← Quay lại trang sách

Mổ xẻ một ảo tưởng

Bạn thân mến,

Xa cách có điều hay là nó biện minh cho mọi thất lễ. Tôi được thư bạn đã sáu tháng nay và suốt thời gian ấy tôi đã nghĩ ngợi hồi đáp như thế nào, nhưng ngày lại ngày tôi cứ đẩy lui cái lúc ngồi vào bàn viết cho bạn. Tôi tự nhủ nơi ấy, bên Pháp, sống một cuộc sống sôi động, có lẽ bạn rồi sẽ bào chữa cho tôi là cuộc sống của tôi, nơi này, cũng bận rộn chẳng khác gì. Nhưng bạn từng thấy tôi hoạt động với nghề mới của tôi và nếu quả đúng tôi lăn lóc từ thành phố này qua thành phố khác, những buổi tối của một người hướng dẫn thật tẻ nhạt, cô đơn. Lẽ ra tôi có thể, nếu muốn, viết cho bạn nhiều hơn một lá thư. Cả một tiểu thuyết kia. Nhưng bắt đầu từ đâu? Nói quá nhiều sẽ thành chẳng nói được gì. Còn thú nhận nửa chừng sẽ là xúc phạm đến bạn mà cũng chẳng giải thoát cho tôi. Thành ra, suốt sáu tháng, trong những chuyến ngồi xe đi cùng những người khách ngây ngất với đất nước này, tôi cho chạy trong đầu những câu dài tôi tự hứa sẽ viết cho bạn ngay lần nghỉ chân đầu tiên. Nhưng vừa dừng lại ở một thành phố, bao lời hoa mỹ của tôi chỉ còn là một mớ bòng bong xen lẫn cả những bình phẩm với khuyến cáo của người hướng dẫn là tôi, Chúng ta đang bằng qua một vùng chuyên trồng quýt và cam, Bên phải quý vị là một đồn điền cao su, Coi chừng kẻ cắp ở các chợ, Vào chùa quý vị nên mặc áo dài, Chớ quên giữ tiền đô la để trả thuế phi trường... Trớ trêu, bạn thấy đó. Người hướng dẫn, nếu muốn nhẹ việc, chẳng nên có cuộc sống nội tâm. Chỉ có những câu thuộc lòng, đọc lên một cách máy móc. Thì giờ còn lại, sẵn sàng phục vụ, nhưng kín đáo, nhất là với một người hướng dẫn như tôi, không bao giờ tháp tùng từng nhóm đông, mà chỉ những du khách riêng lẻ, thường thì một đôi nam nữ, đôi khi một gia đình, bốn người là nhiều nhất. Thế thì, tối đến, chán chường với những câu suốt ngày lải nhải, bằng tiếng Pháp hoặc tiếng Anh, tôi quên bẵng những gì đã định viết cho bạn, và, trong khi các du khách ngủ yên, thỏa mãn với bao hình ảnh, tôi uống ruợu đế với anh tài xe chính ra không được phép uống. Từ một năm nay tối nào chúng tôi cũng sống như thế, anh tài với tôi. Ấy là một người bạn tốt. Tôi hy vọng công ty Saigontourist sẽ không phái cho tôi một người khác, vì hai chúng tôi là một cặp bài trùng: hai kẻ độc thân lầm lì. Chúng tôi hút thuốc, uống rượu với nhau, chẳng cần trao đổi một lời. Về anh tài, tôi chỉ biết anh hy vọng kiếm đủ tiền đi Mỹ. Anh không nói được tiếng Anh, nhưng anh có một ông cậu bên ấy cai quản một trạm phục vụ xe hơi. Mới đây, ông cậu bị một bằng đảng dùng kích đập vào đầu cướp sạch tiền bạc. Ông tai qua nạn khỏi, nhưng thành thân tàn ma dại. Thỉnh thoảng, ông thức tỉnh. Ông không sống trong hiện tại nữa. Ông trở lại là phi công khu trục của quân đội miền Nam Việt Nam và ông khăng khăng tin rằng bằng đảng côn đồ kia chính là Việt Cộng cải trang. Bạn tôi, lúc quá say, bảo anh sẽ đi Mỹ thay thế ông cậu và lập lại trật tự cho xứ ấy. Lúc chiến tranh chấm dứt anh mới năm tuổi, nhưng anh nhớ như in những chuyện hào hùng về ông cậu mẹ anh kể cho anh những năm thơ ấu. Anh đã gia nhập đoàn ngũ Thanh Niên diễu hành mỗi lần kỷ niệm chiến thắng của Cộng sản, đã học tiếng Nga ở trường trung học, nhưng vẫn không thôi mơ về Mỹ quốc, Chú Sam vẫn cứ mang khuôn mặt Đấng Cứu Thế. Bí mật ấy, anh chưa từng thú nhận với ai. Nếu có bao giờ ai biết được, anh có thể không phải chỉ mất chỗ làm ở công ty Saigontourist mà thôi. Tôi sẽ không gửi thư này qua bưu điện. Tôi sẽ chờ dịp nhờ một du khách nào tôi có cảm tình và tin cậy. Tôi lạc đề rồi. Đáng lẽ phải nói với bạn về tôi, tôi lại đi thổ lộ bí mật của người khác. Chuyện tha nhân bao giờ cũng có vẻ đẹp đẽ hơn - hay là bi thảm hơn - và đơn giản hơn. Anh tài xế của tôi mê cuồng Mỹ quốc. Cặp vợ chồng Thụy Sĩ tôi cùng đi tuần trước rất giàu nhưng đau khổ vì không có con. Họ đã tiêu cả một phần tài sản trong các dưỡng đường, thử đủ thứ kỹ thuật thụ thai. Thất bại hoàn toàn. Nhưng họ đã khám phá Việt Nam, các cô nhi viện, các trẻ bụi đời xứ này. Đứa nào cũng vậy, chỉ mong có một người cha, một người mẹ. Tóm lại, ít ra cặp vợ chồng Thụy Sĩ của tôi tin như thế. Sáu tháng nữa họ sẽ trở lại đem đi một món lưu niệm. Cứ hy vọng người ta sẽ không đòi họ trả giá quá cao, dẫu rằng họ thừa phương tiện. Giấc mơ của họ sẽ thành hiện thực. Đơn giản lắm, bạn thấy đây. Với người này, một cái vé đi Mỹ. Với những người kia, một đứa trẻ ở chân trời góc biển. Nhìn từ xa, thật tuyệt vời. Nhưng đôi khi xảy ra những tréo ngoe. Năm ngoái, tôi kéo đi từ Nam chí Bắc một cặp vợ chồng người Việt, già lắm rồi, sống ở Pháp đã từ ba mươi năm. Yên trí mình săp chết, họ đã rút hết tiền tiết kiệm, phân phát cả cho mọi người trước khi thực hiện một cuộc du lịch xa hoa ở Việt Nam và được chôn cất nơi quê cha đất tổ. Theo chuyến đi thơ mộng ấy cả một tháng mà họ vẫn chưa chết. Họ không muốn quay lại Pháp, nơi họ chẳng còn gì.

Visa hết hạn, thế là họ thành dân ở lậu. Họ sống với những người bà con xa họ phải quà cáp để không hổ tiếng Việt kiều giàu sang. Sau vài tháng, tiền để dành cho đám ma tiêu vào đấy cả. Cuối cùng, họ chỉ còn tiền mua đồ ăn, vì chủ nhà không chịu nuôi họ nữa khi thấy của trời đã cạn. Rồi người ta đuổi họ để khỏi phải lo chôn cất họ. Hiện giờ, họ sống lay lứt đâu đó ở Sài Gòn, chui nhủi trong một túp lều. Cái chết nhất định không tóm cổ họ nơi quê cha đất tổ. Nhưng tôi lại lạc đề nữa rồi. Bạn tha lỗi nhé. Từ khi làm nghề này, đời tôi phong phú đủ chuyện, và chuyện tôi, mà tôi từng lặp đi lặp lại trong vui thú cay chua, nay sao chán ngấy chẳng khác một lá trầu nhai đã quá lâu. Thư bạn, lời bạn yêu cầu giải thích, lúc đầu tôi cảm thấy như một mệnh lệnh. Đọc thư ấy, tôi tưởng như mình là một kẻ đào tẩu thình lình kẹt cứng trong bẫy. Rồi, một đêm, ở Quy Nhơn, tôi lãnh hội một thứ mặc khải. Bạn biết thành phố ấy, chúng ta đã dừng chân ở đấy lần bạn về thăm nơi này. Nó vẫn thê lương như thế, với đám hành khất, thương binh, kẻ vô gia cư nhan nhản ban đêm. Họ đã bớt từ sau chuyến bạn về. Nhưng với lữ khách ngây ngất hương vị xứ xa, đặt chân đến Quy Nhơn ban đêm, nhìn đàn dơi tràn ngập bãi biển âm u, là một thức tỉnh tàn nhẫn sau thiên đường Nha Trang, nơi những hàng dừa, cát mịn, những mỏm đá và những thợ sửa móng tay chào mời dọc ngang các bãi biển, thoáng cho du khách cảm tưởng mình đã hóa thân thành một vị đại quan. Thường thì các du khách tôi cùng đi ai tới Quy Nhơn cũng đều đờ đẫn. Họ ngó tôi, ngơ ngác, tựa những kẻ mơ màng tỉnh thức bị đá từ tầng trời thứ bảy lộn về đáy tầng địa ngục. Lần nào tôi cũng toan bắt chước bạn, cười phá lên và kêu lớn, Các người vào đây thì bỏ hết hy vọng đi. Nhưng tôi tránh. Người hướng dẫn không ai dại dột khôi hài kiểu ấy. Việt Nam không phải bao giờ cũng là một đất nước vui tươi. Khi đến Đà Lạt chẳng hạn, một cảm thức ưu sầu len vào tâm tư ta. Trời lạnh, mưa rả rích. Nhưng các nàng thiếu nữ ăn mặc kín mít, thật khác các cô quần áo cũn cỡn ở Sài Gòn, cho ta cảm giác huyền bí và nhớ nhung. Ta muốn ở lại đấy, như một bóng ma trong sương mù, và rình chờ đàn én từ ngôi trường cổ kính Couvent des Oiseaux bay ra. Ở Quy Nhơn thì chỉ có dơi. Ta cảm thấy hơi thở của cái chết. Thế mà, chính tại đó, đối diện với biển, trong một đêm không sao, tôi đã trực giác một sự thực bao lâu nay tôi che giấu với chính mình. Sự thực là tôi vẫn sống. Sự thực là tôi rất ít giống nhân vật tưởng tượng mà con gái tôi, bạn của bạn, đã tả cho bạn và đã tạo dựng năm này qua năm khác hầu bù đắp sự vắng mặt. Bạn biết không, bây giờ chẳng ai ngờ rằng tôi có một người con gái, rằng nó đã theo mẹ sang Pháp cách đây mười bảy năm. Mọi người đều tưởng tôi độc thân. Và tôi thủ vai anh già ế ẩm của tôi một cách kín đáo đủ để không ai làm phiền. Sau ngày vợ và con gái tôi ra đi, tôi đã dọn nhà. Sài Gòn thì cũng như mọi thành phố lớn đông dân. Ta rất dễ lẩn mặt. Trong cảnh hỗn loạn cuộc chiến tàn cục, giữa sự náo động bên thì kẻ có của tháo chạy, bên thì nông dân dồn về từ những ruộng vườn tan hoang, tưởng rằng kiếm sống dễ hơn ở thủ đô cũ, tôi có thể thay hình đổi lốt. Tôi sinh ra tuổi con rắn. Không lột da thì tôi phải chết. Con gái tôi đã kể cho bạn việc tôi vội vã dọn nhà như thể tôi bỏ trốn cho mau. Như thể tôi sẽ quá đau khổ phải sống trong một căn nhà đồ đạc nào, xó xỉnh nào cũng gợi nhớ quá khứ. Một thời gian dài tôi cũng đã tưởng như thế. Và đã mặc con gái tôi tin như thế. Tôi đã âm thầm hòa nhập vai trò kẻ lẻ loi, kẻ bị bỏ rơi. Hai chúng tôi ngầm thỏa thuận nghĩ rằng tôi không ngừng dọn nhà chứng tỏ tôi bất mãn, tôi bất ổn nội tâm. Tôi không còn gốc rễ, mà thành kẻ du cư. Ai cũng tự tạo dạng bi kịch riêng của mình. Bi kịch của tôi là bi kịch Job. Người ta đã cướp đoạt con tôi, của cải của tôi. Nơi nào tôi cũng bị xua đuổi. Tôi thành kẻ sống dở chết dở. Thư từ con gái tôi viết càng khiến tôi tin chắc như thế. Nó coi tôi là một người bị nhạo báng, một anh hùng sầu khổ, bị tước đoạt hết, ngoại trừ nỗi đau đớn. Tình thương của nó bộc lộ như thế. Tình thương của tôi chỉ có thể diễn đạt phù hợp với hình ảnh ấy. Đối với nó, tin rằng tôi tuyệt vọng, quay quắt với quá khứ, là cả một tôn giáo. Nó tự cho mình có tội đã bỏ mặc tôi và tìm thấy trong cảm thức phạm tội ấy chút nào nguôi ngoai. Gỡ bỏ cảm thức ấy là giết nó đấy. Cách nào đó, kịch bản này thích hợp cho tôi. Tôi cũng chẳng nghĩ đến nữa kia. Vật lộn để sống còn trong những năm ấy gian khổ lắm, đâu còn thì giờ mà suy tư. Tôi đi bán hàng rong không phép. Tôi bán đủ thứ. Thuốc lá lậu, hàng phương Tây con gái tôi gửi về, bật lửa zippo lượm từ những kho quân cụ thừa người Mỹ bỏ lại, thuốc men ăn cắp trong các bệnh viện... Suốt ngày phải chạy mới khỏi bị bắt. Tối đến, tôi mệt nhoài nằm lăn ra. Là thế này thế nọ cũng chẳng quan trọng gì, một thằng hèn, quá nhát sợ không dám bỏ nước mà đi, như thâm tâm tôi vẫn nghĩ, hay, như những lá thư từ bên Pháp nhắc tôi mỗi tuần, một kẻ bị số mệnh triệt hạ và đã hy sinh chấp nhận chia cách với con gái mình. Nó buộc mẹ nó chịu trách nhiệm. Tôi đã chỉ thuận theo ý mụ chằn tinh mà chịu ở lại đây. Cuộc sống vợ chồng của chúng tôi ngay từ đầu đã vượt sức chịu đựng và việc vợ tôi có thể xuất ngoại đem lại cho cả hai chúng tôi cơ hội chặt đứt mối dây. Quả đúng là, tự tôi, có lẽ tôi sẽ không làm như thế. Tôi cố bám víu. Tôi cũng như mọi người, tôi sợ. Điều kinh khiếp của những thời buổi đảo lộn to lớn, ấy là đôi khi chúng biến con người tự do nhất thành kẻ bám níu như đỉa. Ta yêu cho đến tận kẻ thù. Ta mong không gì thay đổi. Con gái tôi vẫn tưởng khi chấp nhận bản án của vợ tôi, mà tôi đem đổi thành sự lựa chọn -tôi lựa chọn trung thành với đất nước - tôi chỉ có một ưu tư: thôi kéo dài cơn ác mộng nơi con bé do mối tương quan hận thù giữa cha mẹ nó. Tóm lại, tôi chừa nó ra. Nó nói nó hiểu ra tôi, anh hùng và cao ngạo, tôi không muốn sống bám vào họ nơi xứ người. Tôi đã ngoài tuổi bốn mươi. Vợ tôi không tin bên Pháp tôi tìm được một công việc thích hợp, ngay ở đây tôi cũng chưa từng có việc làm ổn định. Một thân một mình với con nhỏ, vợ tôi sẽ dễ nhờ vả gia đình định cư bên đó từ trước hơn. Con gái tôi nghĩ như thế và vẫn nghĩ như thế. Tôi chưa bao giờ dám nói với nó sự thực, tức là, vào lúc chia tay, tôi chẳng chút bồn chồn cho họ, tôi chẳng hề tự hỏi, Hai mẹ con rồi làm sao xoay xở? Băn khoăn duy nhất của tôi là, Mình sẽ ra sao đây? Thế đó. Tôi hổ nhục mà thú nhận. Nhưng ra đi là họ đấy chứ. Tương lai mở ra chào đón họ. Còn tôi, ở lại, như một con chó già, với những xương xẩu hy vọng của họ để lại. Câu tiếng Pháp, Ra đi, là chết một ít, là dối trá đó. Ta chỉ rục xác khi ta ở lại mà thôi. Ta rục xác vì căm hờn và ganh tị. Thế rồi, cuối cùng ta cũng quen với số phận mình. Ta cam chịu, nhưng không muốn tự thú thua cuộc. Có nhiều cách để chết với chính mình. Ta quay nhìn phía sau và ta tê liệt. Ấy, con gái tôi thấy tôi như thế đó. Tôi không đủ ác tâm hay sức mạnh để gỡ bỏ cho nó ảo tưởng ấy. Hoặc ta nhắm mắt lao mình xuống nước, dù chẳng biết bơi. Ta để cho nước cuốn đi, và bình an với lãng quên lâu dần rửa sạch tấm thân già mỏi mệt của ta. Dù sao, tôi cũng không còn chọn lựa nào nữa. Phải sống còn. Những năm tháng ấy, tương lai trong tay những kẻ tài xoay xở nhất. Tôi chưa bao giờ có tài ấy. Gặp chuyện là tôi chỉ muốn nghĩ ích gì đâu?; nuối tiếc là tật xấu thầm kín của tôi, bất lực là câu trả lời của tôi với mọi đề xướng. Nhưng chỉ còn một mình, với viễn tượng duy nhất là nuốt sầu cùng những bóng ma quá khứ, điều đó cho tôi sức mạnh, một nghị lực tôi đã đè nén suốt cuộc đời làm chồng của tôi. Do một thứ quân bình tự nhiên, vì vợ tôi tính tình như núi lửa, tôi đã trở nên như nước tù. Vợ tôi nói, tôi lặng thinh. Vợ tôi cai quản, tôi bỏ mặc. Bất chợt, không còn ai bảo tôi phải thế này thế kia. Bạn biết hội chứng kẻ bị tù đấy. Được thả, y lại nhớ tiếc viên cai ngục, y không biết phải làm gì với tự do của mình. Suốt hai tháng tôi loay hoay trong nhà. Tôi mở các ngăn kéo, ngắm quần áo con gái tôi bỏ lại. Tôi lật giở album ảnh, tần ngần trước những bức hình chụp ở sở thú Sài Gòn, bữa trước ngày ra đi. Con gái tôi, ở tuổi mười ba, trông như một con mèo gầy nhom. Dáng vẻ ốm o và hai con mắt sợ sệt của nó thật tương phản với điệu bộ phương phi và cái nhìn quả quyết của vợ tôi. Trong mấy tấm ảnh ấy, cứ nhìn tư thế nó - nhỏ bé đến thế mà nó vẫn cố thu mình để chiếm càng ít chỗ càng tốt - ta thấy rõ nó khiếp sợ mẹ nó. Nhưng tấm thân rụt rè kia cũng cho ta đoán được một sức mạnh lớn lao, một khả năng nổi loạn. Ngó kỹ những ảnh ấy, những âu lo, áy náy đã phó con gái tôi vào gọng kìm vợ tôi đều tan biến. Nó sẽ biết tự giải thoát, không có gì phải ngờ vực. Cho đến bấy giờ chúng tôi đã sống như hai sinh vật co rúm, luôn luôn phập phồng không biết núi lửa phun lúc nào. Nhưng hợp quần yếu đuối, chẳng hề làm nên sức mạnh cho chúng tôi, chỉ buộc chúng tôi tìm mưu mẹo tránh né và chống đỡ vụng về. Thay vì đồng phản công, chúng tôi bỏ trốn hoặc ẩn náu trong câm nín nhượng bộ, và giông bão qua rồi thì an ủi lẫn nhau. Nay thì cuộc cờ đã đổi. Đồng minh bị chia rẽ. Tôi đã trao người đồng lõa với tôi vào tay kẻ thù của chúng tôi. Còn một mình, nó chỉ có lựa chọn hoặc tiếp nối vai trò của tôi và tùng phục, hoặc tự khám phá chính mình và tự giải phóng. Những bức ảnh dưới mắt tôi bảo tôi rằng con thú bé nhỏ hãi sợ kia có những khả năng một con phượng hoàng. Phần tôi, không muốn mà được buông thả, không đòi mà được tự do, tôi nghĩ mình như mắc bẫy trong căn nhà này. Chỉ có một lối thoát: trốn đi. Tôi phải chối từ làm cái việc người ta gán cho tôi, làm một người chồng bị ruồng rẫy, một người cha bị bỏ rơi. Dọn đi, tức là tôi xóa sạch quá khứ. Tôi rời bỏ tất cả những gì đã rời bỏ tôi. Mỗi khi nghĩ lại, tôi vẫn tin chắc rằng cả đời tôi đấy là quyết định đúng lý duy nhất tôi từng có được. Sau đó, chỉ còn lo sống mà thôi. Bạn chớ tưởng đó là chuyện khó khăn nhất, mặc dầu hoàn cảnh bấy giờ, mặc dầu sự cùng khổ ăn mòn Sài Gòn như bệnh hủi. Khó khăn nhất với tôi là sống mà khiến con gái tôi tưởng rằng tôi chết rồi, rằng, tách lìa nó, tôi ám đời tôi như một bóng ma thảm hại. Thư tôi viết tràn đầy than thở đắng cay, đôi khi tôi hơi làm quá nữa. Nhưng thống thiết như thế rất hợp cho người thư từ với tôi. Có thế nó mới sống được. Nó cần biết tôi đau khổ, tôi suốt ngày thở vắn than dài, tôi là một kẻ đã gục ngã, sức tàn lực kiệt. Nỗi cùng quẫn của tôi có phô ra nó mới tìm được sức mạnh để nổi loạn. Mẹ nó không còn chỉ là hình bóng hiểm độc muốn ăn sống nuốt tươi nó, mà cũng là quyền lực ma quái đã hủy diệt đời tôi. Cáo buộc mẹ nó làm vơi cảm thức phạm tội của nó đối với tôi. Nhưng nó cũng cần nuôi dưỡng mình bằng bất hạnh của tôi: gánh lấy một lầm lỗi cho phép nó trưởng thành. Học tập đau khổ đôi khi thuận lợi cho sự đào tạo một tâm trí quá quen rút về với chính mình hơn là quá sớm biết mùi hạnh phúc. Bản năng cho con gái tôi biết rằng chăm chút hình ảnh một người cha yếu đuối sẽ giúp nó lớn mạnh. Sứ mệnh báo phục cho con người ấy trao vào tay nó. Vắng mặt hóa nên tôi được điểm tô đủ mọi đức hạnh. Nó chỉ đối mặt với mẹ nó, mà nó có thể tận tình căm thù. Nó dồn hết nghị lực vào lòng căm thù ấy. Căm thù, nếu lại được bù đắp bằng một tình thương tưởng tượng, là một động cơ hành động rất mạnh. Nó đối nghịch. Mẹ nó mong mỏi gì nó cũng phá. Mẹ nó mơ ước gì cũng phải diệt. Những hy vọng ước lệ mẹ nó đặt vào nó bị khinh khi. Thế là, từ nơi xa xôi, chẳng phải làm gì hơn là bám chặt vai kẻ mất ngôi đã được giao phó, tôi đã báo thù thành công. Tôi chia lìa vợ tôi khỏi người mà vợ tôi đã chia lìa khỏi tôi. Xa cách, con và cha lại mạnh hơn khi đoàn tụ. Chỉ cần tôi không quên vị thế nạn nhân của tôi. Thư nào tôi cũng nhắc nhở rằng hôn nhân đã triệt phá tôi, rằng việc bị bỏ rơi đã giết chết tôi. Những điều ấy đúng cả, nhưng thời gian dần dà đã khiến những than vãn của tôi mất đi nhiều sự thực. Tôi vẫn sống, tình thế cải thiện, tôi một mình nhưng tự do, và trời thì đẹp. Các cô thiếu nữ trở lại mặc áo màu tươi thắm, người ta lại có thể ra biển, ăn những trái cam vàng óng sau hàng giờ ngụp lặn trong biển ấm. Nhưng những chuyện đó không thể kể với con gái tôi được. Nó cần tin rằng tôi sống trong đêm dày đặc. Tôi có mở mắt, chỉ là để trân trối ngó vào quãng không và thấy lũ lượt những bóng ma của tiếc nuối. Có đi đâu, tức là đi thăm mộ tổ tiên. Với nó, tôi phải là người chết lang thang trong cõi người chết. Những năm đầu, phải, tôi là con người ấy. Nhưng tất cả chúng ta chút ít đều là những kẻ sống sót. Gia đình nào cũng có những người biến mất và những người còn lại. Bọn trẻ bỏ đi, đám già nhẫn nhục. Chú Sam là con ma cà rồng báo thù bại trận bằng cách hút máu mới của đất nước này. Tôi không dám nói mảnh đất nơi bộ đội dựng cờ chiến thắng đã hóa thành một nhà dưỡng lão khổng lồ, nhưng dẫu sao, nếu cuộc chiến ý hệ đã thắng thì trận đánh canh tân phần nào đã hỏng, vì các động năng đã bỏ đi, và quần chúng, âu lo, thoát đi không được mà ở lại phía sau, chỉ chuyển động do sợ hãi thúc đẩy, máy móc tuân thủ các yêu sách của một chế độ thù nghịch với sáng kiến cá nhân. Chúng tôi là một đoàn quân những cái bóng phải lo nhiệm vụ tuyệt vọng này: đem lại ý nghĩa cho một kiếp sống đã mất phương hướng và chạy trên những đường ray mới như một con tàu điên mà bác tài thì hoảng hốt vì cảnh vật quen thuộc đã sụp đổ. Nhưng Việt Nam, bạn biết đấy, nhiều khả năng lắm. Chúng tôi cong xuống, nhưng chúng tôi không gãy gục. Chúng tôi biết giả chết trong khi chờ tái sinh. Khi ấy, những cành gãy lại nở hoa. Người câm trở thành thánh nhân. Các vong nhân lại hồi phục. Phép màu ở đây gọi là tài xoay xở. Sài Gòn trước nay vẫn là một chiến thuật gia khôn khéo. Nó tùng phục, nhưng ngấm ngầm áp đặt ý muốn của mình; với thời gian, biết lui bước khi cần, Sài Gòn đã trở ngược dòng. Đời tôi cũng đã luân lưu như thế. Hồi đầu ơ thờ, mỏi mệt, dần dà tôi đã trồi lên từ cuộc điều trị bao ngày bằng bất động. Một sớm mai, ta thức dậy, nhìn ra phố và, đột nhiên, nắng vàng ta đã không còn thấy khiến ta chói mắt, đám đông ta từng trốn lánh làm ta thèm muốn hòa mình vào. Cuộc sống kêu gọi ta. Ta chẳng rõ lắm mình đi đâu. Nhưng ta ra khỏi nấm mồ. Dần dà, những cử chỉ bình thường nhất mang ý nghĩa trở lại. Từng bước ta tái chinh phục con đường dẫn tới người khác lúc trước tưởng như rất xa vời. Chiến thắng nhỏ nhoi nhất đối với sa lầy cũng bằng tất cả mọi đắc thắng của Alexandre. Tôi đã rũ lớp bụi nuối tiếc và lăn mình vào cuộc tranh đua. Có một cái gì đó ngất ngây khi ta sẵn sàng được ăn cả ngã về không mà thản nhiên như không. Khi trốn lánh vào tuyệt vọng, không phải sự lãnh đạm hoàn toàn với số phận mình khiến ta tê liệt, mà trái lại là quá ưu tư về mình, mối ưu tư, vì không thể diễn đạt, tìm thấy trong mong ước cái chết sự thực hiện ý chí quyền lực của mình. Khi từ bỏ đóng vai nhân vật con gái tôi mơ mộng, khi từ bỏ làm người bị hy sinh, bị nghiền nát, bị giết chết, tôi đi vào dung tục. Tôi thả mình sống. Còn lại một việc tế nhị: khiến đứa trẻ ấy tin là tôi đã không phản bội. Bởi chọn sự sống, tức là phản bội nó. Thôi đào mộ tôi để vùi chôn dưới ấy trái tim già cỗi lẽ ra nó đã chiếm trọn, tức là thú nhận tình thương phai nhạt. Nó còn quá trẻ, quá cố chấp không thể biết rằng tình cảm chẳng khác áo quần có thể lộn ngược. Mùa hè đã trở lại với tôi, tôi đã lộn áo phía sáng, và, dẫu trong lớp lót phía sẫm tôi vẫn giấu kín những ân hận của tôi, tôi bước đi ngoài phố, mặc đồ mới nguyên. Sự thực đã hiện ra với tôi, sáng quắc và sắc bén tựa một lưỡi dao: vợ và con gái tôi ra đi để lại tôi không còn gì, nhưng tự do. Duy nỗi sợ, đội lốt tiếc nuối, còn trói buộc tôi. Con tim tội nghiệp của loài người là kẻ thù lớn nhất cho ý chí tự do của họ. Bản chất con người là, một thói quen, xói mòn ta nhưng cho ta sự an toàn giả trá như được cắm neo, đối với ta lại quý hơn một điều hiển nhiên khiến ta đối mặt với chính mình. Ta sống trong cái bẫy ta đã bày ra để tự vệ trước một thực tại trần trụi, man rợ và khiếp hãi, chẳng nhận ra rằng ta đã tự giam mình bên những con quỷ, những con quỷ của chính mình - mà ta đã nuôi béo - và những con quỷ của người thân - mà ta đã đánh thức dậy. Ta thù ghét nếp sống ấy, nhưng ngày ta bị tước đoạt nó, ta la thét như con vật bị đem lột da. Ta thích mang giá chữ thập của mình. Hễ được tháo gỡ gánh nặng ấy thì, thay vì đứng lên cất bước chạy, ta lại ngã nhào. Chuyện tôi sau ngày vợ con tôi biệt xứ chỉ có thế thôi. Địa ngục gia đình tôi đã phải sống kết thúc và tôi cứ như một kẻ đọa đày thèm thuồng những cơn vật vã. Trước kia, ít ra tôi còn có kẻ để thù ghét. Thù ghét ấy đủ biện minh cho kiếp sống của tôi. Tôi mơ tưởng được giải thoát khỏi vợ tôi nhưng tôi biết rằng, không có vợ tôi, tôi chẳng còn là gì nữa. Giờ đây khi đã đủ sức nhìn trực diện sự trống rỗng của kiếp sống mình, giờ đây khi, cách nào đó, đã giải hòa với chính mình và với quá khứ của mình, tôi có thể thú nhận với bạn điều ấy. Giờ đây bạn hiểu vì sao tôi phải nói dối con tôi. Nó còn ở cái giai đoạn đời ta cần nuôi mình bằng hư cấu. Hẳn tôi đã chẳng là gì nếu không có lòng thù ghét đối với cái nửa bầu trời đổ xuống đầu tôi; con tôi hẳn đã tiêu ma nếu không có sức mạnh do tin chắc tôi đau khổ. Sự thực ấy đã bộc lộ với tôi ở Quy Nhơn, lúc tôi nhìn đàn dơi bay lượn. Tôi vẫn sống, nhưng nó cần tin tôi đã chết, chết vì niềm vui, vì cái đẹp, vì tất cả những gì nhân tính. Đấy là huyền thoại nó đã tự dựng cho mình. Phá vỡ huyền thoại ấy sẽ giết chết lòng tin cậy tuyệt đối kẻ mơ mộng ấy, thực ra vẫn còn rất trẻ thơ, đã đặt nơi tôi. Biết bao nhiêu thứ tôi không còn màng nữa, nhưng nhất thiết tôi sẽ không làm thương tổn con gái tôi hơn là nó từng bị thương tổn rồi. Nó đã tìm thấy hạnh phúc trong sự tôn thờ một nhân vật tưởng tượng. Nó yêu thương người cha tàn phế, bị cách biệt với nó rồi thì không biết làm sao mà sống. Nó yêu quý kẻ thương tích. Biết tôi đã lành sẽ khác nào sét đánh ngay nó. Ưu uất của nó đã kết tinh xung quanh cảm thức phạm tội đối với tôi: khi bỏ rơi tôi, nó đã giết tôi. Bảo nó tôi còn sống sẽ là giáng cho nó một đau khổ còn lớn hơn nữa. Sự phạm tội ấy, là cái dằm trong thịt da nó, nhưng cũng là lẽ sống của nó. Gỡ bỏ cho nó sẽ là xô nó vào rối trí, vào điên loạn. Nói dối là phương thuốc duy nhất. Bạn hãy giữ nó trong ảo tưởng êm đềm kia. Như mỗi người chúng ta, cùng trong lúc đòi được phỉnh gạt, nó lờ mờ đoán ra sự thực, cho nên nó chưa từng muốn trở lại chốn này, sợ phải đối đầu với thực tại. Nó cứ trì hoãn năm này qua năm khác ngày trở về Việt Nam và cuối cùng, nó đã cử bạn, bạn đấy, bạn của nó, như vị hoàng đế Trung Quốc mà người ta kể rằng, kẻ thù vây khốn tứ phía, ông đã cử sứ giả đi khắp mọi nẻo đất nước với mệnh lệnh dứt khoát là khi trở về phải báo cáo, Tất cả đều đúng như ngài mong muốn. Bạn đã đến, bạn đã thấy và bạn không biết nói sao với nó. Bạn lảng tránh. Nó linh cảm bạn do dự. Điều ấy khiến nó phát bệnh. Nó nhức nhối với bao nhiêu khổ não. Lý trí nó bắt đầu chao đảo. Rồi bản năng sinh tồn đã thắng. Nó thôi tra vấn bạn và tiếp tục kể cho bạn như trước kia thiên tiểu thuyết người cha bị bỏ rơi. Bạn yêu cầu tôi tiết lộ sự thực với nó cho nó thôi khổ. Nhưng, hãy tin tôi, hiện giờ nó không khổ đâu. Nó mơ mộng. Đừng đánh thức nó. Mỗi người chúng ta đều cần phần dối trá của mình làm thuốc giải độc cho cuộc sống. Cách riêng của nó để tin mình đúng là bóp méo hình ảnh tôi. Một ngày kia, khi tôi không còn nữa, khi tôi chết rồi và chôn cất rồi, bạn hãy đưa nó đọc thư này. Không còn tôi, có lẽ nó sẽ thức tỉnh. Bấy giờ, cả nó nữa, nó sẽ gỡ bỏ được tôi và nó sẽ vẫn sống. Hãy thứ lỗi cho tôi bức thư quá dài này. Giã biệt bạn. Tuần này tôi tháp tùng hai cô du khách người Mỹ. Hôm qua chúng tôi đã tới Hội An. Tôi phải đi chụp ảnh họ đứng trước cầu Nhật Bản.