Hòn đảo địa đầu
Người ta bao lần ca ngợi hòn đảo Thulé với tôi. Trong hội bí truyền mà tôi trực thuộc, những người lão luyện nhất chuẩn bị chuyến đi tới xứ sở dân Cực Bắc. Bí mật đó, chỉ một nhúm người biết, những đệ tử từ buổi đầu một lòng một dạ phò tá bậc Pháp sư lập ra cái từ nay người ta gọi là Cõi Phúc, bí mật đó đã mau chóng bị tiết lộ: sự yếu đuối của con người, tính hợm hĩnh, nhưng ngoài ra còn cả mong mỏi trút được một gánh quá nặng nữa, đã khiến một trong những tín đồ ấy phản lại lời thề kín miệng. Anh thợ căt tóc cho Midas đã chỉ có thể thấy lòng mình thanh thản sau khi đào bên bờ sông một cái hố rồi thì thào vào đó, không ai chứng kiến, Midas có hai cái tai lừa. Nhưng có một cây sậy mọc gần chỗ đó và ai đi qua nó cũng rì rầm kể lại điều bí mật. Một trong các môn đồ của Pháp sư, có mặt trong đoàn tiền trạm, đã thôi giữ cho mình bí ẩn về Thulé mà gửi đi một điện tín tiên tri ngày đăng quang của Vương quốc mới. Tức thì các mạng lưới truyền thông rào rào tin đồn vĩ đại. Phần đông những kẻ ngoài vòng mở thông điệp được biết dưới mật mã MAKROPOULOS (do tên nhà luyện đan được Rodolphe II triệu đến Praha với lệnh phải tìm ra thuốc trường sinh), phần đông những kẻ ấy cho đấy chỉ là những lời nói xằng của một anh gàn. Nhưng tầm vóc phúc âm của thông tri lọt mắt tinh tường vài kẻ văng mạng tự coi mình sinh lầm một thế kỷ rạp trong cuồng phong của tầm thường, và đi tìm trong các khoa học huyền bí dòng suối giải nỗi khát khao tâm linh của mình.
Chính tôi, tôi cũng đã gia nhập một hội bí truyền, hội Eurêka. Nói đúng ra, chúng tôi chẳng làm gì để mà hãnh diện. Nhưng thật khoan khoái khi buồn chán bên những người đã đóng góp để cùng buồn chán với mình. Thật khoan khoái cảm thấy mình rất khác biệt, dẫu biết thừa trong chung cư bên cạnh cũng diễn ra những buổi hội họp tương tự, với những kẻ cũng khổ sở với nỗi buồn chán chẳng thua gì chúng tôi. Mọi chuyện tiếp diễn như thế cho đến khi xuất hiện thông điệp MAKROPOULOS. Cứ như một tiếng nổ mở ra cho chúng tôi những viễn tượng huy hoàng, vượt hết mọi chờ đợi. Cơn náo động khiến sôi sục nhóm chúng tôi, một trong những nhóm đầu tiên giải mã được lời thông tri và tin vào sự hiện hữu của ultima Thulé. Cơn sốt xâm chiếm các thành viên của Eurêka chỉ có thể so sánh, tất nhiên ở một quy mô nhỏ hẹp hơn, với nỗi xúc động sự khám phá Klondike đã gây nên hơn một thế kỷ trước. Chúng tôi sẽ tham gia cuộc đổ xô đi tìm vàng của cuộc sống! Bởi những gì đất mới Thulé hứa hẹn, đó chính là của cải trân quý nhất: sự bất tử. Chúng tôi, những linh hồn chết của thế kỷ hai mươi mốt, chúng tôi sẽ bất chấp mọi trở lực và vượt qua mọi thứ thách, như kẻ hành hương của Bunyan, không phải để được an tọa bên Thượng Đế, mà để được uống thuốc trường sinh vị Pháp sư dành cho thần tử của ông. Giấc mơ MAKROPOULOS truyền đạt cho chúng tôi là như thế. Kẻ nào tới được Đất mới sẽ vĩnh viễn giải thoát khỏi cái chết.
Nhưng Vương quốc ấy ở nơi nào kia? Bức thông điệp chỉ cho vài chỉ dẫn mơ hồ: đâu đó trên Cực Băc, nơi địa đầu. Chúng tôi không thể đồng loạt nhắm mắt đi bừa được. Mà không chừng vị Pháp sư sẽ nổi giận nếu thấy xuất hiện cả một lũ ăn xin bất tử thì sao? Chọn ai trong chúng tôi làm người mở đường? Một vài người bị loại vì họ không sẵn sàng bỏ vợ con đi theo Con Người mới hoặc vì sự sợ hãi cái xa lạ khiến họ thà chết ở nhà còn hơn là bất tử ở nơi khác. Trong số mười lăm người tham gia, chỉ có tám người tình nguyện lên đường. Kết quả bắt thăm là tôi được chỉ định.
Cuộc hành trình thật dài. Tôi đổi cách vận chuyển nhiều lần và lạc lõng trên phương Bắc bao la. Tôi không thể trông cậy vào những chỉ dẫn khật khùng của thiên hạ khi tôi hỏi địa điểm Cõi Phúc, câu hỏi của tôi tất họ cho là cũng khật khùng chẳng kém. Họ cười vào mũi tôi, bảo tôi đi cho khuất mắt. Một năm trôi qua. Tôi cạn tiền. Thực phẩm mua lần dừng chân trước đã hết mà tôi đang ở giữa một hoang mạc tuyết. Khắp chân trời không nơi nào có một bóng người. Tôi mất hết hy vọng tới được đất hứa và tự nhủ dẫu cho tới được đích đi nữa tôi sẽ chẳng bao giờ vạch lại nổi đường đi cho bạn bè còn ở phía sau. Đêm ở những vùng này thì bất tận. Tôi ngủ nhiều hơn là đi. Thân xác mệt nhoài, và khi gặm mẩu bánh cuối cùng rồi tôi chỉ còn đủ sức lê đến một cái hang và nằm vật xuống. Thế là hết. Tôi sẽ chết mà chẳng được thấy mặt trời cực Bắc ló dạng.
Cảm giác chói mắt và cay mũi khiến tôi tỉnh thức. Dường như tôi đã ngủ rất lâu, một giấc ngủ bình yên và mê mệt. Rồi tôi mơ thấy có những người đàn ông tóc dài bạc phơ mang tôi đi. Tôi vùng vẫy, chạy thoát và về được nhà, nằm dài trên giường, yên tâm chuyến đi Cõi Phúc đã chỉ là một ác mộng. Tôi mở mắt. Tôi nằm trên giường, nhưng tuyệt nhiên không phải là giường tôi, cái giường lớn êm ái tôi xa lìa đã một năm để lao mình vào cuộc phiêu lưu điên rồ kia. Cái giường tôi đang nằm giống như một chiếc quan tài, chỉ khác là nó làm bằng một vật liệu trong suốt. Bên trên tôi lơ lửng một cái nắp thuôn dài. Tôi có cảm tưởng chỉ nhúc nhích một chút nó sẽ ụp xuống nhốt kín tôi trong cái quách mờ sáng này. Tôi rón rén đứng lên. Tôi ở trong một cái chuồng lớn bằng kính, trông hệt như một cái nhà, nhưng hoàn toàn không có chút riêng tư nào bởi không xó xỉnh nào bên ngoài không nhìn thấy. Nhìn ra không một bóng người, thế nhưng tôi vẫn cảm giác mình bị rình mò, quan sát, tựa một con chuột đem làm thí nghiệm. Tôi đi một vòng cái chuồng, có đủ tiện nghi cần thiết. Tôi chẳng có gì phải than phiền, sau mấy tháng vừa qua sống như một người rừng. Điều duy nhất khiến tôi kinh ngạc: tôi không tìm đâu ra một cái gương. Hàm râu tôi đâm tua tủa. Tôi muốn kiểm tra trong gương xem dáng dấp mình có quá gớm ghiếc không. Nhưng ở đây nếu tất cả được trù bị để ai cũng nhìn thấy mình, thì chính mình lại không thể thấy mình được.
Đó là mong ước ngấm ngầm duy nhất chẳng bao giờ thành hiện thực của tôi. Ngay từ giờ phút đầu ở cái nơi kỳ quái này, tôi đã ngạc nhiên khám phá rằng hễ tôi nảy ra bất cứ thèm muốn nhỏ nhặt nào, thèm muốn ấy tức thì được thỏa mãn ngay. Tôi đói. Tôi đi vào bếp. Bao nhiêu máy móc ở đó tự chúng khởi động, và trong khoảnh khắc tôi có một bữa ăn ngon và hậu hĩ. Rất nhiều chi tiết vớ vẩn khác đầu tiên làm tôi vui như trẻ nít, vui như thằng bé đến nhà giáo sư Nimbus, nhưng rồi chúng khiến tôi cảm thấy chút nào bất an, cảm thức này dần dà hóa thành lo âu. Bởi nếu tất cả các vật dụng dường như thi hành các mệnh lệnh do óc tôi truyền đi, điều này có nghĩa một ai đó không những đọc biết tư tưởng tôi mà luôn cả bản năng tôi. Tôi không thể dù chỉ thèm ăn, uống, hay cả làm tình đi nữa (như cầu chỉ về sau tôi mới cảm thấy và duy một hay hai lần suốt thời gian ở đây), mà một ai đó lại không đồng thời cũng biết như tôi, có lẽ biết trước tôi nữa.
No nê rồi và tâm trí sáng suốt trở lại, mới đầu tôi nghĩ tình cảnh của tôi dị thường, nhưng rồi càng lúc càng thấy nó kinh hoàng. Tôi muốn ra khỏi cái chuồng kính này, nhưng suốt dọc các vách tôi không tìm ra cửa nào. Chắc tôi phải lao mình vào khung kính mới mong có lối ra. Mà làm như thế tôi cũng không dám tin sẽ thành công, khi đưa mắt đo lường độ dày lớp kính. Tôi quyết định chờ. Sự yên lặng, sự lạnh lẽo ngự trị trong chuồng kính dù nắng rực rỡ, đem lại cho tôi cảm giác đè nén. Khắp xung quanh tôi, bên kia các khung kính, trải dài những đồng tuyết mênh mông. Tôi có cảm tưởng chỉ mình mình trên đời, nhưng là cầm tù trong một cô độc hoàn toàn giả tưởng, vì bị cả ngàn con mắt vô hình canh chừng. Chính vào lúc đó tôi nhận ra quanh mắt cá chân tôi có một cái vòng kim khí phát ra một tín hiệu lấp lánh yếu ót. Tôi toan gỡ nó ra đem lên xem cho kỹ. Nhưng cứ như nó đã được hàn vào bộ phận ấy của cơ thể tôi trong khi tôi ngủ. Tôi không phải bận tâm lâu hơn về món đồ đã khiến tôi mong trốn đi thật nhanh ấy: tôi vừa mới bắt đầu cảm thấy dâng lên nỗi âu lo thì một cơn buồn ngủ không cưỡng được liền kéo tôi lên cái giường-quan tài. Tôi nằm xuống và chỉ kịp tự hỏi vì sao lo lắng mọi khi vẫn khiến tôi tỉnh táo và cho đến bấy giờ luôn luôn làm tôi trằn trọc thâu đêm, giờ đây vào lúc tôi có đủ mọi lý do phải cảnh giác, lo lắng, lại dễ dàng đến thế đem cho tôi sự lãng quên hồi phục của giấc ngủ.
Khi thức dậy, tôi lại thấy vẫn cái giường ấy, vẫn chuồng kính ấy, chỉ khác là có những chuồng kính khác dường như đã mọc lên trên các đồng tuyết mới hôm qua tịnh không bóng người. Tôi đứng lên, nhìn qua khung kính khắp xung quanh và hiểu ra người ta đã, trong khi tôi say ngủ, chuyển tôi đen một căn nhà giống như nhà tôi đã ở, nhưng nhà này không phải trong một hoang mạc trắng, mà ở giữa một thành phố nhỏ. Xung quanh, trước mặt, tôi nhìn ra những cái bóng đi tới đi lui trong nhà tù trong suốt của họ. Tôi kêu cứu, gõ lên khung kính, ra hiệu. Nhưng không ai có vẻ nghe thấy tôi cả. Vả chăng rất mau tôi đành thôi giở trò, vì múa may như thế khiến cơ thể tôi mỏi nhừ. Tôi cảm thấy mình tê cứng, đờ đẫn, chẳng chút sức lực.
Những cái bóng mới thức dậy và đang lo những việc quen thuộc mỗi sáng. Tôi nhìn họ, sững sờ, tự hỏi đây là xứ nào người ta đã đưa mình tới mà chẳng cần hỏi ý mình. Vào khoảng tám giờ, cứ theo mấy con số nhấp nháy trên đồng hồ treo tường (đồng hồ có khả năng lạ lùng, như tôi về sau nhận ra, chỉ báo hiệu giờ ra và giờ về mà thôi), tôi thấy một bên vách kéo lên như do ma thuật. Tôi nghĩ giờ giải thoát của mình đã tới và chạy vụt ra ngoài. Những người ở trong các chuồng kính khác cũng bước ra cùng lúc với tôi, chẳng mảy may chú ý đến tôi. Họ đồng loạt đi đến một quảng trường phía cuối có một màn ảnh khổng lồ. Họ ngồi xuống bãi cở trong sự yên lặng lạnh như băng. Trời ấm áp, nhưng tứ chi tôi run rẩy. Tôi đã nhận ra cử tọa gồm những con người giống hệt nhau đến độ có thể tưởng họ là song sinh. Đàn ông, đàn bà đều có cùng một diện mạo, không trẻ cũng không già, trông như những người mẫu bằng sáp sản xuất hàng loạt. Diện mạo ấy, nhân lên hàng trăm lần, dẫu xiết bao thê thảm dưới mắt tôi, đánh thức dậy nơi tôi những kỷ niệm mờ ảo.
Cái đám người không tuổi tác ấy chắc hẳn vô cảm với mọi xúc động có thể làm biến dạng nét mặt láng mướt của họ, làm nhăn nheo vẻ đẹp bất động của họ. Tôi ngạc nhiên thấy chẳng ai để ý đến tôi, kẻ tất lạc lõng giữa cử tọa này với hàm râu và quần áo nhớp nhúa sau bao ngày lăn lóc đường trường và tuyết giá. Thế rồi tôi nhận ra cằm tôi nhẵn nhụi và tôi mang trên mình bộ đồng phục trắng những kẻ ngụ cư nơi này dường như đều mặc. Tôi chưa kịp xem xét lâu hơn sự biến thái của mình thì trên màn ảnh xuất hiện một khuôn mặt chẳng khác bao nhiêu các khuôn mặt tôi thấy quanh tôi. Thình lình, tôi giật mình. Tôi nhận ra, sau mặt nạ cứng nhắc trùm lấp màn ảnh, đôi mắt Pháp sư. Vậy ra tôi đã đến Cõi Phúc. Hẳn là đệ tử của Pháp sư đã tìm ra tôi giở sống giở chết và đã đặc cách đem tôi vào Vương quốc mới không cần thử thách trước.
Pháp sư vừa lộ diện tức thì cử tọa xướng một bài xưng tụng bằng một ngôn ngữ với những âm vang dị kỳ. Đất này có đặt ra một ngôn ngữ xứng hợp với triết lý hạnh phúc của mình thì cũng là điều tự nhiên thôi. Buổi lễ rất ngắn. Hình ảnh biến mất và đám đông giải tán. Một người đàn bà, mang trên áo trắng của mình biểu tượng toán học của vô tận (đặc quyền, như sau này tôi được biết, của các thầy truyền phép), ra hiệu cho tôi đi theo. Bà dẫn tôi vào một chuồng kính gắn đầy máy móc đủ loại. Chính tại đó, nhờ một giáo sư vô hình với giọng nói đều đặn, tôi đã học trong vòng vài ngày ngôn ngữ Thanatos. Tôi không khó nhọc bao nhiêu, vì tiếng Thanatos là ngôn ngữ đơn giản nhất ta có thể tưởng tượng được. Nó gồm tối đa ba trăm từ, trong số này cần ghi nhớ những từ quan yếu cho điều các kẻ vọng tưởng bất tử gọi là thao tác tâm linh, những từ như là kiếp sống, kiên trì, vĩnh cửu. Chia động từ trong tiếng Thanatos cũng không khó khăn gì: chỉ có dạng vô định, đồng nghĩa của thường hằng, được sử dụng mà thôi. Chẳng ai mắc míu với quá khứ hay vị lai. Thế nên, nuối tiếc hay hy vọng, không có cách nào biểu đạt, chẳng thể làm mệt mỏi hay làm già nua con tim bằng những tình cảm vô dụng mà nặng trĩu. Vả chăng, nếu xét đến sự kiện các ham muốn có thể trực tiếp chuyển từ ý nghĩ sang các máy dành để đáp ứng tất cả các như cầu mà không cần nói lên, ta bỏ luôn được cả những câu thường dùng nhất trong cuộc sống thường nhật, như Tôi đói, Tôi khát. Điều đầu tiên ta học ở Cõi Phúc, cùng với ngôn ngữ Thanatos, đó là nói càng ít càng tốt, vì nói làm mệt mỏi các cơ mặt, cứ phải làm việc và, bằng những điệu bộ phát sinh các vết nhăn, theo sát các tình cảm diễn đạt bằng các từ. Tất nhiên, những tiếng cười hay những giọt nước mắt đều bị cấm chỉ.
Chương trình, rất nghiêm ngặt, do Pháp sư soạn thảo để kéo dài kiếp sống nhắm chính yếu vào sự lành mạnh tâm thần. Không có gương soi là điều kiện cần thiết để dự bị bất tử. Vì ngày ngày cứ ngó mình trong gương có thể gây xáo trộn quân bình cho kẻ mong thấy mình không thay đổi. Chuồng kính mọi người sống bên trong biểu thị ý thức mỗi người phải như thế nào: nội tâm trong suốt, minh bạch. Ai cũng có thể đọc thấu linh hồn người khác. Nhưng Pháp sư dư biết rằng những gì xói mòn con người, ấy là những xúc động, sự sợ hãi, lo âu. Thế cho nên ông đã nghĩ ra cái vòng tôi đã tìm thấy nơi mắt cá chân. Cái vòng, do một tín hiệu ánh sáng, được nối kết với một thiết bị đầu cuối, thiết bị này phát hiện những chỉ dấu xao động và tức thì cứu chữa bằng một sốc điện, không làm đau và không thể nhận biết, khiến ta chìm vào giấc ngủ, như tôi đã được kiểm nghiệm mà chẳng hề ngờ là nhờ phát minh màu nhiệm ấy.
Cũng còn những lãnh vực ta có thể tưởng bên ngoài không can thiệp được. Nhưng như thế là đánh giá sai Pháp sư, ông cũng đã nghĩ đến quyền lực các giấc mơ, có khả năng lay chuyển những con người vững chãi nhất. Mọi cái giường ở Cõi Phúc đều được trang bị một máy phát hiện và diệt giấc mơ. Hễ một giấc mơ khởi sự trong khi ta ngủ, cái máy - cái lồng mà tôi đã tưởng là một cái nắp quan tài - tỏa ra một hơi cay khiến ta thức dậy tức thì và tránh cho ta phiền não vì ác mộng. Tất nhiên, chẳng khác nào ân hận và hy vọng, ước ao là một khái niệm và một tình cảm phải trừ bỏ đối với ai mong được nếm thần dược Makropoulos. Pháp sư đã tạo điều kiện dễ dàng cho cuộc sống các thần tử của ông với những máy móc kia, có khả năng khám phá và thỏa mãn những thèm muốn đơn giản nhất. Nhưng vì ông biết rằng loài người không bao giờ thôi bị những cái vô dụng thúc đẩy, ông đã mở cho họ các cửa hàng lớn mang bảng hiệu Mọi thứ phải biến mất, ở đó ta được mời muốn lấy gì thì lấy. Đúng như Pháp sư dự liệu, thỏa mãn được những thèm muốn của mình dễ dàng đến thế rất nhanh khiến cư dân thành chán chê. Chỉ đôi kẻ mới đến đổ xô vào mấy cái động Ali Baba ấy, còn phần đông cư dân khi phỉ nguyện mọi thèm muốn cũng đã giết chết mọi ước ao nơi họ. Không còn xúc động nào có thể gây xáo trộn cơ thể họ và thâu ngắn cuộc đời họ. Bấy giờ họ đủ chín muồi để nhận phép xá tội, tức là ly rượu bất tử Pháp sư dành cho những ai, sau bao ngày Chết-trong-khi-sống, đã chứng tỏ mình xứng đáng mãi mãi Sống-trong-khi-chết.
Những người dân Cực Bắc cuối cùng ấy cứ sống dật dờ như thế, không xao động, không chút khắc khoải cũng chẳng một ước ao. Cả tôi, tôi cũng đã đến nơi này, hy vọng tìm thấy hạnh phúc trong bất tử. Nhưng có phải vì người ta đã không bắt tôi qua cuộc khảo nghiêm khắc nghiệt trước đó? Có phải vì bản chất tôi có cái gì đó ô nhiễm? Tôi không sao hòa mình được vào bộ lạc những cái bóng kia, những cái bóng, năm này qua năm khác, do sống mãi trong biệt lập, thành giống nhau đến độ tôi đã ngỡ tất cả họ đều là hình ảnh Người Bất tử. Cái mặt nạ Con Người mới khiến tôi nghĩ đến Gorgone và tôi mơ ước có một cái gương để vô hiệu hóa và đem chặt đầu con ác xà. Bất kể những tia điện gây ngủ triệt tiêu mọi phản ứng của tôi, tôi vẫn còn đủ nghị lực chối từ cuộc sống trong cái chuồng kính, cứ tám giờ sáng, giờ buổi đại lễ, mới mở ra và đóng lại sau lưng tôi khi tôi trở về lúc tám giờ tối sau suốt một ngày không nói năng, không cảm giác, ngay cả mơ màng cũng không. Tôi nhất quyết tính cách thoát đi trước khi cõi Thulé bất tử dập tắt nơi tôi tia sáng cuối cùng của sự sống. Tôi bỏ trốn một buổi sáng vào giờ các chuồng kính mở ra và mọi người tập họp để xưng tụng Pháp sư. Tôi đến được hoang mạc tuyết và trông thấy phía xa cái chuồng kính nơi người ta đã bỏ tôi vào những ngày đầu. Tôi ra sức chạy hầu thoát cho xa cái thiết bị đầu cuối phát hiện những cảm xúc mạnh. Tôi không quên rằng cái vòng nơi mắt cá chân tôi có thể bất cứ lúc nào phóng vào tôi một tia điện cho tôi chìm vào giấc ngủ. Có vẻ như là, trong giờ đại lễ, cái thiết bị đầu cuối không được canh chừng. Chẳng bao lâu tôi đã ở ngoài phạm vi tác động của nó. Thế giới bao la thuộc về tôi. Tôi thoát khỏi bất tử và trở về với cuộc sống.
Đúng thế, tôi đã trở về với cuộc sống và tôi viết những dòng này trong một gian phòng tường vách thật dày. Người nằm giường bên, tin mình là một công trình điêu khắc của Rodin, ngủ trong tư thế Người Suy Tư. Tôi đã khạc ra hết thuốc men họ bắt tôi nuốt mỗi chiều. Ở đây, chẳng một ai tin tôi. Tôi đã kể tên các bạn tôi trong hội Eurêka có thể làm chứng cho tôi và nhắc lại đã lựa chọn tôi làm người tiền thám đi tìm ultima Thulé. Nhưng họ bảo rằng các bạn tôi đều đã chết ít ra cả hai mươi năm nay rồi, rằng tôi không thể cùng thế hệ ấy được, vì tôi chỉ đáng tuổi con cái mà thôi. Họ bảo rằng nếu cuộc hành trình của tôi đã khởi sự, như tôi quả quyết, hồi đầu thiên niên kỷ, cuộc hành trình ấy ắt đã kéo dài năm mươi năm chứ không phải một năm vài tuần. Tôi hoài công trả lời họ rằng khi thực hiện chuyến đi định mệnh ấy tôi vừa bốn mươi tuổi, họ chìa cho tôi một cái gương, Ngó mình mà coi! Bộ ông có vẻ chín mươi tuổi đó hả? Nhưng tôi sợ mấy cái gương. Tôi sợ phát hiện ở đấy một điều gì đó. Họ không tin tôi thì thôi. Dẫu sao, tôi thảnh thơi chốn này. Tôi chỉ sai lầm là đã nói ra. Giờ đây, họ gọi tôi là Pháp sư. Tôi mặc kệ bị nhạo báng. Tôi dửng dưng với những lời thị phi. Tôi có những cách giải trí khác. Cái vòng của tôi chẳng hạn, cái vòng họ đã gỡ được ra, nhưng nhất định không chịu coi đó là chứng cớ truyện tôi kể có thực. Tôi giữ nó dưới gối. Có lẽ tôi sẽ buộc nó vào mắt cá chân người nằm giường kế bên. Nhưng trước đó, tôi sẽ dạy anh ta học ngôn ngữ Thanatos đã.