← Quay lại trang sách

Ngày Bonel gặp người viết điếu văn khóc mình

Tối Chủ nhật. Hàng tháng rồi tôi không mở cuốn nhật ký này. Cái thói quen mấy năm qua cứ mỗi tối viết vài hàng bắt đầu làm tôi nản lòng. Tôi chỉ còn ghi hai, ba từ, hầu như chẳng bao giờ thay đổi, Mệt, không hăng hái, kiệt lực. Không phải chỉ mệt mỏi thể chất. Trí óc tôi nhũn ra. Hồi đầu, mấy cuốn tập ấy tôi dùng viết nháp các bài phê bình cùa tôi. Nhét hỗn độn ở đó tất cả những cảm tưởng của tôi khi đọc sách. Trong những trang ấy tôi có thể buông thả mình. Hết mê say hứng thú lại chê trách thậm tệ. Tôi bốc tận mây xanh vài người may mắn. Còn số đông, tôi bỏ cháy thiêu dưới địa ngục. Tôi giải tỏa dồn nén như thế. Rồi, đến lúc viết bài phê bình, tôi sàng lọc tất cả các cảm tưởng của tôi. Chỉ giữ lại những gì chừng mực nhất, xứng đáng xuất hiện trên tờ báo tôi cộng tác, tờ báo chủ trương sự chừng mực là một chinh phục của người văn minh. Với thời gian qua, hứng thú của những buổi đầu đã nhường chỗ cho chán chường. Tôi không còn thiết tranh đấu nữa và tất cả chìm vào lề thói tẻ nhạt.

Tôi đã đến giai đoạn ấy trong cuộc đời nhà phê bình văn học của tôi. Quyền lực của tôi càng mở rộng thì nhiệt tình của tôi càng lụi tàn. Bây giờ nghĩ lại những ngày đầu, tôi có cảm tưởng đã đánh mất một người em nhỏ, nhưng tôi chẳng còn đủ xúc động khóc người bạn tuyệt vời ai ai chúng ta cũng từng có - người lẽ ra chúng ta đã phải thành. Con người tôi từng hy vọng trở thành ấy đã chết không một tiếng động và tất cả, quanh tôi, bắt đầu bốc mùi rữa nát. Những cuốn sách tôi nhận được đều mang hơi hướm chết chóc, tôi kết những vòng hoa cho chúng, nhưng những hoa giả ấy, ném tứ tung, mang trong chúng mầm tang chế. Càng thấy cái chết lảng vảng, tôi càng vùng vẫy thách đố nó. Mỗi ngày tôi cử hành lễ chôn sống chính mình, cho đến khi Lebon vào giúp việc tôi. Tôi đã nhận cho anh tập sự theo yêu cầu của chú anh, một chính khách rất nổi tiếng và cũng là một nhà thơ trường phái Petrarca, như ông tự nhận. Ông duyên dáng, khôn khéo, miệng lưỡi, lại luôn luôn xuất hiện trên khắp các truyền thông, khiến thơ ông nhận được những bài nhận định tán tụng, những bài khiến lũ khinh bạc nhất bọn chúng tôi không biết nên cười hay nên khóc. Người chú thì có tài lôi cuốn ngay cả kẻ thù tệ hại nhất của mình, còn Lebon lại là, hồi đó là thì đúng hơn, anh chàng tẻ nhạt nhất cả đời tôi chưa từng gặp. Ba ngày đầu tôi phải tự hỏi không chừng anh đã phát nguyện tịnh khẩu: anh đến nơi, ngồi vào bàn làm việc và chẳng nói năng gì nữa. Gầy gò, da trắng bệch, cặp mắt hum húp, trông anh lúc nào cũng có vẻ đau yếu. Tôi đem chuyện ấy nói với người chú, và ông ta xác nhận anh đau tim. Chớ đả động với nó chuyện ấy. Nó không chịu được người ta tội nghiệp mình. Nhất là vì, chắc thế, người chú luôn luôn tở thái độ hạ cố đối với anh: Lebon là kẻ bất tài vô tướng trong một gia đình quyền quý. Hồi đầu, tôi nhìn anh như ai ai cũng vẫn nhìn anh: một cách châm biếm và ít nhiều kẻ cả. Nhưng, tuy lầm lì như thế, anh lại vô cùng dễ thương, đến độ người ta đâm ra tự hỏi anh chơi trò gì đây: phải đấy là một kẻ cơ hội, sẵn sàng làm những gì đê tiện nhất miễn là đổi được một địa vị? phải đấy là một bản tính hèn hạ, một tâm hồn nô lệ, bao giờ cũng thỏa mãn với số phận mình? Tôi dồn cho anh đủ chuyện nặng nhọc, anh thi hành chẳng một lời ta thán. Mỗi khi ra máy lấy cà phê anh không bao giờ quên bưng lại cho tôi một tách. Nhưng với tôi thì mọi cách nịnh nọt đều vô ích.

Nghi hoặc mãi, một hôm tôi nhất định tìm cho ra lẽ. Tôi mời anh đi ăn trưa. Suốt bữa ăn tôi nói chuyện nghề nghiệp. Phải biết kiên trì rình chờ, nắm bắt tất cả những gì di động, nhưng không lội ngược dòng. Nhọc công vô ích, ta không tranh đấu vì vinh quang của người khác, cho dẫu ta được hưởng chút hương thừa. Chỉ cần làm vừa đủ để được những con quái ích kỷ ấy hàm ân - nhưng họ có biết hàm ân không nhỉ? Anh lặng lẽ nghe tôi nói, hút thuốc hết điếu này đến điếu khác. Tôi hả dạ đứng lên, yên trí mình đã khiến bạn mình khâm phục - tôi nói bạn, vì từ đó tôi đem lòng thương mến anh, như đại bàng xòe cánh che chở một chim én. Anh không nói gì cho đến lúc chúng tôi ra tới đường. Bấy giờ, anh thản nhiên lưu ý tôi bài báo về kịch của Zeami, do tôi đặt người viết là một nhà trí thức bàn-đủ-mọi-vấn-đề rất thời thượng và vừa trở về sau một chuyến đi Nhật, anh lưu ý tôi bài báo ấy gồm toàn những điều xuẩn ngốc đầy rẫy sai lầm. Quả là nhân vật ấy suốt nửa bài báo chỉ nói về một cô gái gặp gở ở Shinjuku - lấy cớ nhờ cô ta ông mới khám phá Zeami - còn nửa bài kia dành để kể các cảm tưởng về nước Nhật với kết luận như sau: nước Nhật đương đại hấp dẫn hơn nước Nhật của Zeami. Tuy nhiên phải đọc Zeami trước khi đi Nhật vì rất dễ gặp phải một cô sinh viên mê cuồng nhà viết kịch. Tôi đã thích bài báo - thôi thì cứ nói tôi đã tán thưởng, vì tôi gần như chẳng còn thích gì, ngoại trừ những lúc người ta bảo tôi đã tạo nên tiếng tăm cho vị này vị kia. Tôi giải thích cho Lebon rằng bài bình luận ấy rất được, vì độc giả chú ý tác giả bài ấy, nhà trí thức bàn-đủ-mọi-vấn-đề và rất thời thượng, chứ chẳng chú ý tác giả mà ông ta nói đến. Với bài ấy ta không biết được gì về Zeami, tất nhiên rồi. Nhưng ta biết rằng người rất thời thượng kia đã đi Nhật và ở Shinjuku có đề cập tới Zeami, tác giả mà chín phần mười độc giả chưa bao giờ nghe nói và chẳng vì thế mà hề hấn gì. Cả tôi cũng chưa hề đọc ông, nhưng tôi hài lòng được biết Zeami có thể là câu thần chú mở cho ta trái tim các cô sinh viên Nhật... Lebon tái xanh, đúng ra nhợt nhạt như xác chết, vì chút ít máu luân lưu trong anh đã rút khỏi khuôn mặt anh. Chưa bao giờ tôi chứng kiến sự cuồng nộ câm nín như thế. Và thình lình, tôi cảm thấy tim đập dữ dội, như thể tôi vừa tìm lại được một người em đã mất. Anh từ biệt tôi lúc đến góc phố.

Tôi trở về tòa báo. Tôi điện thoại ngay cho con người rất thời thượng, nói với ông rằng chúng tôi rất tán thưởng bài của ông, nhưng trong hoàn cảnh lúc này bài ấy không thích hợp. Chúng tôi đã trông đợi một bài cho chúng tôi hiểu biết nhiều hơn về Zeami. Yên lặng một lúc ở đầu dây bên kia, như thể người đối thoại với tôi, ngỡ ngàng, đang tự hỏi chúng tôi có những yêu sách phi lý như thế từ hồi nào. Nhưng vì tờ báo của chúng tôi trước nay vẫn hữu ích cho quyền lợi của ông, ông không giận và bằng lòng rút lại bài của mình, vả lại ông chẳng khó khăn gì gửi đăng nơi khác. Hôm sau, khi Lebon, trông còn bệnh hoạn hơn thường ngày, bước vào văn phòng, tôi nhẹ nhàng bảo anh rằng anh phải viết cho tôi sáu trang về Zeami. Một chớp sáng bừng lên trên khuôn mặt buồn bã của anh. Tức thì anh giam mình trong văn phòng và ngay chiều ấy trao cho tôi một văn bản khiến choáng ngợp cặp mắt mỏi mệt của tôi. Người em nhỏ đã mất bất chợt tái xuất hiện. Liên tiếp sau đó là cả một loạt bài bao giờ cũng viết trong cuồng nhiệt, hưng phấn không ai có thể tưởng tượng được nơi kẻ ốm yếu này. Tôi sống lại, nhưng đồng thời cảm thấy mình khổ ải trước nghị lực của anh, trước những hăng say, những lạ lùng trong các bài anh viết. Anh vẫn rất ít lời, trừ khi bộc lộ đam mê của mình. Tôi đóng vai trò vùi dập, Rồi chú sẽ thấy, vài năm trong nghề nữa thôi là chú hết còn đọc nhiều như thế, chú cũng sẽ mệt mỏi như tôi, như tất cả chúng tôi. Anh cãi, Anh mệt mỏi bỏi vì anh không còn yêu thích nữa. Mỗi tuần anh đều mang đến một bài mới về một tác giả người ta không đọc kỹ, không biết thích, không bênh vực. Và mỗi bài đều chứng tỏ sự hiểu biết sâu sắc tác phẩm, tuy Lebon không bao giờ đề cao mình hay những hoang tưởng của mình đối với những người anh khăng khăng sôi nổi bênh vực chẳng khác một ông thủ từ. Rủi thay, anh nói toàn về những người đã chết. Không phải các nhà văn đã chết nhưng từng là bộ trưởng, từng kết hôn với các cô đào, lai vãng giới thượng lưu Paris hay đã sáng chế ra một chủ thuyết gì đó. Không, luôn luôn là một kẻ cô độc, một kẻ điên rồ, một kẻ háo sắc thỏa mãn sự đồi trụy của mình bên những tình nương tưởng tượng, kẻ mà Lebon cho thấy đã, vào một thời chưa ngự trị châm ngôn Tất-cả-đều-được-phép, vi phạm các cấm đoán còn nhiều hơn là các tay chuyên nghiệp thoát y trước công chúng thời chúng ta.

Mọi chuyện đều tốt đẹp. Tôi lèo lái như khi trước, lương tâm đã có người em nhỏ trấn an. Nhưng ban giám đốc triệu tập tôi lên gặp. Lebon đang biến phụ trang văn học thành một nghĩa địa và một nhà thương điên. Không được nói đến những người chết nữa. Không được nói đến những kẻ dị thường nữa, hoặc có thì chỉ nói đến những kẻ tức cười, những kẻ người ta có cả kho giai thoại. Từ nay bài vở của Lebon không được quá một trang, và anh ta ham thích thây ma như thế thì để cho anh ta phụ trách viết điếu văn. Muốn chôn người chết thì phải đã yêu thích người ấy khi họ còn sống. Mà Lebon lại chẳng yêu thích gì, hay đúng hơn chẳng nói một lời về những gì đang diễn ra, ngoại trừ về một người duy nhất, Bonel. Lần đầu anh đề cập với tôi về Bonel, tôi hiểu lầm là Monel, nhà văn khi xuất hiện người ta đã sôi nổi chào đón mười năm trước, vào lúc tôi gia nhập tờ báo này. Tôi kinh ngạc. Monel, kẻ quảng giao, kẻ quyến rũ phụ nữ, nói năng duyên dáng, lại biệt tài thao túng các truyền thông, hoàn toàn trái ngược với những gì Lebon cảm thấy gần gũi. Bonel đã bị Monel che mờ.

Lục lạo trí nhớ, tôi thấy nổi lên một khuôn mặt nghiêm khắc, trông xa tưởng vô vị, đến gần mới thấy lạ thường do cặp mắt sáng ngời. Bonel đã viết khoảng chục cuốn sách, năm tiểu thuyết, hai vở kịch và ba tuyển tập thơ. Tôi chưa đọc cuốn nào - nhưng, trong phụ trang của chúng tôi, tất cả đều có bài bình luận, tuy là những bài khá nhạt nhẽo hoặc diễn đạt lố bịch đến độ không ai hiểu được. Bonel hiện diện, nhưng ông chẳng có gì khả dĩ khiến người ta chú ý và dường như chẳng bao giờ làm bất cứ điều gì khiến người ta chú ý. Ông sống ở Paris. Người ta thấy ông đi dạo, nhưng không bao giờ gặp ông trong những bữa ăn phe đảng. Bởi tôi không thể từ chối điều gì với Lebon, bởi phải khiến anh thôi nói về những người chết và bởi một cuốn sách của Bonel mới xuất bản, tôi cho Lebon lựa chọn: hoặc quay lại với ông chú khi trước từng dùng anh làm thư ký, hoặc thử viết về một nhà văn còn sống. Sau đó, anh thỉnh thoảng sẽ có một cột báo cho những kẻ điên và những người chết của anh.

Hôm sau, Lebon đưa tôi bài của anh về Bonel. Bài khiến tôi hổ nhục: một nhà văn lớn mà tôi, tôi đã không biết tạo nên danh tiếng. Cũng chưa quá muộn. Bonel đã gần sáu mươi tuổi và nghe nói ông bị ung thư. Làm nổi tiếng một người trước ngày người ấy chết, đó mới là một cú ngon lành. Cái ông Bonel cho đến giờ chẳng ai để ý được đưa lên đỉnh cao, nhờ Lebon. Người em nhỏ của tôi không phải đã chỉ đọc ông mà thôi, anh đã sống từng câu của ông, nhập mình trong những hứng khởi của ông, cùng ông cân nhắc từng từ ngữ. Một người tình nói về người đàn bà của đời mình cũng không thể hay hơn thế. Một tay thám tử tinh tế dựng lại một tội ác cũng chẳng thể hơn Lebon tả lại tiến trình sáng tạo này. Bonel nhà tiểu thuyết, Bonel nhà thơ, Bonel nhà soạn kịch, Bonel tạo thiên lập địa, Bonel kinh khiếp, Lebon yêu quý đến độ dốc hết sức lực cùng mê say vinh danh bậc thầy. Anh kiệt quệ khiến tim anh, vốn đã yếu, chỉ còn thoi thóp. Người ta phải đưa anh vào nhà thương. Khi anh xuất viện, Bonel đã thành người danh tiếng. Từ đó, bắt đầu sự thăng tiến của Bonel, lạ lùng thay, lại trùng hợp với sự suy sụp dần dà của Lebon. Sách của nhà văn bán rất chạy. Các vở kịch của ông, chưa từng được dựng, giờ đây khiến các nhà đạo diễn tài ba nhất lưu tâm. Người ta trù định chuyển thể các tiểu thuyết của ông cho điện ảnh. Người ta tổ chức các buổi đọc thơ ông.

Trong thời gian ấy, một loạt tai biến đổ xuống đầu Lebon. Cha anh, một công chức cao cấp, bị cáo buộc phạm trọng tội, phải vào tù chờ ngày ra tòa. Lebon, xót tình máu mủ và hẳn đang tuyệt vọng phải chôn thêm một lần nữa những người chết của anh trong những bài ngắn ngủn tôi cho đăng khi nào có thể, Lebon muốn quay về với gia tộc trước kia anh vẫn phỉ nhổ, và trở lại làm việc ở văn phòng người chú, hy vọng mình có thể góp phần cho cha được phóng thích. Nhưng nhà thơ trường phái Petrarca từ chối thẳng thừng. Ông cũng chẳng thèm tiếp cháu mình, cho người nói lại là ông không muốn bị đàm tiếu vì dính líu với con một tên cướp. Thế là chỉ còn lại cho Lebon cái khoảnh tường chúng tôi đã dành cho anh. Anh viết bài tạm kiếm đủ sống, và anh đọc sách miệt mài... Rồi mẹ anh qua đời. Anh chưa bao giờ thương yêu bà - và ngược lại cũng thế -nhưng anh biết bà chết vì tủi nhục và anh chia sẻ nỗi đau buồn của bà. Tang lễ mẹ anh xong, người ta khám phá hai người anh của Lebon là đồng lõa của ông bố. Họ theo chân ông vào tù. Lebon đi thăm. Họ la không đời nào nhờ cậy đến anh. Thế là hết. Lebon, trước kia gớm tởm tên họ mình khi nó đồng nghĩa với quyền thế, nay lại vui thích nhắc nhở tên họ ấy và hãnh diện tự nhận mình là thằng bé ngỗ nghịch giữa bọn ăn cướp. Anh chẳng còn nhớ mình đã làm nên vinh quang cho Bonel, vừa được bầu vào Hàn lâm Viện.

Hòng lôi bạn tôi ra khỏi cơn ngây dại, tôi nảy ra một ý nghĩ ma quái. Bonel, tôi tự nhủ, đã trở nên danh tiếng, nhưng không ai biết gì về đời ông, về quá khứ của ông. Không còn trong bóng tối nhưng ông vẫn chẳng hề thổ lộ tâm tình. Có lẽ có một bí mật nên tìm cho ra? Một chuyện gì đó có hại cho tác giả. Chúng tôi sẽ là những người đầu tiên đoán ra cũng như đã là những người đầu tiên kéo ông lên những đỉnh cao kia, trên đó từ nay ông tưởng không ai đụng được đến ông. Vả chẳng, cứ như đồn đại, ông sắp chết đến nơi rồi. Và chúng tôi sẽ không thể chỉ có một thứ điếu văn như ai khác. Phải có một cái gì độc đáo. Lebon là người duy nhất có thể lội ngược dòng lên thượng nguồn. Tất nhiên không có vấn đề trình bày mọi chuyện như thế cho bạn tôi được. Tôi bảo anh phải chuẩn bị điếu văn cho Bonel. Anh giãy nảy. Tôi giải thích đó là một thông lệ trong nghề báo. Ngay khi một nhân vật đến tuối nào đó, hoặc người ta đồn lâm bệnh, một chuyên gia phải thảo điếu văn sẵn, vì, ngày ấy, tất cả phải thực hiện rất mau và nếu chẳng may chuyên gia kia đang đi nghỉ, không liên lạc được, thì đành chịu, nhất khi đó là các nhà văn. Dẫu sao cũng đã phải đọc vài cuốn sách của họ chứ. Dĩ nhiên đôi khi ta cũng lầm. Trong kho lưu trữ của tòa báo có những điếu văn ngủ yên cả chục năm rồi. Có những tác giả thắc mắc vì sao chúng ta không còn chú ý đến họ nữa, ấy là bởi với chúng ta họ đã chết rồi, đem chôn rồi, chúng ta đã đánh dấu chấm hết cho cái sự nghiệp họ cứ bướng bỉnh theo đuôi! Lebon nhất định không chịu nghe. Tôi đổi cách nói. Tôi bảo anh rằng, về Bonel, đó trước hết là để tìm sự thực. Mọi người đều đã hưởng ứng phong trào do anh, Lebon, khởi xướng. Ai ai cũng chỉ là sao chép hoặc lặp lại những gì anh đã viết. Anh đã phát động, vậy anh phải đi đến cùng. Hiện giờ, muốn viết về Bonel sau khi chết, tốt nhất ta phải khiến ông sống động hơn là ông chịu biểu lộ trong sách của mình. Muốn thế, và để giúp các nhà chú giải đời sau, ta cần một vài điểm thuộc tiểu sử ông mà ông vẫn hết sức che giấu. Lebon cãi là đâu cần biết cuộc đời một nhà văn mới yêu thích được tác phẩm nhà văn ấy. Tôi bịa ngay tức thì một dối trá: một chuyện huyễn hoặc đã loan truyền. Người ta thì thào những điều không mấy đẹp đẽ về quá khứ Bonel. Vậy tái lập hoàn toàn sự thực sẽ là giúp ích cho ông đấy thôi. Những kẻ đam mê sao mà ngây thơ! Được cho hay là, vì thiếu xác thực, thiên hạ đồn đại nhảm nhí về bậc anh hùng của mình, Lebon đứng vụt dậy tựa một người con ưu uất không cứu được cha và hướng nhiệt tình cao thượng của mình đến một khuôn mặt từ phụ khác.

Hôm sau, anh lên đường đến thành phố sinh quán của Bonel, không quên để lại cho tôi (phòng trường hợp tình trạng quả tim suy sút của anh ngăn không cho anh hoàn thành cuộc điều tra của mình) một bài điếu văn tuyệt vời, một kiệt tác phê bình về nhà văn lớn mới, nhưng không có gì tương tự một tiếng sét khả dĩ rung chuyển khung trời quang đãng nơi từ nay Bonel ngự trị giữa các bậc Bất Tử. Lebon đã hứa sau một tuần sẽ nhắn tin cho tôi. Mười ngày trôi qua. Không một tin tức nào. Bonel vừa đọc diễn từ nhậm chức tại Hàn Lâm Viện. Một tháng trôi qua. Vẫn không có tin gì của Lebon. Bonel soạn kịch bản cho một cuốn phim chuyển thể từ tiểu thuyết đầu tay của ông. Hai tháng trôi qua. Vẫn không có tin gì của Lebon. Bonel vừa tậu một ngôi nhà bên Maroc, dự định thỉnh thoảng làm nơi tự giam mình để viết. Sau ba tháng, vào lúc tôi bắt đầu hối tiếc đã giao nhiệm vụ ấy cho Lebon, tòa soạn nhận được một bức điện vỏn vẹn mấy chữ, Tìm ra bí mật ghê gớm. Chủ nhật sẽ về. Hôm ấy là thứ Ba. Tâm trí tôi rối bời đến độ, trái với những thói quen cố hữu (dùng bữa trưa với các nhà xuất bản và đi dự những lễ hội được gọi là văn học), tôi ngồi lì bên bàn làm việc, chờ may ra Lebon điện thoại và cho tôi hay dù chỉ một phần tư của một phần ba cái bí mật ghê gớm kia. Điện thoại reo nhiều lần, nhưng chẳng lần nào là Lebon. Thứ Sáu, một bức điện khác tới, vẫn ngắn gọn không khác, Hủy điếu văn em để lại, em viết lại hoàn toàn rồi. Thế là, sau khi xé bỏ bài điếu Bonel, tôi không còn cách nào khác hơn là chờ cho đến Chủ nhật, nghĩa là cho đến sáng nay. Vừa thức giấc, tôi chạy ngay đến tòa báo, hiểu rằng hễ Lebon trở về, anh sẽ đến thẳng văn phòng gõ bài của mình.

Tôi chờ trọn một ngày. Khoảng sáu giờ điện thoại reo. Tôi đoán bạn tôi chắc đã lỡ chuyến tàu hoặc đã hoãn ngày về. Bên kia đầu dây là cảnh sát. Họ hỏi tôi có biết một người tên Lebon không. Anh ta chết rồi. Tim đột quy. Tên tôi có trong cuốn sổ địa chỉ anh mang trên mình. Anh chết rồi, phải, trong văn phòng của Bonel, Bonel cũng không còn sống nữa. Không còn sống nữa? tôi nghe tiếng tôi gào lên. Phải. Tự tử. Một viên đạn vào đầu. Tôi bàng hoàng đến độ sau đó chẳng còn hiểu rõ họ nói những gì. Thoạt đầu họ đã tưởng đây là một án mạng và kẻ sát nhân đã tự tử. Đầu óc tôi quay cuồng. Sao? Bộ Lebon đã giết Bonel vì khám phá điều bí mật ghê gớm làm hoen ố thanh danh bậc thầy rồi sau đó tự sát? Không phải, bởi họ bảo tôi người tự tử là Bonel. Vậy hóa ra ông ta đã thanh toán Lebon vì chú nhỏ đáng thương đã biết được sự thực về ông? Không phải, bởi Lebon chết vì tim đột quy. Tôi chẳng còn hiểu gì nữa. Nhưng đấy không phải là mối quan tâm chính của tôi. Tôi chỉ nghĩ đến một chuyện: điếu văn! Bài điếu văn trong đó Lebon tiết lộ điều bí mật ghê gớm kia. Tôi hỏi họ có tìm thấy giấy má gì trong người Lebon không. Một bài báo. Nhũng ghi chú. Không? Không có gì hết sao? Đâu thể như thế đuợc! Tôi phải tới tận nơi mới được. Họ có để tôi vào không? Tôi xin được phép. Tôi nhảy lên một chiếc taxi bảo chạy hết tốc lực đưa tôi tới nơi Bonel trú ngụ. Trước cửa chung cư đã có một ít người tụ tập. Bonel đã thành vinh quang của quận này và vài kẻ hiếu kỳ thì thầm bậc vĩ nhân của họ đã bị ám sát. Tôi được đưa vào phòng làm việc của Bonel. Nhà văn nằm trên thảm. Người ta đã lấy một tấm khăn trải giuờng phủ lên. Ngồi trên ghế ông đã tự bắn một phát đạn vào đầu và xác ông đã tuột xuống đất. Đối diện, cái xác không hồn của Lebon nằm vắt ngang ghế.

Vậy là Lebon, khi trở về, đã tới nhà Bonel. Và nhà văn đã không do dự tiếp đón nhà phê bình đưa ông ra khỏi bóng tối. Mà không biết rằng lần này nhà phê bình cũng là tác giả bài điếu văn khóc ông! Hay là Lebon đã thổ lộ với ông về nội dung bài viêt của mình? Nhưng thế thì bài điếu văn ấy, nó đâu, nếu như Lebon đã đến đọc cho Bonel nghe, hẳn vì muốn tỏ mình chính trực? Sai lầm của tôi là đấy, đi giao một nhiệm vụ quan trọng như thế cho một kẻ quá nhiều lương tâm. Rồi sau đó xảy ra những gì? Đúng lý ra thì phải là Bonel giết Lebon. Nhưng không. Vậy là ông chưa nghe đọc bài điếu văn khóc mình. Nhưng nếu ông chưa nghe bài ấy, sao ông lại tự tử? Thật điên đầu! Hai người đã nói với nhau những gì mới được chứ? Và nhất là, đã làm gì với bài điếu văn? Tôi muốn lục quần áo Lebon. Họ cấm tôi. Chớ đụng đến gì hết. Họ cho tôi xem những thứ đã tìm thấy trên mình anh, cuốn sổ địa chỉ, cái ví, nhưng chẳng có mảnh giấy nào. Hay là anh đã trao bài viết cho Bonel và ông bỏ đâu đó trong văn phòng này? Tôi xem xét cái bàn làm việc, xếp đặt vô cùng ngăn nắp. Thư từ. Một lọ mực. Mấy cái bút. Một cái chặn giấy. Ngăn kéo bên phải kéo ra. Tôi chớm hy vọng. Cúi nhìn. Trống không. Hẳn Bonel cất khẩu súng trong ngăn kéo này. Tôi đảo mắt nhìn khắp phòng. Căn phòng gần như trần trụi, chút nào buồn tẻ. Trong một góc, phía sau cái ghế Lebon nằm trên ấy, một lò sưởi nhỏ, với vài cuốn sách bên trên, và bên trong... một đống tro tàn! Tôi không cần tìm nữa. Bài điếu văn đấy, chỉ còn là tro tàn. Và, thình lình, với tôi mọi chuyện đều sáng tỏ.

Lebon, quá ngưỡng mộ hoặc quá cẩn trọng, đã cho là vô luân nếu để Bonel không biết những gì chờ đợi ông sau ngày ông chết. Khi đi gặp nhà văn, anh đã định đọc ông nghe bài điếu văn-điều tra của mình. Nhưng hẳn anh không ngờ mình sẽ xúc động vì con người, không phải nhà văn trứ danh, mà chỉ là con người được cho biết người ta đã khám phá bí mật ghê gớm của mình. Lebon, đứng trước kẻ lạ anh gặp mặt lần đầu tiên nhưng cũng là người anh đã chung sống bao nhiêu năm ấy, Lebon không đủ can đảm đem bài viết của mình về tòa báo. Anh đem đốt trong lò sưởi. Nhưng như thế vẫn chưa đủ cho Bonel: giờ đây, có người đã biết, và người ấy có quyền năng tàng ẩn với ông, dù ông chắc chắn anh sẽ không lợi dụng quyền năng này. Ông không thể nào tiếp tục sống với ý nghĩ ấy, vả ông lại đang trọng bệnh. Bao nhiêu náo động những tháng vừa qua chỉ là một cách tạm thời đánh lừa cái chết. Cho nên, bằng một cử chỉ kiêu hãnh, để đoạt khỏi tay Lebon điều Lebon chẳng hề muốn có, Bonel mở ngăn kéo, vồ khẩu súng và bắn rất nhanh để Lebon không kịp phản ứng và để chính ông không kịp suy nghĩ. Lebon không phản ứng. Chấn động khi thấy khẩu súng chĩa vào thái dương bậc thầy, chấn động ấy làm vỡ tim anh và giết anh chết tức thì. Hai người gần như chết cùng một lúc.

Thế là không còn nữa nhà văn trứ danh và người em nhỏ của tôi, người em nhỏ đánh mất, tìm lại được, rồi lại đánh mất. Họ đã chết vì một bí mật không ai sẽ được biết một chút gì. Tất cả tại ai? Tôi quá mệt không nghĩ nổi. Vả chăng tôi phải viết điếu văn khóc Bonel. Ước chi tôi chưa xé bỏ bài Lebon đã để lại! Nhưng một người chết đâu thể nói về một người chết được! Có cũng phải nhờ người khác đứng tên. Và tôi sẽ nhận ngay. Nhưng đây, trong hai giờ nữa tôi phải long trọng chôn cất Bonel. Mà tôi chưa hề đọc một dòng nào của ông!