New York, 1891
“Nhìn nó kìa,” Agnes nói, khi chúng tôi đứng ngoài boong trên của tàu Etruria. “ Tự do khai sáng thế giới .”
Đây là lần đầu tiên tôi được thấy tượng Nữ thần Tự do. Cánh tay phải của bà giơ cao ngọn đuốc lên bầu trời. Thời ấy bà có màu đồng, sáng bóng, trông vô cùng kỳ vĩ. Bà rực rỡ dưới nắng, khi chúng tôi tới gần cảng. Trông bà rất bề thế - đượm chất sử thi và cổ kính - tầm vóc sánh ngang các nhân sư và kim tự tháp. Tôi chỉ mới sống từ khi thế giới thu bé lại, khiêm nhường hơn trở lại. Nhưng khi nhìn đường chân trời New York, tôi cảm giác như thế giới đang ôm một hoài bão lớn lao hơn. Đang hắng giọng. Gom chút tự tin. Tôi đút tay vào túi quần, nắm đồng xu của Marion giữa các ngón tay. Một sự vỗ về, như xưa nay vẫn vậy.
“Tôi từng tới gần sát sạt rồi,” Agnes nói. “Trông bà ấy như đang đứng yên nhưng thực ra là đang sải bước đấy. Bà ấy đang phá bỏ những xiềng xích của quá khứ. Của chế độ nô lệ. Của nội chiến. Và bà ấy đang thẳng tiến tới tự do. Nhưng bà ấy đã bị mắc lại vĩnh viễn trong khoảnh khắc thời gian ngưng đọng đó. Nhìn đi, cậu thấy không? Đừng nhìn ngọn đuốc nữa mà nhìn chân bà ấy đi. Bà ấy đang chuyển động, mà lại như không chuyển động. Hướng đến một tương lai tốt đẹp hơn, nhưng vẫn chưa thực sự đến nơi. Như cậu vậy, Tom. Cậu sẽ thấy. Cuộc sống mới đang đợi cậu.”
Tôi chăm chú ngước nhìn tòa Dakota, một tòa nhà bảy tầng bằng đá màu kem bơ được trang hoàng lộng lẫy, tráng lệ với hàng lan can thanh nhã và mái đầu hồi dốc. Tôi cảm thấy một sự chếnh choáng, nảy sinh từ một cảm giác hiếm gặp khi mà mọi thứ vun vút chuyển động, không chỉ trong cuộc sống của tôi mà cả trên trần đời này. Tôi đã có mặt tại New York được vài giờ, mà cảm giác ấy vẫn không vơi bớt. Có gì đó ở New York hồi thập niên 1890. Một thứ náo nức. Một thứ chân thực đến nỗi khiến ta cảm thấy mình có thể thu nó vào trong hơi thở. Một thứ khiến những xúc cảm trở lại trong tôi.
Tôi chần chừ một lát trên ngưỡng cửa.
Sẽ ra sao nếu tôi bỏ trốn ngay lúc đó? Nếu tôi đẩy Agnes ra và lủi vào công viên hoặc chạy hết tốc lực dọc phố 72 và bằng cách nào đó trốn thoát được? Nhưng tôi đã đê mê chếnh choáng với nó, có lẽ vậy, với tất cả vẻ mới lạ của thành phố. Chưa gì nó đã làm tôi có cảm giác được sống hơn, sau tất cả những năm tháng hư vô lụi tàn.
Bức tượng một thổ dân châu Mỹ - Agnes gọi đó là “người thổ dân canh phòng” - nghiêm trang nhìn xuống chúng tôi. Năm 1980, khi lo công chuyện ở São Paulo, tôi đã xem tin tức về vụ ám sát John Lennon trên cái ti vi màu bé xíu. Hiện trường chính là tòa nhà này, nơi Lennon bị bắn. Tôi tự hỏi có phải bản thân tòa nhà bị dính lời nguyền không, ám tất cả những ai bước chân qua cửa.
Đứng bên ngoài, tôi thấy hồi hộp. Nhưng ít ra đó cũng là một loại cảm xúc. Gần đây tôi không thường có cảm xúc.
“Ông ấy sẽ kiểm tra cậu, kể cả khi ông ấy không kiểm tra. Tất cả đều là một bài kiểm tra.” Chúng tôi leo lên cầu thang. “Ông ấy có thể đọc vị người khác - nét mặt, động tác - tài tình hơn bất cứ ai tôi từng gặp. Hendrich đã hình thành, theo thời gian, một năng lực có vẻ khác thường.”
“Năng lực gì?”
Agnes nhún vai. “Ông ấy chỉ gọi là năng lực thôi. Năng lực liên quan đến con người. Thấu hiểu con người. Có vẻ như là từ độ tuổi năm trăm đến sáu trăm, năng lực của bộ não được mài giũa tới mức vượt xa khả năng của người thường. Ông ấy đã giao thiệp với rất nhiều người, ở rất nhiều nền văn hóa khác nhau, đến mức ông ấy có thể đọc vị nét mặt và ngôn ngữ cơ thể với một sự chính xác đáng ngạc nhiên. Ông ấy biết liệu mình có thể tin tưởng người nào đó hay không.”
Chúng tôi ở đó, trong một căn hộ kiểu Pháp - hồi ấy ở Mỹ không dùng từ “căn chung cư” - trên tầng cao nhất của tòa Dakota, với Công viên Trung tâm trải rộng phía dưới.
“Tôi cố vờ như đó là khu vườn của mình đấy,” người đàn ông cao gầy, đầu hói, vận com lê lịch lãm đứng bên cửa sổ nói. Ông ta chống gậy, nắm tay siết chặt. Vừa là để thị uy vừa do chứng thấp khớp mà lúc này vẫn chưa đến mức quật ngã ông ta.
“Quang cảnh ấn tượng thật,” tôi nói.
“Phải. Và những tòa nhà này mọc lên từng ngày. Mời ngồi.”
Nếu cần dùng một từ để miêu tả thì từ đó chính là trang nhã. Có một cây đàn piano Steinway trang nhã và bên cạnh nó là một chiếc sofa da trang nhã toát lên vẻ đắt tiền. Những cây đèn đứng, một chiếc bàn gỗ gụ, một chùm đèn. Agnes thoải mái ngồi xuống sofa và chỉ vào cái ghế gần bàn. Hendrich ở bên kia bàn, nhưng vẫn đang đứng, chăm chăm nhìn ra ngoài cửa sổ. Chị ta gật đầu với tôi vẻ khẳng định, ngụ ý rằng tốt hơn là tôi nên ngồi xuống ngay đi.
Trong khi đó Hendrich vẫn chăm chú nhìn ra Công viên Trung tâm.
“Cậu đã sinh tồn như thế nào hả Tom?” Ông ta quay sang đối diện với tôi. Tôi nhận ra, ông ta già rồi. Nếu ông ta là người thường - một “phù du” như cách Agnes gọi, với vẻ điềm nhiên - ta có thể đoán ông ta cỡ bảy mươi. Trong thời nay, ngay lúc này, điều chỉnh theo lạm phát, ta có thể ước chừng một con số lớn hơn. Trên tám mươi. Hồi đó trông ông ta già hơn bao giờ hết.
“Cậu đã sống lâu đến thế kia mà. Và theo những gì tôi nghe được thì cậu đã không được sống trong những hoàn cảnh thuận lợi nhất. Điều gì ngăn cậu nhảy cầu vậy? Điều gì thúc đẩy cậu?”
Tôi nhìn ông ta. Má ông ta chảy xệ còn mắt thì đầy bọng bên dưới khiến tôi liên tưởng đến một cây nến đang chảy.
Tôi không muốn nói ra lý do thực sự. Nếu Marion còn sống, tôi không muốn Hendrich biết về con bé. Tôi không tin bất kỳ ai.
“Thôi nào, chúng tôi ở đây để giúp cậu. Cậu sinh ra trong một lâu đài. Số cậu vốn là để hưởng những điều tốt đẹp, Tom à. Chúng tôi sẽ đưa cậu trở lại với cuộc sống đó. Cả với con gái cậu nữa.”
Tôi cảm thấy mọi thứ xung quanh như co rút lại.
“Con gái tôi ư?”
“Tôi đã đọc báo cáo của bác sĩ Hutchinson. Về Marion. Đừng lo, chúng tôi sẽ tìm kiếm con bé. Chúng tôi sẽ tìm ra nó, tôi hứa với cậu. Nếu nó còn sống, chúng tôi sẽ tìm ra. Chúng tôi sẽ tìm thấy tất cả chúng ta. Và khi những thế hệ mới xuất hiện, chúng tôi sẽ tìm thấy cả bọn họ nữa.”
Tôi sợ, nhưng thú thật là cũng có chút phấn khích trước ý nghĩ có người giúp mình tìm kiếm Marion. Đột nhiên, tôi cảm thấy vơi bớt nỗi cô đơn.
Có một bình whisky trên bàn ông ta. Và ba chiếc ly. Ông ta rót một lượt whisky mà không buồn hỏi có ai muốn uống không. Thực tình tôi có muốn, cốt để định thần lại.
Ông ta đọc nhãn chai. “Nhìn này. ‘Rượu Whiskey mạch nha Ireland cổ Wexford. Dư vị quá khứ.’ Dư vị quá khứ cơ đấy! Hồi tôi còn trẻ còn chưa có whisky nữa kìa.” Nghe giọng thì rất khó xác định ông ta là người vùng nào. Không đặc sệt Mỹ. “Nhưng mà tôi già hơn cậu nhiều”
Ông ta thở dài vẻ bâng khuâng và ngồi xuống đằng sau chiếc bàn gỗ gụ to sụ.
“Lạ nhỉ? Tất cả những thứ mà chúng ta đã sống để chứng kiến. Trong trường hợp của tôi thì là cả một danh sách đây: kính mắt, máy in, báo giấy, súng trường, la bàn, kính viễn vọng... đồng hồ quả lắc... đàn piano... những bức họa theo trường phái Ấn tượng... nhiếp ảnh... Napoléon... sâm panh... dấu chấm phẩy... biển quảng cáo... bánh kẹp xúc xích...”
Ông ta hẳn đã nhận ra vẻ mặt lơ ngơ của tôi.
“Hẳn rồi, Agnes. Anh chàng tội nghiệp này chưa bao giờ được ăn bánh kẹp xúc xích. Chúng ta phải đưa cậu ấy tới đảo Coney thôi. Món này ở đó ngon nhất thành phố.”
“Chính xác luôn,” Agnes nói, dường như bớt đôi phần ngoa ngoắt khi ở bên ông ta.
“Có phải đồ ăn không?” tôi hỏi.
“Phải.” Ông ta cười khô khan. “Là xúc xích đấy. Một loại xúc xích đặc biệt. Xúc xích chó Dachshund. Một loại dồi đặc biệt. Là thiên đường bên trong ổ bánh mì. Là những gì mà cả nền văn minh đang hướng đến... Vốn lớn lên ở Flanders, nếu tôi mà biết trước rằng một ngày nào đó tôi sẽ được nếm thử một cái bánh kẹp xúc xích . Chà!”
Có vẻ hơi lạ. Tôi được đưa vượt đại dương - bỏ lại đằng sau một người đàn ông đã chết - để say sưa đàm đạo về xúc xích ư?
“Hưởng lạc. Đó chẳng phải là đích đến sao? Để hưởng thụ những thứ tốt đẹp... đời sống cao. Đồ ăn. Rượu. Nghệ thuật. Thơ. Âm nhạc. Xì gà.”
Ông ta lấy một điếu xì gà trên bàn, cùng với chiếc bật lửa crôm.
“Cậu làm một điếu không?”
“Tôi không thích thuốc lá.”
Ông ta có vẻ cụt hứng. Bèn đưa một điếu cho Agnes.
“Bổ phổi lắm đấy.”
“Không cần đâu,” tôi đáp, đoạn nhấp whisky.
Ông ta châm xì gà cho hai người họ và nói, “Đời sống cao hơn. Thú nhục dục. Tôi phát hiện ra là không có ý nghĩa nào ngoài ý nghĩa đó. Không có gì khác.”
“Còn tình yêu?” tôi hỏi.
“Tình yêu thì sao?”
Hendrich mỉm cười với Agnes. Khi nụ cười quay trở lại phía tôi, nó nhuốm vẻ hăm dọa. Ông ta chuyển đề tài. “Tôi không biết cậu nhọc công đi khám về tình trạng của mình làm gì nữa. Có lẽ cậu nghĩ, giờ những trò mê tín dị đoan như thuật phù thủy không còn thịnh nữa, thì làm vậy là an toàn đúng không?”
“Tôi nghĩ làm thế sẽ giúp ích cho mọi người. Những người như chúng ta. Để có một sự giải thích về mặt y học.”
“Chắc chắn là Agnes đã nói qua cho cậu biết tại sao làm thế là dại rồi.”
“Có nói sơ sơ, vâng.”
“Sự thật là: hiện đang nhiều hiểm nguy rình rập hơn bao giờ hết. Những tiến bộ trong khoa học và y học không phải là những tiến bộ đáng được chào đón: lý thuyết mầm bệnh và vi sinh vật học và miễn dịch học. Năm ngoái họ đã tìm ra vaccine thương hàn. Điều ta không biết là trong quá trình theo đuổi nghiên cứu, các nhà phát minh ra vaccine đã lợi dụng công trình của Viện Nghiên cứu Thí nghiệm tại Berlin.”
“Tiêm phòng bệnh thương hàn chắc chắn là chuyện tốt chứ?”
“Khi nghiên cứu được tiến hành bằng cách gây tổn hại cho chúng ta thì không.” Ông ta khẽ nghiến hàm, cố kìm nén cơn giận dữ. Vẻ lặng phắc của Agnes càng khiến tôi lo lắng. Có lẽ có một khẩu súng trong ngăn bàn ông ta. Có lẽ đây là một bài kiểm tra mà tôi đã trượt và giờ ông ta sắp sửa găm một viên đạn vào đầu tôi.
“Đám nhà khoa học” - ông ta nói những từ đó như thể chúng có vị trứng ung - “là những kẻ săn phù thủy kiểu mới. Cậu biết về những kẻ săn phù thủy đúng không? Tôi biết là cậu biết.”
“Cậu ấy biết những kẻ săn phù thủy,” Agnes quả quyết, nhả một làn khói thuốc mỏng về phía cây đèn đứng.
“Nhưng điều cậu không biết là những cuộc xét xử phù thủy chưa bao giờ kết thúc. Nó chỉ mang một cái tên khác thôi. Chúng ta là những cái xác ếch của họ. Viện biết đến chúng ta.” Ông ta nhoài người qua bàn, gạt tàn thuốc vào số New York Tribune mới toanh, ánh mắt trừng trừng thiêu đốt như đầu mẩu xì gà. “Cậu có hiểu không? Có những thành viên trong cộng đồng khoa học biết đến chúng ta .” Ông ta ngả người ra ghế. “Không nhiều. Nhưng có một số. Ở Berlin. Họ không quan tâm đến chúng ta với tư cách con người. Thật vậy, họ thậm chí không coi chúng ta là người. Họ đã giam cầm hai người trong chúng ta. Tra tấn người của ta trong những phòng thí nghiệm cất giữ những con chuột lang. Một người đàn ông và một phụ nữ. Người phụ nữ đã trốn thoát. Giờ cô ấy là một phần của hội. Cô ấy vẫn sống ở Đức, trong một ngôi làng ở miền quê Bayern, nhưng chúng tôi đã trao cho cô ấy một cuộc sống và một cái tên mới. Cô ấy giúp chúng tôi khi chúng tôi cần. Và chúng tôi giúp đỡ ngược lại.”
“Tôi không biết chuyện đó.”
“Cậu không có nghĩa vụ phải biết.”
Tôi để ý thấy công viên ngổn ngang cây đổ.
Một con chim đậu trên bậu cửa sổ.
Tôi không nhận ra đó là chim gì. Chim chóc ở đây khác. Một sinh vật màu vàng nhỏ bé đầy sinh lực với đôi cánh xám xỉn, ngỏng đầu về phía cửa sổ. Rồi về phía ngược lại. Tôi chưa bao giờ chán ngắm nhìn cách các loài chim di chuyển những khi chúng không bay. Đó là một chuỗi hoạt cảnh hơn là sự chuyển động liên hoàn. Một sự ngắt âm. Những khoảnh khắc mắc kẹt.
“Con gái cậu có thể gặp nguy hiểm. Tất cả chúng ta đều có thể. Chúng ta cần đoàn kết lại, cậu có hiểu không?”
“Tôi hiểu.”
“Còn một câu hỏi cuối cùng tôi cần hỏi cậu?” Hendrich nói, sau khi hớp một ngụm whisky.
“Mời ông.”
“Cậu có muốn sinh tồn không? Ý tôi là thật sự ấy? Cậu có muốn sống sót không?”
Từ lâu tôi đã tự hỏi mình câu hỏi này. Câu trả lời thường là có, bởi tôi không muốn chết trong khi vẫn còn một cô con gái biết đâu vẫn sống, dẫu vậy rất khó để nói rằng tôi muốn sinh tồn. Kể từ sau chuyện của Rose, có một quả lắc dao động giữa hai khả năng. Tồn tại hay không tồn tại. Nhưng trong căn hộ xa hoa này, với con chim vàng vẫn đậu trên bậu cửa kia, câu trả lời tuồng như rõ ràng hơn. Từ độ cao này, với bầu trời xanh ngăn ngắt này và một thành phố mới mẻ sắc nét phía trước, tôi cảm thấy được gần Marion hơn. Nước Mỹ khiến ta tư duy trong thì tương lai. “Có. Có, tôi có muốn sinh tồn.”
“Vậy, để sinh tồn, chúng ta cần hợp tác với nhau.”
Con chim bay đi mất.
“Được,” tôi đáp. “Được. Hợp tác với nhau.”
“Đừng lo lắng quá thế. Chúng tôi không phải giáo phái gì đâu. Mục tiêu của chúng tôi là sống sót, phải, nhưng cốt để hưởng thụ cuộc sống. Ở đây chúng tôi không thờ thánh thần gì cả, có chăng là ngoại trừ Aphrodite. Và Dionysus.” Ông ta trầm ngâm trong giây lát. “Agnes, cô định tới Harlem à?”
“Vâng. Tôi tính đi gặp một người bạn cũ, rồi làm liều an thần và ngủ một tuần liền.”
Ánh sáng lấp loáng như viên ngọc trên bình rượu. Thấy vậy Hendrich liền hoan hỉ. “Nhìn xem! Mặt trời ló dạng rồi. Chúng ta dạo một vòng công viên chứ nhỉ?”
Một cây phong bật gốc chắn đường chúng tôi.
“Bão lốc đấy,” Hendrich giải thích. “Làm mấy người thiệt mạng vài tuần trước, chủ yếu là thủy thủ. Những người trông giữ công viên dọn dẹp hơi lề mề.”
Tôi nhìn chăm chăm vào đám rễ cây tua tủa như xúc tu. “Chắc là khốc liệt lắm.”
Hendrich mỉm cười với tôi. “Dữ dội phải biết đấy.”
Ông ta cúi nhìn đất và lá rải rác trên lối đi.
“Kinh nghiệm nhập cư. Ngay đó. Gió ập đến và đột nhiên ta không còn ở trên mặt đất nữa. Và gốc rễ của ta bị phô bày ra, trông kỳ dị và xa lạ. Nhưng cậu đã mất gốc từ trước rồi mà, phải không? Cậu đã tự nhổ cội rễ của mình. Cậu buộc phải làm vậy, chắc chắn rồi.”
Tôi gật đầu. “Nhiều lần.”
“Thì rõ.”
Tôi cố xem như đó là một lời khen. Thật khó.
“Mẹo ở đây là giữ cho mình thẳng đứng. Cậu biết phải di chuyển và giữ cho mình thẳng đứng như thế nào chứ?”
“Như thế nào?”
“Cậu phải ngang tài ngang sức với cơn bão. Cậu phải làm cơn bão của chính mình. Cậu phải...”
Ông ta ngừng lại. Phép ẩn dụ của ông ta đã cạn ý. Tôi để ý thấy giày của ông ta bóng loáng. Tôi chưa bao giờ thấy một đôi giày nào như vậy.
“Chúng ta khác biệt, Tom à,” sau cùng ông ta nói. “Chúng ta không như những kẻ kia. Chúng ta mang theo quá khứ. Chúng ta thấy nó ở khắp mọi nơi. Và đôi khi việc đó có thể gây nguy hiểm, và chúng ta cần đỡ đần nhau.” Tay ông ta giờ đặt lên vai tôi, như thể ông ta đang nói với tôi điều quan trọng bậc nhất vậy. “Quá khứ không bao giờ trôi qua. Nó chỉ lẩn trốn thôi.”
Chúng tôi chậm rãi đi vòng qua cây phong.
Manhattan vươn lên từ mặt đất, phía trước chúng tôi, như một khu rừng chống bão kiểu mới.
“Chúng ta phải vượt lên trên bọn họ. Cậu có hiểu không? Vì sự sống sót của chúng ta trong tương lai, chúng ta buộc phải ích kỷ.”
Chúng tôi đi qua một cặp đôi quấn mình trong áo choàng, đang cười vì một câu đùa riêng tư nào đó. “Cuộc đời cậu đang thay đổi. Thế giới đang thay đổi. Nó là của chúng ta. Chúng ta chỉ cần đảm bảo rằng phần lớn phù du không hay biết về mình là được.”
Tôi nghĩ đến cái xác trôi dọc sông Thames.
“Nhưng việc giết bác sĩ Hutchinson...”
“Đây là một cuộc chiến, Tom ạ. Là một cuộc chiến vô hình, nhưng là một cuộc chiến. Chúng ta phải bảo vệ mình.”
Ông ta hạ thấp giọng khi hai người đàn ông ăn vận lịch sự với hàng ria mép giống hệt nhau lái những chiếc xe đạp màu đen lướt qua. Bánh xe có cùng kích cỡ, điều này với tôi quả là một bước tiến hết sức hiện đại.
“Cái người tên Omai đó là ai?” Hendrich thì thầm. Lông mày ông ta nhướng lên như cánh chim sẻ.
“Sao kia?”
“Bác sĩ Hutchinson đã viết về anh ta. Gốc gác Nam Thái Bình Dương. Anh ta là ai thế?”
Tôi cười mà lòng nơm nớp. Thật không quen khi có người biết những bí mật lớn nhất của mình. “Anh ấy là một người bạn cũ. Tôi quen anh ấy từ thế kỷ trước. Anh ấy đã tới London một thời gian, nhưng không muốn bị phát hiện. Cả trăm năm rồi tôi chưa gặp anh ấy.”
“Được rồi,” ông ta nói. “Được rồi.”
Rồi Hendrich mở áo khoác lấy ra hai tấm vé màu be từ ngăn túi trong. Ông ta đưa một tấm cho tôi.
“Tchaikovsky. Tối nay. Gian nhạc thính phòng. Vé nóng nhất thành phố đấy. Cậu cần phải nhìn ra bức tranh lớn hơn, Tom à. Sống đến giờ mà cậu vẫn chưa thấy nó. Nhưng rồi cậu sẽ thấy, sẽ thấy thôi. Vì con gái cậu. Vì bản thân cậu. Tin tôi đi, cậu sẽ...” Ông ta ngả người sát lại, cười hết cỡ. “Còn nếu không, ừm, có lẽ cậu sẽ thấy quỹ thời gian của mình cạn sạch đấy.”
Chúng tôi ngồi trên những chiếc ghế đệm đỏ sang trọng, và khi người phụ nữ kế bên Hendrich, mặc váy màu đỏ rượu vang xa hoa - tay phồng, cổ cao, tùng váy xòe, phần cổ được trang trí những đường thêu tinh xảo, đứng lên vào nhà vệ sinh, ông ta nghiêng đầu về phía tôi và kín đáo chỉ một người nổi tiếng trong hàng ghế thính giả.
“Người đàn ông trên ban công... đang chúi người về trước... bên cạnh quý cô mặc váy xanh lục. Cái người ai nấy đều nhìn mà vờ như không nhìn ấy.” Tôi thấy một người đàn ông da dẻ hồng hào vẻ dễ gần với khuôn mặt tròn hao hao mặt cú và bộ râu trắng được cắt tỉa gọn gàng. “Andrew Carnegie. Gã khổng lồ của ngành công nghiệp. Giàu hơn cả Rockefeller. Hào phóng hơn nữa... Cơ mà, nhìn đi, ông ta là một lão già. Ông ta còn bao nhiêu thời gian đây? Một thập kỷ nữa? Có lẽ lâu hơn một chút? Nhưng mỗi một mảnh thép Carnegie trong mỗi đường ray tàu hỏa trên khắp đất nước này sẽ còn trường tồn sau khi ông ta ra đi. Nhà hát này, được xây dựng bằng mấy đồng lẻ của ông ta, sẽ vẫn đứng đây, khi ông ta nằm dưới ba tấc đất. Vậy nên ông ta mới xây nó. Để tên tuổi mình sống mãi sau này. Đó là những gì người giàu làm. Một khi họ biết mình có thể sống an nhàn và con cái họ có thể sống an nhàn thì họ bắt đầu tính cách xử lý di sản của mình. Quả là một từ đáng buồn, cậu có nghĩ vậy không? Di sản. Thật vô nghĩa. Ngần ấy công sức cho một tương lai không có mặt họ. Mà di sản là gì hả cậu Hazard? Di sản là gì ngoài sự thay thế trống rỗng và tầm thường nhất cho những gì chúng ta có. Thép và tiền và những nhà hát xa hoa đâu mang lại cho ta sự bất tử.”
“Chúng ta không bất tử.”
Ông ta mỉm cười. “Nhìn tôi này, Tom. Trông tôi trạc tuổi ông ta. Nhưng trên thực tế tôi còn trẻ hơn cả một đứa nhỏ. Tôi sẽ còn sống đến năm 2000.”
Tôi mạo muội làm mếch lòng ông ta. “Nhưng trong lòng ông cảm thấy thế nào? Điều luôn làm tôi lo lắng chính là cái ý nghĩ phải trải qua thêm vài quãng đời tuổi già.”
Và trong một khắc tôi nghĩ mình đã làm mếch lòng ông ta. Tôi nghĩ mình đã lấn qua một lằn ranh vô hình. Và có lẽ tôi đã lấn qua thật, nhưng ông ta chỉ mỉm cười nói, “Cuộc sống là cuộc sống. Miễn là tôi còn có thể nghe nhạc và miễn là tôi vẫn có thể thưởng thức món sò và sâm panh...”
“Vậy ông không bị đau ốm sao?”
“Tôi có vấn đề về xương cốt, phải. Nó cứ khiến tôi thi thoảng lại trằn trọc suốt đêm. Và tôi không còn miễn nhiễm hoàn toàn với cảm lạnh và sốt nữa. Cậu sẽ nhận ra điều này khi cậu già đi. Tất cả những lợi thế về thể chất của hải âu bắt đầu mất dần. Cậu nhiễm bệnh. Cậu trở nên giống người hơn. Tấm khiên sinh học rơi xuống. Nhưng với tôi có đau cũng chẳng hề gì. Cái giá rẻ bèo phải trả cho việc được sống .
“Cuộc sống là đặc ân hàng đầu, vì thế tôi thuộc tốp những người được ưu ái nhất hành tinh. Cậu cũng nên biết ơn đi. Cậu sẽ còn sống sang tận thiên niên kỷ sau. Sau cả tôi. Sau cả Agnes. Cậu là một vị thánh Tom ạ. Một vị thánh sống. Chúng ta là những vị thánh còn bọn họ là phù du. Cậu cần học cách tận hưởng sự tồn tại thần thánh của mình.”
Một người đàn ông trông yếu ớt với biểu cảm nghiêm trang và mái tóc đã rụng nhiều đi ra giữa sân khấu. Ông đứng trước đám đông và thấp thoáng mỉm cười. Toàn bộ khán phòng bùng nổ tiếng vỗ tay. Ông đứng đó, lặng lẽ, chỉ chăm chú nhìn chúng tôi một hồi. Và rồi ông - Tchaikovsky - quay về phía chiếc bục nhỏ trên sân khấu, cầm cây gậy chỉ huy và giơ nó lên không. Ông ngừng lại trong khoảnh khắc. Như thể ta đang chứng kiến một phù thủy già với cây đũa phép, triệu hồi năng lượng cần thiết để yểm bùa.
Khán phòng rơi vào im lặng. Tôi chưa từng nghe một sự im lặng nào như thế. Cả khán phòng dường như nín thở. Một cảm giác thật văn minh và hiện đại. Một cảm giác vừa đẳng cấp vừa giày vò, như một kiểu tiền cực khoái tập thể tao nhã vậy.
Thời gian chậm lại, bên trong khoảnh khắc đó.
Rồi âm nhạc nổi lên.
Đã nhiều năm rồi tôi không nghe nhạc. Vì thế tôi ngồi yên trên ghế, chẳng trông mong gì, như xưa nay vẫn vậy.
Sau một tràng kèn trumpet, trong một lúc chỉ còn lại tiếng violin và cello, tạo nên thứ thanh âm mà ban đầu nhỏ nhẹ dìu dặt, và rồi vút cao thành một cơn bão giao hưởng.
Và, phải, thoạt tiên nó chẳng gây tác động gì. Nhưng rồi, bằng cách nào đó, nó ngấm dần.
Không. Không phải ngấm vào trong. Đó là cách diễn đạt sai lầm. Âm nhạc không ngấm vào trong. Âm nhạc đã ở sẵn bên trong rồi. Âm nhạc chỉ khai mở những gì sẵn có, khiến ta cảm nhận được những xúc cảm mà ta không hẳn biết là đang nằm bên trong ta, và lan tỏa đánh thức tất cả. Một kiểu tái sinh.
Nó mang lại một cảm giác vừa khao khát vừa tràn trề năng lượng. Tôi nhắm mắt lại. Tôi không thể diễn tả ở đây trên trang giấy này cảm xúc của mình. Lý do thực sự mà thứ âm nhạc này tồn tại là bởi nó là thứ ngôn ngữ không thể truyền tải theo bất kỳ cách nào khác. Nhưng tôi chỉ biết nói rằng, thốt nhiên tôi cảm thấy mình lại đang sống.
Khi tiếng kèn trumpet, kèn cor và trống bass dội vào, nó sở hữu thứ quyền năng khiến tim tôi đập nhanh còn tâm trí thì váng vất. Mở mắt ra, tôi thấy Tchaikovsky với cây gậy chỉ huy, tuồng như đang rút lấy tiếng nhạc ra từ hư không, như thể âm nhạc là thứ đã có sẵn trong bầu khí quyển mà ta chỉ việc dò tìm mà thôi.
Rồi, khi hạ màn, nhà soạn nhạc dường như trở về vẻ điềm thản ban đầu. Kể cả khi toàn khán phòng đứng dậy và những tràng pháo tay giòn giã vang lên không ngớt, thêm cả một tiếng hét “Hoan hô!”, ông chỉ mỉm cười thật nhẹ và cúi đầu cũng thật nhẹ.
“Ông ấy vượt xa Brahms cả một ngọn núi, cậu không nghĩ vậy sao?” Hendrich thì thầm với tôi một lúc nào đó.
Tôi không biết. Tôi chỉ biết là thật tốt khi được trở lại bên trong thế giới cảm xúc.
Tôi đã nhận ra, ngay từ lúc ấy, rằng chuyến đi nghe hòa nhạc hoàn toàn là một phần trong ngón nghề tiếp thị. Cách Hendrich thu phục tôi. Ông ta sẽ không chỉ tìm thấy con gái tôi, mà còn mang lại cho tôi một cuộc sống tốt đẹp. Tôi vẫn chưa hiểu mình thực sự được bán cho thứ gì, nhưng đến khi mọi sự ngã ngũ thì tôi đã vào tròng rồi. Thực ra, cái thứ ấy đã được bán cho tôi kể từ lúc ông ta bắt đầu nhắc đến Marion. Nhưng giờ thì tôi đã bắt đầu tin vào màn quảng cáo rùm beng của Hendrich. Rằng Hải âu Hội là cách thức để không chỉ tìm lại con gái tôi, mà còn cả bản thân tôi nữa.
Ngày hôm sau, trong căn hộ của Hendrich, khi chúng tôi đã dùng xong bữa sáng với sâm panh, cuộc nói chuyện diễn ra. Cuộc nói chuyện mà tôi hằng đau đáu.
“Quy tắc đầu tiên là không được sa vào lưới tình,” ông ta nói, lấy ngón tay quệt vụn bánh tổ ong khỏi bàn rồi châm một điếu xì gà. “Còn những quy tắc khác nữa, nhưng đó là cái chính. Không sa vào lưới tình. Không nấn ná yêu đương. Không tơ tưởng đến tình ái. Nếu tuân thủ quy tắc này, cậu sẽ ổn cả thôi.”
Tôi đăm đăm nhìn xuyên qua làn khói uốn lượn từ điếu xì gà của ông ta. “Không chắc rồi tôi có yêu thêm lần nào hay không nữa.”
“Tốt. Cố nhiên cậu được phép ham mê nào đồ ăn, âm nhạc, nào sâm panh lẫn những chiều nắng tháng Mười hiếm hoi. Cậu cứ việc yêu những thác nước và mùi sách cũ, nhưng đem lòng yêu con người thì cấm chỉ. Cậu nghe tôi nói không? Chớ dại mà gắn bó với con người, và nhỡ có gặp ai thì cũng liệu mà nảy sinh càng ít tình cảm càng tốt. Bởi nếu không cậu sẽ dần đánh mất lý trí...” Ông ta ngừng một lát. “Tám năm, đó là quy tắc. Đó là thời gian tối đa một hải âu có thể lưu lại bất kỳ đâu trước khi mọi sự trở nên rầy rà. Đó là Quy tắc Tám năm. Cậu có một cuộc sống tốt đẹp trong tám năm. Sau đó tôi cử cậu đi làm một nhiệm vụ. Rồi cậu lại có một cuộc sống mới. Không có bóng ma.”
Tôi tin ông ta. Sao lại không chứ? Chẳng phải tôi đã đánh mất bản thân sau chuyện của Rose sao? Chẳng phải tôi vẫn, theo một nghĩa nào đó, chờ đợi được tìm thấy bản thân mình à? Một cuộc sống tốt đẹp. Có lẽ điều đó là có thể. Với một cơ cấu. Với thứ gì đó để thuộc về. Với một mục đích.
“Cậu có biết chuyện thần thoại Hy Lạp của mình không Tom?”
“Một chút.”
“Ừm, tôi giống như Daedalus vậy. Cậu biết đấy, người sáng tạo ra mê cung nhốt con quái vật nửa người nửa bò. Tôi đã xây một mê cung để bảo vệ tất cả chúng ta. Cái hội này. Nhưng vấn đề của Daedalus đó là dẫu cho ông là người uyên bác thì không phải lúc nào mọi người cũng nghe lời. Chính con trai ông, Icarus, đã không nghe. Cậu biết câu chuyện đó chứ?”
“Có. Ông ấy và Icarus đã tìm cách trốn thoát khỏi hòn đảo Hy Lạp đó...”
“Crete.”
“Crete. Phải. Nhưng đổi cánh của họ được làm từ sáp ong và lông vũ. Còn cha của chàng ta...”
“Daedalus.”
“Cha của chàng ta dặn chàng ta không được bay quá gần mặt trời hoặc biển, kẻo đôi cánh sẽ bắt lửa hoặc bị ướt nhẹp.”
“Và đương nhiên là cả hai chuyện đó đã xảy ra. Chàng ta bay quá gần mặt trời. Sáp ong tan chảy. Chàng ta rơi tùm xuống biển. Lúc này, cậu đang không ở quá cao. Nhưng cậu đã sống ở tầm quá thấp. Vấn đề là sự cân bằng. Tôi ở đây để giúp cậu đạt được sự cân bằng. Cậu nhìn nhận mình như thế nào, Tom?”
“Không giống Icarus.”
“Thế thì là ai?”
“Đó là một câu hỏi lớn.”
“Đó là câu hỏi quan trọng nhất.”
“Tôi không biết.”
“Cậu là người quan sát cuộc sống, hay là người dấn thân?”
“Cả hai, chắc vậy. Quan sát, dấn thân.”
Ông ta gật đầu. “Cậu có khả năng gì?”
“Gì cơ?”
“Cậu đã ở đâu?”
“Tôi đã phiêu bạt khắp cùng trời cuối đất.”
“Không, ý tôi là, cậu đã ở đâu về mặt đạo đức ? Cậu đã làm những gì? Cậu đã vượt qua bao nhiêu ranh giới?”
“Tại sao ông lại hỏi tôi câu đó?”
“Bởi, trong cơ cấu của bộ quy tắc, cậu cần được tự do.”
Tôi cảm thấy bất an. Lẽ ra tôi nên tin vào cảm giác đó, thay vì chỉ nhấp sâm panh. “Chúng ta cần được tự do để làm gì?”
Ông ta mỉm cười. “Chúng ta sống những cuộc đời dài, Tom à. Chúng ta sống những cuộc đời dài. Những cuộc đời đằng đẵng và đầy rẫy bí mật. Chúng ta làm bất cứ việc gì cần làm.” Nụ cười biến thành tiếng cười vang. Ông ta có một hàm răng đẹp, xét đến việc nó đã tồn tại hàng thế kỷ. “Còn hôm nay, bánh kẹp xúc xích nhé.”