúng ta đã biết chuyện và bảo rằng chú muốn hỏi chúng ta một chuyện. Chị chắc là mình đã biết đó là gì rồi.”

“Gì chứ?” Conner hỏi, hoàn toàn chẳng biết gì.

“Cứ vào trong đi,” Alex bảo cậu. “Chị nghĩ sắp có một diễn tiến trọng đại đấy.”