← Quay lại trang sách

Nói với tôi đi

Tôi vẫn chờ cô. Tôi biết rồi cô sẽ đến. Tôi nhắn gửi trên điện thoại cô không trả lời, nhưng một lá thư, ta đâu để nó không hồi âm. Cô đã bằng qua cả Paris để đen xưởng vẽ cửa tôi, phải nói cái động của tôi mới đúng, chót vót thượng tầng cao ốc này. Nhìn ra cũng chẳng có gì đẹp. Qua cửa sổ cũng chỉ thấy toàn cao ốc như cao ốc này. Tôi sống ở đây từ khi chia tay với vợ tôi, Elena. Tôi đến để vẽ. Xưởng vẫn trống không. Chẳng có gì xuất hiện từ mấy ngọn bút lông của tôi. Tôi day dứt, bạc đầu so vai. Đêm, tôi không ngủ, tôi đứng hàng giờ bên cửa sổ nhìn những ngọn đèn sáng rồi tắt trong cao ốc trước mặt. Đôi khi, tôi tưởng tượng một người đàn bà cô đơn, trong một căn hộ lân cận, bấm bừa một số điện thoại và gọi trúng tôi. Tôi sẽ lắng nghe hơi thở nàng bên kia đầu dây. Tôi sẽ, trong tưởng tượng, ôm siết tấm thân nàng, tấm thân đọng những khóc nức đêm khuya, những tỉnh thức giữa hai tấm khăn trải giường lạnh lẽo - chỗ bên nàng vắng không - nàng lê dép vào bếp, tự rót cho mình cà phê chẳng ai sẽ uống cùng, ngày lại bắt đầu và tấm thân nặng trĩu cô đơn đành nhẫn nhục luồn vào trong cái áo nàng mua hôm trước, khi ngó trong gương dáng mình chẳng một bóng nào kề bên, và sau khi tìm đến rạp chiếu bóng cho ngày thứ Bảy bớt dài. Những người em gái cô đơn ấy, tôi nhận ra họ ngay, nơi dáng đi, khóe miệng, cái nhìn chút nào lãng đãng, e dè. Có khi tôi bước theo họ trên đường phố Paris. Họ ưa những đường phố đông đúc, hơi những người đàn ông lướt qua, chen lấn họ, và trong giây phút cho họ ảo tương thân xác họ lôi cuốn những thân xác khác, và chiếc giường nhân loại đón nhận họ sôi nổi thiết tha. Tôi còn nhớ một người đàn bà, cũng đã đứng tuổi, mặc áo xanh, tôi đã đi theo dọc phố Rivoli mùa xuân vừa rồi. Cô ta có dáng đi ngập ngừng của những người đàn bà bước ra khỏi cửa chỉ để hít thở đám đông, để quên đi những hơi hướm cô đơn bám chặt bốn bức tường. Cô đã mua một bó hoa nhài một người bán hàng chào mời ngoài phố. Rụt rè cô cầm bó hoa, thỉnh thoảng áp lên môi. Trước tủ kính nào cô cũng dừng bước, trước sạp hàng nào cô cũng lần khân. Tà áo cô phơ phất giữa đôi chân trần. Cô mua cây kem, đứng ăn phía trước tháp Saint-Jacques, rồi đến ngồi ngoài hàng hiên một quán cà phê và gọi một tách trà. Người đàn bà cô đơn trước tách trà buồn tênh, tôi nhớ đã đọc đâu đó câu này. Khuôn mặt cô hằn năm tháng và đau khổ. Cô không thôi đưa tay sửa lọn tóc trên trán. Lúc nhấp trà môi cô hơi run. Cô là hiện thân trọn vẹn của Người Nữ Vô danh, người em gái ngày xưa, một ngày xưa ta đã hoàn toàn quên lãng, nửa trẻ thơ, nửa mẹ hiền, ta vẫn kiếm tìm nhưng chỉ ngó từ xa, như thể một lời ngỏ với cô sẽ phá vỡ hình tượng cô, xua tan hào quang cô, cái vầng sáng những mỏi mệt và tuyệt vọng khiến cô thành một Iphigénie tuy không còn trẻ nữa, bước từng bậc lên đàn hiến sinh. Nàng Iphigénie của tôi mắt ướt, chừng sắp ứa lệ. Cô ngồi nơi bàn, tựa một hòn đảo nhỏ, những lời nói quanh cô bay lượn, chẳng chạm đến cô. Tôi nhìn cô, tôi nghĩ đến đống tro bên dưới âm ỉ một ngọn lửa. Chỉ cần đưa tay lửa sẽ bùng lên. Nhưng tôi bỏ đó nàng Iphigénie của tôi, nàng Iphigénie vì cô đơn mà đẹp tuyệt vời, trong khi tôi vì cô đơn lại mang vẻ một con chó già tìm gặm một khúc xương... Cô lạnh phải không, cô thu mình trong áo khoác, cô tự hỏi vì sao tôi mời cô đến vào giờ khắc muộn màng này để kể với cô chuyện những người lẻ loi. Cả cô nữa, cô cô đơn, khi ngỏ lời với cô bên bờ sông Seine tôi đã biết rồi. Nhưng đấy là một niềm cô đơn kiêu kỳ dựng đầy hào lũy. Cô bước vội vã dọc cầu Les Arts, cô chẳng ngó người qua lại, gương mặt không một chút đợi chờ hay nuối tiếc. Thấy cô, tôi đã tự nhủ cô là người tôi tìm kiếm, người sẽ nghe chuyện tôi mà không lên án tôi. Tóc cô lồng lộng gió, khác nào ngọn cờ tự do của cô. Tôi ganh tị lòng tự tin của cô. Tôi tự nhớ, Cô ấy đến từ cùng một xứ như mình, từ Việt Nam mà cả hai đã lìa xa, cô khi còn là một đứa trẻ, và mình lúc đã thành nhân. Nhưng trong khi tôi quẩn quanh như con chó già bị đem bỏ nơi xa chờ chết, cô bước đi tựa một chiến binh mang trong lòng vương quốc của mình và chấp nhận thách đố lưu dày. Tôi gần như chạy theo cô, tôi không thể để cô vuột mất. Một người chơi đàn lục huyền gảy một khúc ai oán trên những bậc thang dẫn xuống bờ sông. Tôi vẫn thường gặp ông những khi đi dạo ban đêm. Bao giờ ông cũng gảy khúc fado ấy, tiếng than một kẻ lưu đày buông từng nốt xuống làn nước sông Seine, nơi soi bóng hết mọi cô đơn, kiếp sống rã rời, cuộc tình đổ vỡ, khuôn mặt lạc loài, bóng hình trôi dạt. Người chơi đàn lục huyền nhìn cô đi qua. Tay cô cầm một cuốn sách, Tự do theo cam kết. Cô là kẻ vượt ngục; chạy theo cô mà tôi nghe lách cách xiềng xích của tôi, xiềng xích của khắc khoải, của ân hận, của tuổi già lặng lẽ đến và của nỗi cô đơn chó má rũ những con bọ trên mình. Hổn hển tôi ngỏ lời với cô, Nói với tôi đi. Cô bước chậm lại. Mắt cô chẳng chút lộ vẻ kinh ngạc hay bực bội. Cô đoái hoài đến tôi. Tôi cảm thấy mình thật thảm hại với hàm râu bốn ngày chưa cạo, tóc tai bù rối và hai con mắt ánh cơn say hiu hắt của những kẻ mất ngủ. Nói với tôi đi, tôi đã bảo cô như thế. Tôi tưởng như cả Paris rào rạt câu ấy. Hết thảy mọi cô đơn câm nín lên tiếng qua miệng tôi. Hết thảy những ai tự kể lể một mình trong hang ổ của mình, hết thảy những ai mà các tủ kính phản chiếu bộ xương cháy thành than vì dàn hỏa cô đơn, hết thảy những người ấy cùng hòa những lời thầm thì, những lời Nói với tôi đi, Nói với tôi đi, dội lên như một trường giang nổi loạn. Cô bảo tôi, Ông nói đi, tôi nghe ông đây. Và bây giờ, co ro trong cái ghế bành này, cô nghe tôi nói. Hẳn cô có cảm tưởng bị nhốt ban đêm, trong một nghĩa trang, cùng với một bóng ma đội mồ dậy xin thú tội... Cô đừng nhìn tôi như thế. Mắt cô dò xét tôi. Đào đến tận đáy hồn tôi. Để tôi tắt đèn. Trong bóng tối tôi sẽ biết tỏ bày hơn. Tôi sẽ nói như là với chính tôi. Như tôi vẫn nói từ gần ba mươi năm nay. Ba mươi năm trước tôi sống tại cái thành phố cô cũng biết rõ đó, Sài Gòn. Cả đời tôi, tôi chỉ yêu dấu hai thành phố, Sài Gòn và Paris. Sài Gòn, nơi phạm tội. Paris, nơi đền tội. Tôi đã lê bước trên các đường phố hai thành phố ấy. Ở đấy tôi đã biết hết mọi bóng hình mạt vận, ở đấy tôi đã cận kề tất cả những kẻ đêm về hiện nguyên hình cùng quẫn. Tôi lớn lên tại Sài Gòn; tôi bước vào tuổi già ở Paris. Trước kia, tôi có bạn bè, tiền của. Bây giờ tôi chỉ cảm thấy mình gần gũi với những kẻ vô gia cư say mèm có những chiều tôi đi gặp ở góc phố Boucherie, dưới bóng một ngôi nhà nơi họ họp nhau nói thánh nói tướng. Trước kia tôi có tên họ, bây giờ tôi không muốn biết tên họ ấy nữa. Mỗi khi nó vang bên tai, tôi tưởng nghe thấy cái tiếng nói đã gọi tôi lúc thở hơi cuối cùng và buộc tội tôi. Tiếng nói rền rĩ ấy, cô có nghe thấy không? Nó ám ảnh tôi ba mươi năm nay rồi. Khi còn sống với vợ tôi, Elena, có những đêm tôi choàng tỉnh vì cái tiếng nói chẳng từ nơi nào mà vọng đến ấy. Tôi đứng lên, tôi ra đi bộ trên những đường phố tịnh không bóng người quanh nghĩa trang Père-Lachaise, lang thang trong các nhà ga, nhưng tiếng nói ấy vẫn đuổi theo tôi, khiến tôi lạnh buốt xương da. Paris giống như một nhà tù mênh mông kết bằng những gương soi. Đâu đâu tôi cũng ngó thấy khuôn mặt sát nhân của tôi, đâu đâu cũng phản chiếu hình bóng kẻ tội phạm chưa bị trừng phạt của tôi. Tiếng rì rào sông Seine bùng lên tựa tiếng xôn xao trong một phòng xử án. Những cành cây trụi lá vườn Luxembourg chĩa ngón tay buộc tội tôi. Khách bộ hành trên cầu Neuf nhổ vào mặt tôi. Tôi đã tưởng đến Paris tôi sẽ quên hết. Nhưng thành phố này là một bà mẹ khảo tra. Bà đã kết án tôi phải sống lang thang, sống những đêm trắng. Tôi sống trong lòng bà như một đứa con bị gạt bỏ. Trán tôi hằn vết ô nhục. Paris là một bà mẹ khảo tra, còn Sài Gòn là kẻ đồng lõa với tôi, kẻ đồng lõa với những đêm truy hoan của tôi, những đêm truy hoan đã kết thúc trong tội lỗi. Tôi nhớ năm tôi hai mươi tuổi. Tôi vừa khám phá mình có hai đam mê: một người đàn bà và cờ bạc. Tôi hạnh phúc, tôi đã lập gia đình và đêm thì miệt mài tại các sòng bạc. Vợ tôi, tấm nhan sắc thanh cao và lặng lẽ ấy, giống như một thiên thần đứng bên phải tôi, còn bên trái tôi nhăn nhó con quỷ cờ bạc. Tôi chăm chăm đợi đến chiều để bước vào những gian phòng mù mịt khói. Nơi quay cuồng những con xúc xắc, những quân bài, trái cầu ngà. Giờ thì tôi tàn tạ, nhưng hồi ấy tôi hăng say nhường nào mỗi khi vân vê trong tay con xúc xắc bóng láng hay mỗi khi trông thấy quân át chuồn bay lướt trên thảm. Trắng tay rồi mà có lúc tôi vẫn cảm thấy mồ hôi ướt trán khi nghe một tiếng động tựa tiếng lách cách con xúc xắc đổ trên bàn. Tôi được, tôi thua, nào có quan hệ gì. Tôi bỏ tiền mua cơn sốt hừng hực, trái tim bập bùng, tay chân run rẩy, nung nấu đợi chờ. Trong tôi là một trống rỗng tôi phải lấp cho đầy. Và hẳn tôi sẽ tiếp tục sống như thế nếu như sứ giả của định mệnh đã không xuất hiện chỉ cho tôi một cách tiêu khiển khác. Tôi gặp người ấy trong một ván bài một mình anh ta ăn hết. Anh ta tìm cách rời sòng bạc cùng lúc với tôi và đưa tôi về nhà. Vẻ mặt hốc hác, nghiêm trọng. Ánh đèn sòng bạc mờ tối khiến anh trông trẻ hơn thực. Anh nói về tổ quốc, về cuộc chiến trường kỳ và về bọn Mỹ giày xéo đất nước ta. Càng nói anh càng sôi nổi. Những từ đế quốc Mỹ, tự do, nhiệt tình ái quốc từ miệng anh bắn ra như những trái cầu lửa. Đất nước tang thuơng, đất nước quằn quại dưới gót giày quân xâm lược, thế mà, anh nói, trong khi ấy có những đứa con được cưng chiều cuống cuồng chỉ vì đổ quân xúc xắc. Anh từ biệt tôi lúc về đến nhà, bảo tôi suy nghĩ những gì anh đã nói. Tôi gặp lại anh hôm sau và những ngày kế tiếp. Anh không vào sòng bạc nữa mà chờ tôi ngoài cửa. Tôi hiểu anh là điệp viên của miền Bắc, một Charlie như bọn Mỹ vẫn gọi, một Việt Cộng tuyển mộ người cho mật khu. Charlie đề nghị tôi từ bỏ cảm giác ăn thua cờ bạc để đổi lấy cảm giác hoạt động bí mật. Gã trẻ là tôi khi ấy nào có mong gì hơn là, bằng cách này hay cách khác, chặn đứng nỗi chán chường của kiếp sống mình. Tôi chẳng tin tưởng vào một điều gì. Đã chơi với xúc xắc, tôi sẵn sàng chơi với bom. Tôi nhận lời gia nhập mạng lưới, cũng chẳng rõ vì nhiệt tình ái quốc đã thức dậy nơi tôi hay chỉ vì nhu cầu tiêu khiển. Charlie tặng tôi món quà chào mừng: một ống thuốc độc mỗi thành viên của mạng lưới mang trong người và phải uống cạn nếu bị bắt, để đề phòng mọi tố giác. Thế là tôi cũng lại được đánh cuộc với ý tưởng cái chết. Tôi trái lệnh ngay: tôi không mang thuốc độc trên người mà bỏ trong ngăn kéo tủ đầu giường, cấm ngặt vợ tôi không được đụng đến. Rồi tôi đợi chỉ thị của Charlie. Nhưng chẳng có tin tức gì hết. Tôi quay lại sòng bạc. Vợ tôi vẫn chờ mỗi sáng tôi trở về. Tôi nhìn thấy mắt nàng sưng mọng vì thức đêm và khóc nhiều. Tôi nhìn thấy gương mặt đau đớn của nàng, tôi nghe ra trong câm nín của nàng những trách móc cay đắng. Tôi tự hứa sẽ thôi cờ bạc, nhưng cứ đêm đến là mấy con xúc xắc nhảy múa trước mắt tôi và tôi lại lao vào tay con quỷ. Từ khi Charlie xuất hiện, dường như tôi chỉ gặp họa. Đêm nào tôi cũng thua. Chẳng bao lâu, tôi không còn cách nào khác: tôi lấy trộm nữ trang của vợ tôi đem bán. Cái đêm đó, tôi vẫn nhớ như mới hôm qua, trời mưa như trút ở Sài Gòn. Tôi đờ đẫn từ sòng bạc bước ra. Tôi đã chơi số tiền bán nữ trang và tôi đã thua hết. Charlie chờ tôi. Có vẻ anh chẳng bận tâm là tôi vẫn sống y như trước. Anh có một nhiệm vụ giao cho tôi. Nghe anh nói, tôi chợt hốt hoảng. Đồ hèn, đồ hèn, tôi thầm tự mắng mình. Nhưng tôi chẳng thắc mắc gì hết. Tôi chỉ ám ảnh với ý nghĩ tôi đã thua hết cái đêm trời mưa như trút trong thành phố. Vào lúc ấy, nào có nghĩa lý gì với tôi tổ quốc và người chiến sĩ du kích đứng bên tôi. Tôi lâm đường cùng: giọng Charlie trở nên đe dọa và tôi thì nghĩ đến vợ tôi, giờ này, tất đã khám phá sự hèn hạ của tôi. Tôi nói với Charlie ngày mai tôi sẽ đến nơi hẹn rồi lần bước về trên những đường phố ướt sũng. Một tiếng nói nhắc cho tôi là tôi chỉ còn một lối thoát: nuốt liều thuốc độc trong ngăn kéo tủ đầu giường. Tôi hèn nhát chẳng dám hiến mạng mình cho đất nước. Tôi sẽ chết mà chẳng biết gì khác ngoài mấy sòng bạc và cơn kích thích chiếm trọn hồn xác mỗi khi con xúc xắc lật mặt sáu. Tôi rón rén đẩy cổng. Trong nhà im lìm. Tôi cố tránh gây tiếng động để không đánh thức vợ tôi. Nàng nằm ngả thu lu trên giường. Tôi đến bên tủ, mở ngăn kéo. Trống rỗng. Thế rồi tôi trông thấy ống thuốc giữa mấy ngón tay co quắp của vợ tôi... Cô biết hết chuyện tôi rồi đó. Chuyện chẳng vinh dự gì. Thỉnh thoảng tôi kể dăm câu cho mấy người vô gia cư kia nhưng họ chẳng buồn nghe. Lúc trông thấy cô, hôm nọ, trên cầu Les Arts, tôi bỗng mong được cô nghe chuyện tôi. Nói ra với cô tức tôi thú tội. Tôi đã tưởng đến Paris, thành hôn với Elena, rồi tôi sẽ quên được cái đêm mưa tầm tã ấy ở Sài Gòn, cái đêm tôi đã phản bội tất cả, tình yêu cũng như tổ quốc. Từ đấy, tôi là một bóng ma lẩn quất ở Paris, đi tìm tha thứ trong mắt những kẻ bị gạt ngoài lề. Ban ngày, tôi lang thang trên phố Rennes, tìm cái bà già gầy gò mặc áo mưa rách, bước thấp bước cao, vừa đi vừa lăng mạ tất cả những người qua đường. Tôi đi ngang trước mặt bà, bà rủa xả tôi hết lời và tôi thỏa mãn bỏ đi. Tôi đến phố Sèvres, nơi một người đàn ông mặc bộ đồ màu xám đã sờn, kính thõng trên mũi, bước tới bước lui trên vỉa hè, miệng hỏi, Muốn nghe đọc thơ không? Phố Les Blancs-Manteaux, tôi lén đến bên một người mù gảy đàn măng-đô-lin. Trong vườn Luxembourg tôi đi theo hai chị em tóc đã hoa râm, áo choàng rách mướp, líu ríu bên nhau như hai con thú khiếp hãi. Người chị vừa đi vừa len lén nhặt những hòn sỏi, đồng xu, lá vàng nhét vào cái túi cầm trên tay. Phố Les Jeuneurs, dưới vòm cửa một ngôi nhà đổ nát, một người đàn ông phì nộn say mèm lăn lóc ngủ. Ông ta ngủ ngồi, hai chân dang ra, áo dính đầy vết nôn mửa. Miệng lẩm bầm trong giấc ngủ. Tôi dừng bước, lắng nghe. Paris tràn đầy những lời nói tật nguyền như thế, những thuyết ngôn không đầu không đuôi, những từ điên dại vì cô đơn, tiếng nấc buồn thảm, tiếng ấp úng chán chường, những thú tội chẳng một ai nghe. Thành phố của ngôn từ đứt quãng, thành phố những mắt nhìn ướt đẫm, thành phố những bàn tay chìa vào cõi không, thành phố những rền rĩ đêm khuya và những oán than rạng sáng, thành phố những đau đớn, những bại hoại, những lưu đày không tìm ra chốn nương thân, thành phố những thân xác co ro chẳng còn nhớ xưa kia mình từng có một hạnh phúc nào hay không, thành phố những cùng khổ, những vết thương rỉ nước, thành phố của cái chết lúc sáng dưới bóng một chiếc cầu uy nghi, thành phố những anh khùng ngây dại trong sương sớm, đi tìm chìa khóa thiên đường đã mất, thành phố của rượu chè siêu hình, thành phố của suy vi kiêu kỳ, Paris cho thế giới thấy bộ mặt đầy mụn của mình. Cái đẹp loang lở của Paris khiến tôi ban ngày xúc động, ban đêm choáng váng. Tôi chui vào như vào một cuộc tình loạn luân. Paris em gái tôi mở vòng tay đón vào lòng mình người tình lưu đày mà những giọt nước mắt, rượu đắng của hoàng hôn, vẫn chẳng thể làm quên lãng vương quốc của mình. Paris mẹ ghẻ xua đuổi vào những góc tăm tối đứa con đến chẳng từ nơi nào, đứa con quay quắt khi gió nổi, đau đớn khi sao mọc. Paris là đất đền tội của tôi, nơi tôi cày hối tiếc, nơi tôi gặt cô đơn. Trong Paris, tôi đã gieo trên gạch lát đường những lời thầm thì với chính tôi, những lời thù oán và ân hận, những lời giành giật được của những ngày nặng nề, những lời nuôi dưỡng bằng những đêm không ngủ, những lời trộm được của câm nín như đã vĩnh viễn ngự trị nơi tôi. Trong bình yên giả trá đó vang dội tiếng nói xưa kia, tiếng nói người đàn bà tôi đã giết chết và đã gọi tôi lúc trút hơi thở cuối cùng. Những khi ở đây, những khi nhìn qua cửa sổ sừng sững những cao ốc lạnh lùng, kiêu căng, tôi vẫn nghe thấy tiếng nói rền rĩ ấy của một người đàn bà hấp hối tay nắm chặt ống thuốc độc... Cô đã đến tận đây với tôi, cô hãy lắng nghe tiếng nói ấy đi, quanh quất trong xưởng vẽ này, cất cao như một lời ca. Cả Paris đầy ứ tiếng nói ấy. Mỗi bước đi tôi đều nghe thấy. Từng giờ từng khắc tôi sống trong lắng nghe âu lo tiếng nói ấy, xoáy tròn, bay bổng, trở lại trùm kín tôi. Tôi bỏ chạy, tìm kiếm một tấm lòng cho mình nương náu. Nhưng Paris lánh xa tôi, Paris nín thinh và mắt tôi hoài công năn nỉ, Nói với tôi đi, Nói với tôi đi, để cho tiếng nói kia nín thinh. Tôi tiến bước trong đêm giữa những bóng ma và tôi trở lại, lần mò, thất thểu, vô phương trốn lánh, với đoàn lũ cô đơn.