← Quay lại trang sách

Đại Tây Dương, 1891

Tàu thuyền đã thay đổi.

Trước đây tôi đã từng ra biển, nhưng ở ngoài khơi không còn cảm giác như ở ngoài khơi nữa.

Sự tiến bộ của loài người dường như được đo bằng khoảng cách ta thiết lập giữa bản thân và tự nhiên. Giờ đây ta có thể ở giữa Đại Tây Dương, trên một con tàu hơi nước như tàu Etruria, nhưng lại cảm thấy như đang ngồi trong một nhà hàng tại Mayfair vậy.

Chúng tôi ở khoang hạng nhất. Hạng nhất thuở đó thực sự là nhất hạng, và ta phải ăn diện sao cho xứng tầm.

Người phụ nữ, Agnes, đã trang bị cho tôi một va li đầy ắp quần áo mới và tôi đang mặc bộ com lê ba mảnh bằng vải chéo bông thanh lịch và thắt khăn lụa. Mày râu nhẵn nhụi. Chị ta đã cạo râu cho tôi, bằng lưỡi dao cạo, và khi ấy tôi đã nghiêm túc suy tính đến khả năng chị ta sẽ cắt cổ mình.

Từ cửa sổ nhà hàng, chúng tôi có thể thấy mấy boong tàu phía dưới, nơi những đám đông ở khoang hạng hai và hạng chót đang đi lại trong trang phục xoàng xĩnh hơn, những thứ mà tuần trước tôi đã khoác lên mình, hoặc đang dựa vào thành tàu và phóng tầm mắt ra đường chân trời, không có gì ngoài đảo Bllis và những giấc mơ Mỹ đang đón đợi.

Trong tất cả những người tôi từng gặp, tôi nghĩ Agnes là người khó để mô tả thành lời nhất. Chị ta là sự tổng hòa cực kỳ hiếm gặp của tính cách thẳng thắn, thói bất chấp đạo lý và cung cách điềm đạm. Ồ, và chị ta còn có khả năng giết người nữa.

Chị ta vẫn vận đồ đen tang tóc, phong cách thời nữ hoàng Victoria, và trông ra dáng một quý bà thượng lưu từ đầu đến chân. Đến miếng che mắt cũng toát lên sự trang nhã. Dù vậy lựa chọn đồ uống của chị ta - whisky - lại có vẻ hơi lập dị.

Tên chị ta - cái tên hiện thời - là Gillian Shields. Nhưng tên khai sinh là Agnes Wade.

“Hãy coi tôi là Agnes. Tôi là Agnes Wade. Chớ có gọi cái tên đó nữa nhưng hãy luôn nhớ đến nó. Agnes Wade.”

“Còn chị hãy coi tôi là Tom Hazard.”

Chị ta sinh ra tại York vào năm 1407. Chị ta già hơn tôi hơn một thế kỷ. Điều này khiến tôi vừa thấy phiền lại vừa thoải mái. Tôi chưa nghe kể hết về những thân phận khác nhau của chị ta suốt bao năm qua, nhưng chị ta tiết lộ rằng vào giữa thế kỷ mười tám, chị ta là Flora Burn, tên cướp biển khét tiếng từng hoành hành ngoài khơi nước Mỹ.

Chị ta gọi ragu gà còn tôi gọi cá ngừ nướng.

“Có người phụ nữ nào trong đời cậu không?”

Tôi ngập ngừng không trả lời luôn và chị ta liền thấy cần phải nhanh chóng làm rõ câu hỏi của mình. “Khỏi lo. Tôi không có hứng thú với cậu về mặt đó đâu. Cậu quá nghiêm túc. Tôi thích phụ nữ nghiêm túc, nhưng tôi - khi ở trong cuộc - lại thích một người đàn ông vô ưu vô tư hơn. Chỉ là tò mò thôi. Chắc hẳn phải có ai đó. Cậu không thể nào sống lâu như vậy mà không có ai bên cạnh.”

“Có một người. Vâng. Từ lâu lắm rồi.”

“Cô ấy có tên không?”

“Có. Có chứ. Cô ấy có tên.” Tôi chỉ định chia sẻ với chị ta ngần ấy.

“Từ bấy đến giờ không có ai nữa à?”

“Không có. Không. Không. Từ bấy đến giờ không có ai cả.”

“Tại sao?”

“Thì là vậy thôi.”

“Cậu đang vỗ về một trái tim tan vỡ à?”

“Tình yêu là đau khổ mà. Không yêu thì tốt hơn.”

Chị ta gật đầu đồng tình và nuốt nước bọt, như thể những lời tôi nói có mùi vị, rồi chị ta quay đi nhìn xa xăm. “Phải. Phải, quả vậy. Tình yêu là đau khổ.”

“Vậy,” tôi nói, “chị có định cho tôi biết tại sao chị giết bác sĩ Hutchinson không?”

Chị ta nhìn quanh những thực khách khác, đang ngồi thẳng đơ cứng nhắc theo lối đài các chưng diện quá mức. “Cậu vui lòng không khơi khơi buộc tội giết người trong phòng ăn được chứ? Cậu cần học nghệ thuật giữ mồm giữ miệng. Nói về một chuyện mà lại không thực sự nói về nó. Sự thật là một đường thẳng mà đôi khi cần phải uốn cong, cậu nên nắm được điều đó đi là vừa. Cậu còn sống quả là một kỳ tích đấy.”

“Tôi biết nhưng...”

Agnes nhắm mắt lại. “Cậu cần trưởng thành lên, cậu có hiểu không? Cậu vẫn còn là một thằng nhóc. Giờ trông cậu ra dáng đàn ông rồi đấy, nhưng vẫn chỉ là một thằng nhóc mắt mở to ngơ ngác và cậu cần trở thành, khá là gấp đấy, một người lớn thực thụ. Chúng tôi cần khai hóa cậu.”

Thái độ thản nhiên của chị ta khiến tôi e sợ. “Ông ấy là một người tốt.”

“Ông ta là một con người. Thực chất đó là tất cả những gì cậu biết, đúng chứ? Ông ta là một con người. Một bác sĩ, mưu cầu vinh quang từ đau khổ, mà công trình vĩ đại nhất đã trở thành quá khứ. Người đã hồ hởi vứt cậu sang một bên còn trước đó thì xua đuổi cậu. Ông ta sáu mươi tám tuổi rồi. Tuổi cao sức yếu. Ông ta là một bộ xương mặc vải tuýt. Giỏi lắm thì ông ta cũng chỉ sống được dăm năm nữa thôi. Này nhé, nếu ông ta còn sống mà đăng đàn những phát hiện của mình, để đưa tên tuổi ông ta thành người khám phá ra anageria, thì còn tai hại hơn nhiều đấy. Dẫn đến cái chết của những người không phải chỉ còn vài năm để sống, mà là hàng thế kỷ. Đó được gọi là hy sinh vì lợi ích lớn hơn, hẳn là cậu hiểu? Mất đi những sinh mạng nhằm cứu thêm nhiều sinh mạng khác. Đó là những gì mà hội đang đấu tranh.”

“Hội, hội, hội... Chị cứ nói mãi về cái hội đấy, nhưng lại chẳng cho tôi biết gì cả. Tôi thậm chí còn không biết tên nó là gì.”

“Hải âu Hội.”

“Hải âu ư?”

Đồ ăn của chúng tôi đã ra.

“Tôi có thể giúp gì thêm cho các vị không?” người phục vụ ăn vận chỉn chu, tóc tai bóng mượt hỏi.

“Có đấy.” Agnes mỉm cười. “Anh có thể biến đi.”

Người phục vụ sửng sốt ra mặt, vân vê hàm ria cho đỡ ngại. “Hân hạnh.”

Tôi dòm xuống món cá được chế biến tinh tế và bụng tôi sôi ùng ục đói ngấu khi tôi nhận ra rằng cả thế kỷ nay mình chưa được thưởng thức một bữa ăn như thế này.

“Người ta cho rằng hải âu sống lâu. Mà chúng ta thì sống lâu. Hendrich Pietersen đã sáng lập hội vào năm 1867 như một cách để đoàn kết và che chở chúng ta - những người như chúng ta - những ‘hải âu mày đen’ hay ‘hải âu’ - khỏi các mối đe dọa từ bên ngoài.”

“Vậy người tên Hendrich Pietersen đó là ai?”

“Một bậc cao niên vô cùng thông tuệ. Sinh ra tại Flanders nhưng đã ở Mỹ từ thuở khai sinh ra nước Mỹ. Ông ấy đã kiếm bộn trong cơn sốt tulip và đến New York khi nó vẫn còn là Tân Amsterdam. Bán lông thú. Gây dựng gia tài. Tích lũy, để rồi cuối cùng nên cơ đồ. Ông ấy tham gia vào ngành bất động sản. Đủ mọi ngành nghề. Ông ấy là nước Mỹ, con người Hendrich là vậy đấy. Ông ấy đã thành lập hội để cứu vớt chúng ta. Chúng ta có phước đấy, Tom à.”

Tôi bật cười.

“Có phước. Có phước. Bị nguyền thì có.”

Chị ta nhấp món rượu vang đỏ.

“Hendrich sẽ muốn biết rằng cậu trân quý bản chất của món quà mà cậu được nhận.”

“Tôi thấy khó đấy.”

“Muốn sống sót thì cậu phải làm vậy thôi.”

“Tôi không biết mình có thực sự quá quan tâm đến việc sống sót hay không, chị Agnes à.”

“Không phải Agnes,” chị ta xẵng giọng nói nhỏ. Đoạn nhìn quanh phòng. “Gillian.”

Chị ta lấy gì đó ra khỏi túi. Hỗn hợp thuốc ho Quieting Syrup. Chị ta rót vào ly whisky của mình. Đoạn ngỏ ý sẽ làm thế với ly của tôi. Tôi lắc đầu.

“Cậu có hiểu là cậu ích kỷ thế nào không? Hãy nhìn tất cả những người khác xem. Nhìn quanh phòng ăn này đi. Tốt hơn nữa là hãy nghĩ đến đám người lưu vong trong khoang hạng chót ấy. Phần lớn bọn họ sẽ ngỏm trước năm sáu mươi tuổi. Hãy nghĩ đến bao căn bệnh quái ác đã cướp đi vô số sinh mạng. Đậu mùa, tả, thương hàn, kể cả dịch hạch - tôi biết cậu đã sống đủ lâu để nhớ được.”

“Tôi nhớ.”

“Chuyện đó sẽ không xảy đến với chúng ta. Những người như chúng ta chết chỉ theo một trong hai cách. Hoặc là chúng ta chết trong giấc ngủ ở độ tuổi khoảng chín trăm năm mươi, hoặc do một hành vi bạo lực hủy hoại trái tim hoặc bộ não chúng ta hoặc gây ra mất máu nghiêm trọng. Vậy đấy. Chúng ta miễn nhiễm với rất nhiều nỗi đau của con người.”

Tôi nghĩ đến cảnh Rose run rẩy vì sốt và đau đến mê sảng trong cái ngày cuối đời ấy. Tôi nghĩ về những ngày và những tuần và những năm và những thập kỷ sau đó. “Trong đời tôi có những lúc tôi thà bắn vào đầu mình còn hơn là hưởng cái phúc phận được tồn tại.”

Agnes lắc nhẹ ly whisky pha Quieting Syrup. “Cậu đã sống lâu rồi. Đến giờ ắt hẳn cậu đã biết rằng không chỉ chúng ta mới gặp nguy hiểm khi sự thật về chúng ta bắt đầu được biết đến.”

“Đúng vậy. Chẳng hạn như bác sĩ Hutchinson.”

“Tôi không nói về bác sĩ Hutchinson.” Chị ta phản đòn lẹ hơn một con mèo. “Tôi đang nói về những người khác. Cha mẹ cậu. Họ đã gặp chuyện gì?”

Tôi thong thả nhai cá, rồi nuốt, rồi chấm mép bằng khăn ăn. “Cha tôi mất mạng ở Pháp do vấn đề tôn giáo.”

“À. Chiến tranh tôn giáo Pháp hả? Ông ấy theo đạo Tin Lành à? Tín đồ Kháng Cách?” Tôi gật đầu ba lần.

“Còn mẹ cậu?” Agnes nhìn xoáy vào tôi. Chị ta cảm thấy đã tóm được tôi. Và quả đúng vậy. Tôi kể sự thật cho chị ta.

“Cậu thấy chưa? Ngu dốt là kẻ thù của chúng ta.”

“Giờ không còn ai bị giết vì thuật phù thủy nữa.”

“Sự ngu dốt thay đổi theo thời gian. Nhưng nó luôn ở đó, và vẫn chết người như cũ. Phải, bác sĩ Hutchinson đã chết. Nhưng nếu ông ta còn sống, nếu bài luận của ông ta được đăng báo, thì thay vào đó người ta sẽ truy đuổi cậu. Và những người khác.”

“Người ta ư? Người nào?”

“Hendrich sẽ giải thích. Đừng lo, Tom. Đời cậu không vô ích đâu. Cậu có một mục đích.”

Tôi sực nhớ ra việc mẹ đã bảo tôi cần nó - một mục đích - và trong lúc ăn món cá mềm tan tôi tự hỏi liệu có phải mình sắp tìm thấy nó không.