Chương 5 - Lời Cầu Hôn.
Kể từ khi lên bốn, Alex và Conner đã không còn trông giống chị em song sinh nữa. Vào khoảng thời gian đó, bà Charlotte thôi cho bọn trẻ mặc đồ giống nhau mỗi ngày và chúng bắt đầu phát triển theo đặc điểm của riêng mình. Nhưng khi chúng ngồi trên ghế, cả hai cùng dán mắt nhìn bác sĩ Bob chằm chằm với đôi tay khoanh lại, một lần nữa, thật khó để phân biệt chúng với nhau.
“Vậy là…” ông Bob mở lời và xoay trở một cách khó khăn trên chiếc ghế đối diện bọn trẻ. “Mẹ các cháu nói rốt cuộc thì cũng đã cho các cháu biết chuyện của chúng ta.”
Ông thật can đảm khi dám chủ động gợi chuyện.
“Đúng là mẹ đã làm vậy,” Conner đáp.
Ông Bob gật đầu thân thiện, như thể đó là tin tốt vậy. Bọn trẻ thậm chí không chớp mắt – chúng là một cặp thật đáng sợ.
“Chú xin lỗi vì bó hoa đó được gửi đến nhà. Lẽ ra chúng phải đến bệnh viện cơ,” ông giải thích.
“Phải, lẽ ra chúng nên thế,” Alex đáp. Bác sĩ Bob đã thực hiện hàng ngàn ca mổ khó khăn trong cả cuộc đời hành nghề y, nhưng ông thấy bị những đứa con của người phụ nữ ông đang hẹn hò nhìn chằm chằm mới là trải nghiệm căng thẳng nhất đời mình.
“Chú hiểu vì sao tin này lại khó chấp nhận,” ông Bob nói. “Nhưng vẫn là chú thôi mà, các cháu. Chú vẫn là bác sĩ Bob, người đã cùng dùng bữa tối với các cháu hàng chục lần. Chú vẫn là người đã đưa các cháu đi xem những bộ phim mà mẹ các cháu không muốn xem. Chú vẫn là người đã đưa Buster đến cho các cháu. Chỉ tình cờ mà chú lại là…”
“Người đang hẹn hò với mẹ chúng cháu?” Conner chen vào. “Có cố gắng đấy, nhưng tất cả những gì chú kể ra chỉ làm tình hình tệ hơn thôi. Chúng cháu tưởng là đã biết rõ chú chứ.”
“Chú đang thừa nhận Buster là một dạng của hồi môn đấy ư, chú Bob?” Alex hỏi.
“Alex, của hồi môn là gì?” Conner khẽ nhếch mép hỏi chị mà không rời mắt khỏi ông Bob.
“Một kiểu trao đổi hợp thức ấy mà,” Alex giải thích. “Kiểu như, vào thời cổ đại, một người đàn ông sẽ nhận được lễ vật là một tá lạc đà hay đại loại vậy để đổi lấy hôn ước với con gái ông ta.”
“Hiểu rồi,” Conner đáp, chuyển tất cả sự chú ý trở lại với ông Bob. “Chú không nghĩ mẹ chúng cháu đáng giá một tá lạc đà sao, chú Bob? Một con chó vậy là chú tưởng chúng ta đã đi đến thỏa thuận à?”
“Chú tuyệt đối không nghĩ là chúng ta đã thỏa thuận được với nhau,” ông Bob trả lời. “Giờ thì chưa.”
Alex và Conner đồng loạt nheo mắt lại. Ông Bob cho tay vào trong túi và lấy ra một chiếc hộp bọc nhung nhỏ. Trong một giây, bọn trẻ tự hỏi đó là gì, nhưng chỉ một giây thôi. Khi chúng nhận ra cái hộp quá nhỏ, không đủ để chứa bất cứ thứ gì khác ngoài một chiếc nhẫn, chúng lập tức hiểu ra nó có ý nghĩa gì.
“Ôi Chúa ơi,” Alex thốt lên.
“Không đời nào,” Conner kêu lên.
Ông Bob nhìn xuống cái hộp với một nụ cười. “Các cháu biết không, khi vợ chú mất bốn năm trước, chú không bao giờ nghĩ mình có thể hạnh phúc trở lại,” ông nói. “Chú cứu lấy mạng sống của mọi người hằng ngày, nhưng trong một khoảng thời gian dài, chú nghĩ chẳng thể nào cứu vãn đời mình được nữa. Nhưng rồi mẹ cháu xuất hiện, và chú biết mình đã lầm.”
Alex và Conner liếc nhau qua khóe mắt. Chúng chưa bao giờ thấy ông Bob xúc động như vậy, nhưng chúng rất cảm kích trước sự chân thành của ông.
“Cháu biết hai người đã gặp gỡ nhau được ít lâu rồi, nhưng tất cả chuyện này có vẻ đột ngột quá,” Alex nói.
“Chúng cháu chỉ vừa phát hiện tối qua,” Conner nói thêm. “Trong suy nghĩ của chúng cháu, hai người chỉ mới hẹn hò được một ngày thôi. Chú có chắc là chú không quá vội vàng không?”
Cái cách ông nhìn xuống chiếc nhẫn, với ánh mắt âu yếm và nụ cười thành tâm, đã nói lên rất rõ rằng ông chưa bao giờ chắc chắn hơn thế trong đời mình.
“Chú đã sống được khá lâu, các cháu à. Và chú đã học được rằng những chuyện như thế này không đến với ta thường xuyên lắm đâu,” ông Bob nói. “Không nắm lấy cơ hội này để đề nghị mẹ các cháu ở bên chú đến hết phần còn lại của cuộc đời thì chú sẽ là kẻ ngu ngốc nhất thế giới.”
Ông Bob mở chiếc hộp ra cho bọn trẻ xem chiếc nhẫn. Alex há hốc miệng. Đó là chiếc nhẫn đẹp đẽ nhất mà bọn trẻ từng trông thấy. Chiếc nhẫn bằng bạc có đính hai viên kim cương lớn, một viên xanh biển và một viên màu hồng. Bọn trẻ có thể thề rằng chúng đã nghe tiếng nhạc vang lên khi chiếc nhẫn lấp lánh sáng, nhưng đó chỉ là tưởng tượng của chúng thôi.
“Mất một tháng chú mới tìm được chiếc nhẫn hoàn hảo,” ông Bob kể tiếp. “Chú biết phải là chiếc nhẫn này ngay khi nhìn thấy nó. Chú nghĩ hai viên kim cương sẽ nhắc cô ấy nhớ về các cháu; chúng là hai sắc thái khác nhau của cùng một loại kim cương.”
Đôi mắt Alex lập tức ngân ngấn nước sau khi nghe lời này. Conner thì khoanh tay lại chặt hơn.
“Đó là điều cảm động nhất cháu từng nghe đấy,” Alex thốt lên giữa những tiếng thút thít.
“Đừng làm cháu thích chú trở lại chứ,” Conner nói, cau mày lại.
Ông Bob ngồi thẳng lưng lên, vui mừng vì cuộc họp mặt giữa họ đang đi theo hướng tốt hơn. “Chú không hề cố gắng thay thế cha các cháu và chú cũng không yêu cầu các cháu phải coi chú như một người cha mới,” ông tiếp tục. “Điều chú đang làm là hỏi xin các cháu cho phép chú được ngỏ lời cầu hôn mẹ các cháu. Chú không muốn làm vậy mà không có sự chúc phúc của hai cháu.”
Bọn trẻ không thể tin nổi chuyện vừa xảy ra. Chúng đang có cảm giác mình chỉ là hành khách đi nhờ con tàu này, thế mà chú ấy lại để chúng lên làm thuyền trưởng?
“Chúng cháu cần một phút để suy nghĩ thông suốt ạ,” Conner nhanh chóng trả lời.
Trước khi Alex kịp nhận ra, cậu em đã kéo cô chị vào bếp. Cả hai đứng đó vài giây, hoàn toàn im lặng, chỉ đưa mắt nhìn nhau.
“Em đang nghĩ gì vậy?” Alex hỏi.
“Em đang nghĩ chuyện này thật khó chịu,” Conner đáp. “Còn khó chịu hơn cái bận em đi vào phòng trong lúc chị và mẹ đang trò chuyện về áo lót nữa.”
Alex trợn mắt và hé nhìn ông Bob ở phòng bên để đảm bảo rằng ông không nghe thấy chúng. “Nói thật lòng thì Conner à, chị không nghĩ chúng ta có quyền gì trong chuyện này. Chú Bob thật tốt khi xử sự như chúng ta có quyền quyết định, nhưng em đã nghe những gì chú ấy vừa nói và những gì mẹ nói tối qua rồi đấy. Chị nghĩ không có điều gì có thể ngăn cản họ đến với nhau.”
Conner thở dài và luồn tay vào mái tóc.
“Chị nói đúng,” Conner đáp. “Nhưng sao biết được mẹ có đồng ý hay không? Có khi mẹ vẫn còn do dự thì sao?”
“Do dự về cái gì chứ?” Alex hỏi. “Mẹ yêu chú ấy và chú ấy yêu mẹ. Cái gì sẽ ngăn mẹ lại chứ?”
Conner quay đầu tránh nhìn vào chị, không muốn nói ra những gì cậu đang nghĩ, nhưng cả hai đều đang có cùng một ý nghĩ.
“Cha mất rồi, Conner à,” Alex nói. “Cha sẽ không trở lại dù chúng ta mong mỏi đến mức nào đi nữa.”
Thật khó cho Alex khi phải nói thẳng điều này. Thông thường, cô bé để những người lớn trong đời mình làm cái chuyện “thương cho roi cho vọt”, nhưng vì họ cứ dần dần biến mất, cô bé phải đích thân nói ra điều này.
Conner biết chị nói với cậu cũng là đang nói với chính mình. Alex có tài nói ra những điều cậu không muốn nghĩ tới.
“Em nghĩ rằng mẹ đã cho chúng ta quá nhiều trong suốt những năm qua, ít nhất thì chúng ta cũng phải dành cho mẹ lời chúc phúc của mình,” Conner nói.
“Phải, đúng đấy,” Alex đồng tình và gật đầu. “Lại thêm một cái trọng đại nữa.”
“Lại thêm cái gì trọng đại chứ?” Conner hỏi.
“Một khoảnh khắc trọng đại,” Alex đáp và thở dài. “Chúng ta đã có nhiều khoảnh khắc như vậy lắm.”
“Phải đấy,” cậu bé đồng ý. “Em cứ nghĩ là bây giờ chúng ta miễn nhiễm với nó rồi chứ.”
“Miễn nhiễm với cuộc sống á?” Alex kêu lên. “Có ai may mắn đến thế không?”
Conner buột ra tiếng ậm ừ và chống tay lên hông. “Được rồi,” cậu bé quyết định. “Chú ấy có thể cưới mẹ, nhưng em vẫn sẽ gọi chú ấy là bác sĩ Bob.”
Bọn trẻ quay lại phòng bên. Ông Bob lo lắng đứng dậy đối diện với chúng.
“Thế nào rồi?” ông hồi hộp hỏi.
“Bồi thẩm đoàn đã ra phán quyết,” Conner trả lời. “Alex và cháu đã nhất trí rằng chú có thể cầu hôn mẹ chúng cháu.”
Ông Bob vui sướng vỗ tay và mắt ngân ngấn nước. “Các cháu à, các cháu đã biến chú trở thành người đàn ông hạnh phúc nhất trên đời!” Ông kêu lên. “Cảm ơn các cháu! Chú hứa sẽ chăm sóc mẹ các cháu suốt đời!”
Buster sủa vang và nhảy tưng tưng, cùng ăn mừng với họ.
“Chú sẽ cầu hôn mẹ ở đâu ạ?” Alex hỏi ông.
“Ở đây có được không, vào bữa tối nhé?” ông Bob nói. “Chú sẽ đặt món từ nhà hàng yêu thích nhất của mẹ các cháu và làm cô ấy ngạc nhiên khi đi làm về.”
“Chừng nào ạ?” Conner hỏi tiếp.
“Càng sớm càng tốt,” ông Bob đáp. “Tối thứ năm tới chú rảnh. Hôm đó được không nhỉ?”
“Cháu có tiết học vào buổi chiều nhưng cháu sẽ về lúc sáu giờ,” Alex nói.
“Tuyệt, quyết định vậy nhé!” ông Bob kết lại. “Chú sẽ cầu hôn mẹ các cháu vào sáu giờ tối thứ Năm tuần sau! Chú sẽ nhờ một vài cô y tá giữ cho mẹ các cháu bận bịu để cô ấy không thể về nhà sớm và làm hỏng bất ngờ của chúng ta. Chuyện này sẽ tuyệt lắm đây!”
Bọn trẻ cũng nóng lòng trông đợi tới thứ Năm. Cái chúng mong ngóng không phải sự kiện đó, mà là cơ hội được thấy mẹ hạnh phúc trở lại.
“Chú Bob này,” Conner thắc mắc, “chú có chuyển vào sống chung với chúng cháu không? Thường thì vợ chồng muốn sống cùng với nhau mà – ít ra là trong vài tháng đầu tiên.”
“Câu hỏi hay đấy,” Alex nói. “Chúng ta sẽ sống ở đâu?”
“Nhà của chú nhé?” Ông Bob đáp và nhún vai. “Trước khi vợ chú mất, chúng ta đã mua một ngôi nhà rộng rãi không xa đây lắm, với hy vọng sẽ tạo dựng nên một gia đình lớn. Thật tốt khi cuối cùng cũng lấp đầy được những căn phòng đó.”
Bọn trẻ nhìn quanh căn nhà thuê nhỏ bé của chúng. Ý nghĩ phải rời bỏ nó làm bọn trẻ thấy buồn; bất ngờ thay, nó đã trở thành một tổ ấm thân thương.
“Thật lạ khi phải chuyển nhà lần nữa,” Alex nói. “Nhưng cũng thật dễ dàng vì lần trước chúng ta vẫn chưa dỡ đồ ra hết.”
“Chú có một cái hồ bơi đấy,” ông Bob tiết lộ, cố gắng làm bọn trẻ vui lên.
Mắt Conner mở to. “Ôi chao, ôi chao,” cậu bé kêu lên. “Chú Bob, chú có thể tiết kiệm được cả một buổi chiều nếu bắt đầu câu chuyện bằng chữ ‘hồ bơi’ đấy.”
Alex trợn mắt. Ông Bob buột ra tiếng cười khúc khích khe khẽ.
“Giờ thì tốt hơn là mẹ phải đồng ý đấy, nếu không thì cháu sẽ thất vọng lắm,” Conner nói.
Thật khó để bọn trẻ tập trung vào bất cứ điều gì trong tuần tiếp theo. Cái ngày thứ Năm sừng sững trước mắt như một trang sách đánh dấu tương lai. Nó càng tới gần, bọn trẻ càng thấy bồn chồn hơn.
Alex và Conner không biết vì sao chúng lại căng thẳng đến thế; dẫu sao thì chúng có phải hỏi cưới ai đâu. Nhưng theo một cách kỳ lạ, bác sĩ Bob cũng kết hôn với cả chúng nữa. Và mặc dù rất lo âu, bọn trẻ cũng bắt đầu cảm thấy háo hức với ý nghĩ chú Bob sẽ trở thành một thành viên của gia đình chúng.
Conner hết sức mong ngóng một người đàn ông khác xuất hiện trong gia đình. Dù rất yêu mẹ và chị, cậu bé vẫn nhớ cảm giác có ai đó hiểu được khiếu hài hước của cậu.
Trong tuần đó, cậu bé đã viết một truyện ngắn ở lớp Ngữ văn, kể về một gia đình quỷ lùn mà người mẹ đính hôn với một gã yêu tinh. Đó không phải là miêu tả hay ho nhất về bất cứ ai trong gia đình cậu, nhưng nó giúp cậu khuây khỏa đôi chút. Cậu vẽ những hình phác họa bé xíu ở bên lề trang giấy; hai quỷ lùn con trông rất giống cậu bé và chị cậu. Con quỷ lùn dựa trên hình tượng Alex còn có một chiếc cài tóc phía trước sừng nữa.
Một chiều tan trường nọ, Alex bắt gặp Conner lúc cậu đang viết truyện. Cô bé chưa từng thấy cậu em say sưa với việc gì đến vậy.
“Cái gì đây?” Alex hỏi.
“Ồ, không có gì,” Conner đáp, có chút ngượng ngùng. Cậu vẫn chưa kể cho chị nghe về cuộc gặp gỡ giữa cậu và cô Peters. “Chỉ là một bài viết sáng tạo cho lớp Ngữ văn thôi.”
“Hay đấy – chờ đã, cái con đó là chị đấy sao?” Alex kêu lên và chỉ vào hình vẽ của cậu bé.
“Không đâu,” Conner chối. “Điều gì làm chị nghĩ thế chứ?”
“Bởi vì bên dưới nó có chữ “là Alex” kìa!” cô bé trả lời, cảm thấy khó chịu và bị xúc phạm. “Thật bất lịch sự quá đấy, Conner. Em mấy tuổi rồi?”
Conner nhìn lên chị với vẻ tội lỗi. “Có một việc em quên nói với chị,” cậu bé kể. “Đại khái là em đã viết về cả hai chúng ta rất nhiều ở lớp Ngữ văn.”
“Ý em là sao?” Alex ngạc nhiên.
“Về những chuyến phiêu lưu của chúng ta trong thế giới cổ tích,” cậu bé giải thích. “Chúng tạo thành những câu chuyện tuyệt vời – vậy là hôm kia cô Peters đã gọi em đến văn phòng cô ấy. Cô rất thích chúng và muốn em cân nhắc đến việc trở thành một nhà văn. Cô ấy nói có lẽ em có đủ phẩm chất cần thiết, dù cho đó là cái gì đi nữa.” Cậu bé ngừng lại. “Chị nghĩ gì hay có lo ngại gì không?”
Alex chớp mắt hai lần. “Chị nghĩ đó là một ý tưởng tuyệt vời!” cô bé đáp, và Conner thở phào nhẹ nhõm. “Sao em không nói chị biết sớm hơn chứ?”
“Em đã lo là chị sẽ không muốn em phổ biến chuyện của chúng ta khắp nơi,” Conner đáp “Chị cũng như là người đồng sở hữu những trải nghiệm của chúng ta mà.”
“Ngược lại thì có,” cô bé nói. “Chị nghĩ chúng nên được kể ra. Chúng ta đã thấy rất nhiều thứ và gặp gỡ rất nhiều người mà nếu chỉ giữ chúng cho riêng mình thì thật uổng phí biết bao. Cha sẽ rất tự hào về em.”
Conner mỉm cười một mình. Cậu bé chưa từng nghĩ đến điều đó.
“Thật sao?” cậu hỏi. “Chị nghĩ thế à?”
“Hẳn rồi,” Alex đáp. “Cha sẽ rất vui lòng khi cái gien kể chuyện được truyền cho một trong hai chúng ta. Chị lúc nào cũng cố kể lại truyện này truyện nọ, nhưng em giỏi việc đó hơn chị. Em có khiếu hài hước; mọi người thích nghe em kể.”
Conner nhún vai. “A, chị chỉ trêu em,” cậu bé nói. “Nhưng em sẽ không cãi lại đâu.” Cậu bé lôi xấp truyện cậu viết ra khoe với chị. “Truyện này kể về phiên tòa xử Trix và truyện này kể về việc Trollbella đã cho chúng ta tự do đổi lấy một nụ hôn – ước gì em có thể quên được nó. Đây là truyện đầu tiên em viết, về Cái Cây Cong, nhưng em cứ sợ rằng người ta sẽ phát hiện nó có thật nên em đã đổi thành Chú Hươu Cổ Cong. Nó không có ý nghĩa bằng truyện gốc, nhưng thôi, em vẫn đang học mà.”
“Truyện này tuyệt lắm, Conner,” Alex tán thưởng. “Tuyệt thật đấy.”
Conner cười toe toét đến tận mang tai. Cậu tin lời chị hơn lời cô Peters nhiều. Sự tán thành của chị là sự công nhận cần thiết để cậu tin vào chính mình.
Alex xem qua truyện của em. Cô bé mỉm cười rồi cười phá lên khi lướt qua chúng, nhớ lại những sự kiện mà truyện dựa vào.
“Ôi chao,” Alex chợt thốt, ngẩng mặt lên khỏi trang giấy, một ý nghĩ mới lóe lên trong mắt em. “Chú Bob. Chúng ta sẽ kể với chú ấy chứ? Chúng ta có kể cho chú ấy biết bà và cha thực sự là ai không?”
Conner không trả lời được. Ý nghĩ này chưa từng xuất hiện trong tâm trí bọn trẻ cho đến lúc này. Làm sao chúng chia sẻ được bí mật lớn nhất của gia đình với chú ấy đây? “Chúng ta có nên kể cho chú ấy không?” Conner hỏi.
“Chắc là nên, phòng khi bà xuất hiện trên ngưỡng cửa nhà chúng ta với một nàng tiên hay một chú yêu tiên,” Alex đáp.
Conner dõi mắt xa xăm. “Trời ơi, chúng ta là ai chứ?” cậu bé kêu lên. “Có gia đình nào khác gặp vấn đề giống thế này không? Phần đông mấy bộ xương trong tủ đâu có cánh.”
“Chị nghĩ thế nào rồi chú ấy cũng có nhiều điều muốn hỏi.” Alex nói. Em để vuột ra một tiếng thở dài. “Nhưng thật ra thì nó cũng chẳng còn quan trọng mấy. Kể với chú ấy chúng ta có dây mơ rễ má với một chiều không gian khác có ý nghĩa gì đâu khi chúng ta không còn liên hệ với nó nữa.”
“Chắc là chúng ta phải tùy cơ ứng biến rồi,” Conner nói. “Nó có thể là một cái cớ hay để chúng ta viện đến khi đã lớn hơn. Chúng ta có thể nói với chú Bob rằng chúng ta sẽ đi vào thế giới cổ tích rồi chuồn đi dự tiệc chẳng hạn.”
Alex nghiêng đầu nhìn cậu em với vẻ thắc mắc. “Vì sao chúng ta lại chọn một bữa tiệc thay vì thế giới cổ tích chứ?”
Conner lắc đầu. Cậu bé ước gì chị cậu suy nghĩ giống một cô bé tuổi teen bình thường dù chỉ một lần thôi. “Em cứ quên mất rằng chị chỉ là một cô bé lên tám mắc kẹt trong cái hình hài mười ba tuổi,” cậu bé nói. “Thôi chị đừng bận tâm.”
Một tuần rồi cũng trôi qua và bọn trẻ thức giấc vào một buổi sáng thứ Năm đẹp trời. Chúng trao cho mẹ những cái ôm lâu thật lâu trước khi rời khỏi nhà, khiến bà phải nhướng mày nghi ngờ dõi theo khi bọn trẻ rảo bước đến trường. Alex và Conner cảm thấy ngày trôi qua chậm chạp vô cùng. Cứ mỗi năm phút là chúng lại nhìn đồng hồ chỉ để nhận lấy nỗi thất vọng khi nó không thay đổi mấy. Vừa tan trường, Conner đã chạy vội về gặp ông Bob ở nhà để giúp chuẩn bị cho đêm đó. Cậu bé chạy tắt qua sân cỏ của nhà hàng xóm, bất cẩn đến nỗi suýt chút nữa đã vấp phải bức tượng thần lùn trên đó.
Alex sốt ruột đứng ngồi không yên nên chẳng thể tận hưởng trọn vẹn lớp học danh dự hay mơ màng trên chuyến tàu lửa về nhà. Vì mẹ, cô bé chỉ muốn đêm nay thật hoàn hảo. Và với cái cảnh mà Alex trông thấy khi về nhà thì mọi thứ cũng gần như hoàn hảo rồi.
Bàn bếp đã được phủ một tấm khăn trải bằng lụa và giữa bàn đặt vài ngọn nến. Trên bàn còn có chai sâmpanh và một chai rượu táo, chúng đang chờ được khui ra khai tiệc. Cả ngôi nhà thơm phức một mùi hương ngon lành, vì ông Bob đã đặt món ăn từ nhà hàng Ý mà bà Charlotte thích nhất.
Bác sĩ Bob diện một bộ com-lê thanh lịch, thắt cà vạt và giữ thật chặt chiếc hộp nhỏ trong tay, sợ phải buông ra. Cả Conner cũng đã đóng bộ nghiêm chỉnh, diện chiếc áo sơ mi cài khuy dưới đẹp nhất của cậu.
Alex cố gắng cài một chiếc nơ lên vòng cổ của Buster, nhưng nó không để cô bé làm thế. Chú chó đã hành xử lạ lùng từ mấy ngày nay. Chú ta cứ ngồi lì ở cửa trước và thỉnh thoảng lại gầm gừ với ai đó. Bọn trẻ đoán rằng có một con mèo lạ vừa xuất hiện trong khu phố, hoặc sự bồn chồn của chúng đã lây sang Buster.
Nhưng trừ chuyện này, mọi thứ có vẻ đều diễn ra đúng theo kế hoạch.
Alex chạy lên phòng ngủ thay một chiếc váy và cài lên tóc chiếc cài đẹp nhất. Cô bé xuống tầng dưới vào sáu giờ rưỡi và đến ngồi vào bàn cùng ông Bob và Conner.
“Mẹ sẽ về đây sớm thôi!” Conner nói. “Chú hãy cầu hôn nhanh nhanh nhé, chú Bob, cháu đói muốn chết rồi!”
“Chú sẽ cố hết sức,” ông Bob đáp. Ông cứ liên tục nhìn xuống chiếc nhẫn. Dù bọn trẻ rất hồi hộp, chúng biết thế vẫn chẳng thấm vào đâu so với những gì ông đang cảm thấy.
Bọn trẻ không thể chờ được tới lúc mẹ bước qua ngưỡng cửa và thấy mọi người đang chờ sẵn. Alex hy vọng mẹ không khóc quá nhiều, vì cô bé có thể khóc theo mất. Còn Conner hy vọng Alex không òa lên khóc vì như vậy có lẽ cậu sẽ òa lên theo và ở đây không có bụi để mà đổ thừa.
Thật không may, bà Charlotte về trễ nên ba người bọn họ phải ngồi đợi. Họ đợi… đợi… và đợi mãi. Hơn một giờ đã trôi qua sau thời điểm mà lẽ ra mẹ bọn trẻ phải về nhà.
“Chúng ta có nên gọi mẹ không?” Conner hỏi. “Có lẽ chúng ta nên gọi một cú điện thoại cho mẹ để biết mẹ đang ở đâu? Nhé? Nhé?”
“Không được,” Alex can ngăn. “Không được để mẹ nghi ngờ gì hết!”
Sau một giờ nữa, sự háo hức của bọn trẻ chuyển thành nỗi lo âu. Ông Bob quyết định cất thức ăn đi để chúng không bị hỏng.
“Chú đoán y tá Nancy đã quá chu đáo,” ông cười. “Chắc cô ấy đã đảm bảo cho mẹ các cháu không về đây quá sớm.”
Nhưng bọn trẻ không cười nổi. Lần cuối cùng phải chờ đợi lâu đến thế này, chúng đã mất cha.
“Chú sẽ gọi Nancy,” ông Bob nói sau khi chờ thêm một lúc, và quay số cho người đồng nghiệp ở bệnh viện nhi. “Xin chào, Nancy? Chào, là tôi bác sĩ Bob đây. Tôi đang ở với bọn trẻ; Charlotte đã đi về chưa?”
Alex và Conner nghiêng người về phía ông. Chúng chỉ nghe lõm bõm những lời y tá Nancy nói ở đầu dây bên kia. Từ những gì chúng nghe được, cô ấy có vẻ ngạc nhiên.
“Cô ấy đã về từ hai tiếng trước rồi à?” ông Bob nói vào điện thoại. “Chị có chắc không? Chúng tôi chưa nhận được tin gì từ cô ấy cả.”
Alex và Conner trao cho nhau cái nhìn hoảng hốt.
“Có chuyện không ổn rồi,” Alex kêu lên. “Chị có dự cảm không hay. Đã có chuyện xảy ra rồi.”
“Mẹ không bao giờ về trễ thế này,” Conner nói và lắc đầu.
“Được rồi, cảm ơn chị, Nancy, tôi sẽ gọi cô ấy thử xem sao,” ông Bob nói rồi cúp máy.
Sau đó, ông lập tức bấm số gọi bà Charlotte. Ông không nhìn vào mắt bọn trẻ, tránh cộng thêm vào nỗi lo của chúng bằng nỗi lo của chính ông. Ông thử gọi vài lần nhưng không ăn thua.
“Cô ấy không bắt máy, các cháu à,” ông Bob thông báo. “Các cháu có nghĩ mẹ đột xuất nảy ra ý định làm gì đó tối nay không?”
Alex, lo lắng đến phát bệnh, òa lên khóc. “Chúng ta cần phải gọi cảnh sát thôi!” cô bé kêu lên.
“Cảnh sát sẽ không nhúng tay vào cho đến khi cô ấy mất tích được bốn mươi tám tiếng,” ông Bob trấn an. “Đừng hốt hoảng vội.”
Conner đứng phắt khỏi bàn và đi lại quanh phòng. “Phải có việc gì chúng ta có thể làm chứ,” cậu bé nói.
“Chị sẽ lấy xe đạp và đi tìm mẹ,” Alex quyết định.
“Em sẽ đi với chị!” Conner tuyên bố.
“Không ai đi đâu cả,” ông Bob bình tĩnh nói, dù bọn trẻ biết ông ấy cũng rối trí như chúng. “Chúng ta đã thử gọi tới bệnh viện và gọi vào điện thoại của mẹ các cháu. Hãy đợi vài phút phòng khi cô ấy gọi lại.” Nước mắt bắt đầu ràn rụa trên gương mặt Alex khi cô bé càng lúc càng thêm lo lắng, không thể nào ngừng lo được. Bọn trẻ sợ rằng chuyện cũ, chuyện chúng từng phải trải qua, sẽ lặp lại.
Buster bỗng nhiên bắt đầu sủa như điên. Con vật dán mắt vào cửa trước, nhảy tưng lên và cào vào cửa, gầm gừ to hết sức có thể. Bọn trẻ chưa bao giờ thấy nó như thế trước đây.
“Buster, có chuyện gì vậy, anh bạn?” ông Bob hỏi. “Có ai tới…?”
Tiếng chuông bất thần vang lên. Tất cả bọn họ, kể cả chú chó, hoàn toàn chết sững. Không ai động đậy cho đến khi chuông reo tiếng thứ hai.
“Ai có thể đến vào giờ này chứ?” ông Bob thắc mắc rồi bước đến cửa. Bọn trẻ theo chân ông ra tới lối đi. Chúng gần như ước rằng ông đừng mở cửa. Dù đó là ai hay là cái gì đi nữa, đã đến giờ này thì không thể là chuyện gì tốt đẹp được.
Buster lại bắt đầu sủa ầm và cuống quýt nhảy chồm lên. “Buster, ngồi xuống đi, anh bạn,” ông Bob ra lệnh cho chú chó.
Buster lùi xa khỏi cánh cửa và đứng chắn ngay trước mặt bọn trẻ để bảo vệ chúng. Chú ta trông như sẵn sàng chồm tới tấn công ngay lập tức nếu không thích cái mình nhìn thấy. Chú chó cảm giác được điều gì mà bọn trẻ không thể chăng?
Ông Bob quay lại nhìn hai đứa trẻ đang lo lắng khổ sở. “Sẽ ổn thôi, các cháu à,” ông điềm tĩnh nói. “Dù có chuyện gì xảy ra đi nữa, hãy nhớ rằng mọi chuyện rồi sẽ ổn cả.”
Ông Bob đẩy cánh cửa mở ra từ từ và hé mắt nhìn ra mái hiên. Không có ai ở đó cả.
“Xin chào?” ông gọi với ra.
Vẫn không có người hay vật nào lộ diện.
“Xin chào?” ông thử lại lần nữa. “Có ai ở ngoài đó…?”
“Bắt lấy hắn ta!”
Chỉ trong tích tắc, một tá quân lính mặc áo giáp bạc xông qua cửa. Một người xô mạnh ông Bob vào tường. Alex thét lên. Conner chụp lấy tay chị và chúng cố chạy sang phía bên kia căn nhà, nhưng quân lính đã vây chặt xung quanh bọn trẻ và Buster.
Họ rút kiếm ra và trên tay là những tấm khiên nặng nề, mặt ngoài có trang trí hình một đôi giày thủy tinh nhỏ. Bọn trẻ ngay lập tức nhận ra – đó là quân đội của Vương quốc Charming – nhưng họ đang làm gì ở đây chứ?
“Bỏ tay khỏi người ta mau!” ông Bob kêu lên, chống cự những kẻ đang khống chế mình. “Tránh xa những đứa trẻ đó ra! Các người là ai?!”
“Chúng tôi đã vây chặt hai đứa trẻ sinh đôi rồi,” người lính đừng gần Alex nhất gọi vọng ra cửa. “Mời Bà Tiên Đỡ Đầu vào.”
Alex và Conner quay phắt lại nhìn nhau, nhanh đến suýt sái cả cổ. “Bà Tiên Đỡ Đầu?” chúng đồng thanh thốt lên đầy nghi hoặc.
Hai người lính khác lập tức xông vào nhà, đi trước họ không phải ai khác mà chính là bà nội bọn trẻ.
“Bà!?” bọn trẻ nhất loạt há hốc. Chúng suýt nữa đã không tin vào mắt mình.
Bà nội chúng trông hệt như trong buổi gặp gỡ cuối cùng. Bà mặc bộ váy dài màu xanh da trời lấp lánh như bầu trời đêm. Mái tóc bà được búi cao, cài hoa trắng. Vẻ quyền uy toát lên khi bà bước vào nhà, giơ cao cây đũa thần pha lê; bọn trẻ chưa bao giờ thấy bà có vẻ lo âu như lúc này.
“Ôi, ơn trời,” bà thốt lên.
Đội quân mở vòng vây khi bà bước tới rồi ôm chầm lấy Alex và Conner.
“Các cháu không biết bà vui sướng đến mức nào khi được gặp các cháu đâu,” bà nói, ôm hai đứa chặt đến nỗi làm chúng muốn nổ tung.
Bọn trẻ không đáp lại cái ôm của bà. Chúng không thể tin nổi mình đang được trông thấy bà ngoài đời thực. Đầu chúng xoay mòng mòng với bao nhiêu là câu hỏi, nhưng chúng chỉ thốt lên được vài lời tối thiểu.
“Bà?” Alex hỏi. “Có phải là bà thật không?” “Bà đã ở đâu vậy bà?” Conner hỏi thêm.
Bà nội bọn trẻ âu yếm đặt hai tay lên má hai đứa. “Bà xin lỗi vì đã đi xa lâu đến thế,” bà buồn bã nói. “Bà hứa sẽ giải thích rõ mọi chuyện sau.”
Bà lặng đi một lúc và nhìn bọn trẻ qua đôi mắt nhòa lệ. Bọn trẻ biết bà cũng nhớ chúng da diết như chúng nhớ bà vậy. “Nhìn hai cháu mà xem – hai cháu đã cao lên ba tấc kể từ lần cuối bà gặp các cháu đấy,” bà nói.
Ngay lúc đó, một người đàn ông trông rất quen thuộc bước qua cửa trước. Ông có một quai hàm cương nghị, và đang mặc một bộ com-lê vàng rực rỡ. Trước sự ngạc nhiên của Bob, vai và tóc của người đàn ông này đang bốc lửa theo đúng nghĩa đen. Bọn trẻ nhận ra ông ấy ngay lập tức; đó là Xanthous, ông tiên duy nhất trong Hội đồng Tiên.
“Tôi đã kiểm tra xung quanh khu vực,” Xanthous báo cáo. “Không có gì đáng ngờ cả.”
“Xanthous?!” Alex thốt lên. “Ông ấy đang làm gì ở đây vậy?”
Ông Bob chống cự dữ dội với những người lính đang ghì chặt ông vào tường. “Chuyện gì đang xảy ra thế này?!” ông gào lên. “Các người là ai?”
Bà giơ đũa thần chĩa về phía ông Bob. Xanthous cũng chĩa mấy ngón tay vào Bob và cả bàn tay của ông bất thần bốc cháy. Cả hai sẵn sàng chiến đấu nếu cần thiết.
“Các cháu có biết người đàn ông này không?” Xanthous hỏi bọn trẻ.
“Có chứ, đó là bác sĩ Bob,” Conner đáp. “Đừng đốt cháy ông ấy! Đó là bạn trai của mẹ chúng cháu!”
“Bạn trai?” Bà ngạc nhiên và hạ đũa thần xuống. “Ồ, chắc là bà đã vắng mặt lâu hơn bà tưởng!”
“Thả ông ta ra,” Xanthous ra lệnh và thả tay xuống. Những người lính thả ông Bob ngay lập tức.
“Người phụ nữ này là bà của các cháu ư?” ông Bob hỏi bọn trẻ. “Bà ấy làm việc trong gánh xiếc hay sao vậy? Tất cả những mẹo lừa và phục trang này là gì thế?”
“Gánh xiếc là cái trò gì vậy?” Xanthous vặn hỏi, không biết mình có nên cảm thấy bị xúc phạm hay không.
Alex và Conner không biết phải bắt đầu từ đâu.
“Chú Bob, chuyện dài lắm,” Alex mở lời.
“Tóm lại là, bà nội chúng cháu là người của thế giới cổ tích, là Bà Tiên Đỡ Đầu của Lọ Lem,” Conner giải thích. “Cháu biết chuyện này thật khó chấp nhận nên chú cứ thong thả đi ạ - nhưng chúng cháu hứa rằng đó là phiền toái duy nhất của gia đình chúng cháu.”
Mắt Bob mở to hơn và ông liếc nhìn những người lính, nhìn bà của bọn trẻ, và Xanthous.
“Ừ hử,” ông ậm ừ ngờ vực.
Bà nội bọn trẻ nhìn quanh phòng khách, vẻ mặt hết sức trầm trọng. “Mẹ các cháu đâu?” bà hỏi.
“Chúng cháu không biết,” Conner trả lời.
“Lẽ ra mẹ phải về từ mấy giờ trước rồi,” Alex đáp.
“Bà ơi, có chuyện gì không ổn sao ạ?” Conner hỏi. “Bà có biết mẹ chúng cháu đang ở đâu không?”
Bà chúng không trả lời mà thần người suy nghĩ.
“Bà ơi, chuyện gì đang xảy ra vậy ạ?” Alex gặng hỏi. “Chúng cháu không gặp bà hơn một năm rồi – vì sao bà lại đột ngột xuất hiện? Bà phải cho chúng cháu biết chuyện gì đang xảy ra chứ. Mẹ chúng cháu đâu?”
Bà đưa mắt nhìn bọn trẻ, hết đứa này đến đứa kia. “Các cháu à, những gì bà sắp cho các cháu biết đây sẽ rất khủng khiếp,” bà nói. “Nhưng bà cần các cháu mạnh mẽ lên và hãy tin rằng nhiều người có khả năng đang đối phó với tình huống này.”
Bọn trẻ nóng ruột gật đầu. Biết được bất kỳ một tin tức nào đó vẫn hơn chẳng biết gì cả.
“Bà cho rằng mẹ các cháu đã bị bắt cóc,” bà chúng thông báo.
Bọn trẻ đã lầm; thà không nhận được tin gì còn hơn biết chuyện này.