Trát đòi
Tôi không nên trở lại ngôi nhà này mới phải. Cứ như tôi đã tự nộp mình. Cứ như tôi không còn nhớ gì tội của tôi và phải về qua nơi chốn này mới biết lỗi mình đã phạm. Ngôi nhà thuở ấu thơ hóa thành tòa xử. Tôi sẽ bị tra câu hỏi ấy rồi sẽ bị kết án hỏa thiêu. Lúc tôi đến trước cửa, một giọng nói đã hỏi tôi, Ngươi từ đâu đến? Tôi không biết làm sao trả lời. Chỉ ngôi nhà mà nói, Tôi đến từ đây và tôi mong được về đây, sẽ là dối trá. Từ lâu rồi tôi không còn muốn nhớ rằng tôi đến từ đấy và tôi đã lên đường trở về chỉ vì thôi thúc với cảm thức sắp bại trận. Kẻ chết tôi mang trong tôi, người em gái song sinh chôn trong ngôi nhà thuở ấu thơ mà tôi đã giết đi giết lại để tự cho mình một giả tưởng hiện hữu, y đã sống lại. Ngày càng lớn, ngày càng hiện diện, càng tràn lấn. Cuộc chiến nổ ra. Có ai thắng được những bóng ma. Xin hưu chiến, tôi đã phải chấp nhận quay trở lui. Tôi không có chọn lựa nào khác. Y khiến trí tôi điên loạn. Cả đến thân xác tôi cũng bắt đầu có những triệu chứng thất tán. Chẳng phải để tuân lệnh y cho bằng để cứu đầu óc tôi khỏi mơ cuồng và thân xác tôi đã thành ổ nhiễm trùng, y đã thành công đuổi được tôi ra khỏi tôi, tôi, người chỉ có cái đầu của mình là chỗ trú ngụ an toàn, cái đầu trong ấy tôi đã tích tụ minh triết cả thế gian, cái đầu bày biện những từ ngữ sắp xếp đâu ra đó - chỉ cần mở một ngăn kéo và lục lọi các ô tôi sẽ lấy ra ngay một bộ phiếu cho tôi đủ mọi kiến thức về cuộc sống, cái chết, tình yêu... Người em một bọc đã làm đầu óc tôi điên đảo. Bộ bách khoa riêng tư của tôi không cho tôi tìm tới một trợ lực nào. Tôi hết phương cầu cứu lời thú nhận kia của Kafka, đoạn chót trang 281 ấn bản bỏ túi, hay lời an ủi nọ của Plutarque đọc trên chuyến xe lửa Paris-Bruges hôm 15 tháng Hai. Câu này câu khác lẫn lộn với nhau, các tam đoạn luận đảo ngưọc thứ tự, những câu viện dẫn của các tác giả coi là cao quý liên kết với những mẩu đối thoại của một anh văn sỡi đọc trong một lúc trí phê bình lười biếng mà còn sót trong trí nhớ. Tất cả những hôn phối nghịch thường ấy sản sinh ra một lũ từ ngữ con hoang khiến tôi đâm ngờ vực cái vốn Pháp ngữ chính thống của mình, học khi rời bỏ ngôi nhà thuở ấu thơ.
Ngôn ngữ ấy từng là người liên lạc giữa tôi và quá khứ của tôi cho đến khi nó hóa thành kẻ xách động: những từ nó trao cho tôi lại trở thành những khí cụ chết chóc trong tay tôi. Gỡ tội cho mình, tôi gọi đến các trang bi kịch cổ đại. Tôi tin mình vĩ đại chẳng kém gì Agamemnon thành Aulide. Tôi, tôi cũng có một Iphigénie đem hiến sinh trước khi lên đường đi chinh phục thành Troie. Tôi đã chỉ quên một điều: kẻ hậu duệ Atrée kia bị đem hành hình khi đặt chân về đến quê hương.
Thế nhân của tôi đem hy sinh rồi, tôi chặt đứt mọi dây dợ còn buộc ràng tôi với ngôi nhà thuở ấu thơ. Y được chôn nơi đó. Tôi chẳng có quan hệ gì với cái phần đã chết ấy nữa. Tôi vui thích lặp lại lời cầu nguyện của Phu nhân Macbeth, Hãy đóng kín nơi tôi mọi lối, mọi nẻo tới hối hận. Nhưng không đại dương từ ngữ nào đủ rửa sạch máu xưa ấy. Đến ngày máu lên tiếng át mọi từ ngữ, ngày hồn ma Iphigénie đòi phân giải. Đến ngày con sông tôi muốn ngược dòng lại chảy trở ngược, và tôi phải tự thú, Tôi đã đi trong máu quá xa, nên, nếu không vượt chỗ lội này, quay về hay tiến bước cũng sẽ khổ nhọc như nhau.
Thế thì tôi đã về trong ngôi nhà thuở ấu thơ. Bốn bức tường, trước đây xiết bao đùm bọc, nay xanh xao thù nghịch. Chúng có mắt, có tai. Quan sát tôi, rình rập tôi, phán xét tôi. Hết những gì tôi sẽ nói, hết những gì tôi sẽ làm sẽ đều dùng cáo buộc tôi. Trước tòa án các hồn ma, bị can không có chút quyền nào. Những điểm trình bày để tự biện hộ làm dày thêm cáo trạng. Dẫu sao, bị can đâu tìm cách tự biện minh. Tự việc có mặt trước tòa án đặc biệt này là một thú nhận phạm tội rồi. Có điều, y không còn biết cái gì đã đưa đây mình phạm tội. Có phải tại thù hận nguồn cội? Y không tin thế. Tất nhiên y bao giờ cũng vẫn mong ước không thuộc một gia đình nào, một tổ quốc nào. Y bao giờ cũng quan tâm đến căn các từ hơn là đến tổ một dòng họ, đến khoa từ nguyên hơn là đến khoa phả hệ. Và không gì làm y vui thú bằng gán được cho những từ ưa chuộng một gốc gác tưởng tượng nào đó. Có thể nào sự cám dỗ kiếp con hoang đã khiến y chối bỏ cái phần trong y vẫn gắn bó với lỗ rốn nguyên thủy?
Tôi bước ra, câm nín, trước các quan tòa. Họ đã xếp đặt quanh tôi những món đồ tưởng như sống lại từ khi tôi về đây. Tất cả những thứ từng phế thải trong các xó xỉnh trí nhớ của tôi nay được dịp báo phục. Chúng hồi sinh chỉ để chê trách tôi. Cái bàn viết, với các vệt mực, nhắc tôi rằng tôi đã ngồi đấy nguệch ngoạc những chữ đầu bảng chữ cái. Nó còn giữ dấu vết những bước đầu của tôi trong thế giới các từ ngữ, thuở ấy vô cùng huyền bí với tôi. Cái kệ bên trên bàn viết trưng ra tựa những vết thương những cuốn sách rã rời xưa kia đã dạy tôi mơ mộng và tôi đã bỏ đó đi săn đuổi những kho tàng khác. Nằm vắt ngang trên một cái ghế, con rối bằng gỗ từng chơi với tôi trò Chỉ-có-chúng-ta-trên-đời đã mất một tay và nụ cười ảm đạm của nó trách tôi đã phản bội người bạn đầu tiên của mình. Gần cửa sổ treo cây thánh giá từng khiến tôi hãi hùng mỗi khi thức giấc đêm khuya và thấy cái người đầu đeo vòng gai nhọn cúi xuống phía tôi. Như muốn nhấc tôi lên đem đóng đinh luôn cả tôi trên thập tự. Kia, dưới đất, lăn lóc những hòn bi tôi đã đem mấy con tem đánh đổi. Bằng ba con tem nước ngoài, tôi đổi được một hòn bi với những sắc quý hiếm. Giờ thì không phải là những hòn bi nữa. Mà như những con mắt. Ngó tôi một cách gay gắt. Trong ngăn kéo dưới cùng cái tủ là đôi giày đính những cái vòng, quà sinh nhật của tôi năm lên ba. Hồi ấy tôi thích đôi giày ấy đến độ tôi đòi bó chân để có thể mang chúng suốt đời. Nhưng rồi tôi đã xỏ đôi hia bảy dặm bỏ đi xa, và đôi giày Cô Bé Lọ Lem để lại trong một xó trí nhớ. Dưới gầm tủ, nhốt trong một cái hộp lớn hình chữ nhật, bộ đồ ăn bằng đất nung đợi được đem dùng lần cuối. Trong không khí vẫn phảng phất cái mùi khét như thuở xưa, khi tôi ninh quá lâu nồi rau cho con rối với tôi. Nhưng lẫn với mùi mà hồi ức khứu giác trả lại cho tôi lại có những mùi khác nữa.
Dường như mùi thơm trái cây. Những trái của cái cây tôi trồng trong vườn năm lên năm. Năm lên mười tôi thích lén cha mẹ trèo lên cây ấy. Cái đêm tôi rời ngôi nhà thuở ấu thơ, gió khiến lá cành rền rĩ. Một khúc ca bi đát tiễn tôi lên đường. Nhiều khi, về sau, tôi lại nghe cất lên lời than van này. Lẫn trong đầu tôi với một bài ru em tôi đã quên lời, nhưng âm điệu du dương vẫn vang vọng trong tôi như một thánh ca nội tâm. Nó đã bặt tiếng sau khi người em gái song sinh của tôi bị giết. Bây giờ tôi đã về trong ngôi nhà, nó từ tim gan tôi tuôn ra, xâm chiếm tôi, nhưng phát ra những âm thanh lạc điệu. Đấy là âm nhạc các quan tòa. Nó hét lên với tôi, Ngươi đã lìa bỏ nhà ngươi, đất nước ngươi, ngươi cũng không còn biết gọi tên những món đồ nhỏ nhoi làm ngươi xúc động kia bằng ngôn ngữ của ngươi ngày trước. Tôi trả lời, Nhưng ngôn ngữ nào là ngôn ngữ của tôi? Tôi chỉ biết hai ngôn ngữ, những lời ấp úng của tuổi thơ và những chữ rực lửa thiêu đốt tay tôi mỗi khi viết về nguồn cội mình. Các phán quan khảo tra không nghe tôi biện hộ. Tòa đã quyết định. Tôi bị kết án phải thấy ngôi nhà thuở ấu thơ mất tích. Tịch thu quá khứ là hình phạt tôi phải chịu cho tội phản bội. Đầu óc tôi quay cuồng. Mọi vật nhảy múa xung quanh tôi. Tôi ngất đi.
Khi tôi tỉnh lại, những bức tường vẫn đấy, nhìn tôi soi mới như thể tôi là một kẻ không mời mà đến. Cái bàn viết, con rối, mấy cuốn sách, cây thánh giá đã nhường chỗ cho những bích chương lạ lùng. Bên tôi lăng xăng vài nhân vật mang đồng phục. Có những người khách bước vào, vẻ mặt ít nhiều lo lắng, và trở ra sau khi run run điền và ký một số giấy tờ. Ba người đàn ông đột ngột xuất hiện. Người đi giữa hai tay bị còng. Tôi nhận ra mình ở trong một đồn cảnh sát. Tôi đã đi trọn con đường này, từ chốn lưu vong về quê hương, tìm lại ngôi nhà thuở ấu thơ và ngôi nhà ấy nay là chỗ của viên chức an ninh quốc gia. Nơi đây là sở ghi nhận các tố giác. Nơi đây người ta đọc những thư nặc danh đưa vào tù những ai gây phiền nhiễu. Từ nơi đây xuất phát những thông tư ra lệnh hỏa thiêu sách vở và xét nhà những kẻ bất phục tùng. Nơi đây không còn một dấu vết những gì chất chứa hết mọi thân thương năm năm đầu đời của tôi. Nơi đây ngọn cây do tay tôi trồng đã bị đốn ngã lấy chỗ dựng chòi canh cho lính gác mang súng chặn lối vào thánh địa. Nơi đây người em gái song sinh của tôi đã chết. Tôi đã giết nó. Họ đã tuyển mộ hồn ma nó. Tôi lại phải ra đi thôi. Nếu như tôi làm xiêu lòng được - nhưng bằng ngôn ngữ nào đây? - cái gã gác cửa dữ dằn đòi xét giấy thông hành của tôi.