← Quay lại trang sách

London, hiện tại

Chúng ta sống những cuộc đời dài, Tom à...

Có một cái cây ở California, một cây thông nón gai Đại Bồn địa, mà sau khi người ta đếm số vòng gỗ dày đặc thì phát hiện nó có tuổi đời 5.065 năm.

Ngay cả với tôi, cây thông đó cũng có về già cỗi. Những năm gần đây, hễ khi nào tuyệt vọng về tình trạng của mình và cần cảm thấy mình có cuộc đời hữu hạn và bình thường hơn một chút, tôi lại nghĩ đến cái cây ở California đó. Nó đã sống từ thời các Pharaoh. Nó đã sống từ khi lập thành Troy. Từ buổi đầu Thời đại đồ đồng. Từ khi yoga ra đời. Từ thời voi ma mút.

Và nó vẫn ở đó, điềm tĩnh trong chốn riêng của mình, dần trưởng thành, trổ lá, rụng lá, lại trổ thêm lá, khi những con voi ma mút tuyệt chủng, khi Homer viết Odyssey , khi Cleopatra trị vì, khi Chúa Jesus bị đóng đinh vào thập giá, khi Tất-Đạt-Đa Cồ-Đàm rời bỏ cung điện để xót thương cho những đau khổ trần ai, khi Đế chế La Mã suy tàn và sụp đổ, khi Carthage bị chiếm đóng, khi trâu nước được thuần hóa tại Trung Quốc, khi người Inca dựng xây các thành phố, khi tôi nhoài người qua miệng giếng với Rose, khi Nội chiến Mỹ xảy ra, khi các cuộc thế chiến bùng phát, khi Facebook được phát minh, khi hàng triệu con người và các loài động vật sinh sống, đấu tranh, sinh sôi và chết đi, ngỡ ngàng tại sao mình lại lìa đời nhanh đến vậy, thì cái cây vẫn luôn là cái cây ấy.

Đó là bài học thời gian muôn thuở. Mọi thứ thay đổi và không có gì đổi thay.

Tôi đứng như một cơn đau đầu do đứng thẳng, trước mặt hai mươi tám đứa nhóc mười bốn tuổi, ngả ngốn trên ghế, nghịch bút, lén lút xem điện thoại. Đó là một đám khó trị, nhưng bao năm qua tôi còn đương đầu với những kẻ khó nhằn hơn. Chẳng hạn như, điều này chắc chắn dễ hơn nhiều so với việc diễn tấu trước đám thủy thủ, lũ trộm và những kẻ phiêu bạt say mèm ở quán trọ Minerva tại Plymouth.

Mọi thứ thay đổi và không có gì đổi thay.

“Phía Đông London là một khu vực đa văn hóa bởi nó luôn là một khu vực đa văn hóa,” tôi nói, mở đầu bài học tập trung vào Cuộc Di cư Trước Thế kỷ Hai mươi. “Không một ai từng là người bản địa Anh. Người từ khắp nơi đổ đến đây. Người La Mã, người Celt, người Norman, người Saxon. Nước Anh luôn là nơi được tạo nên từ tứ xứ. Và kể cả hiện tượng chúng ta cho là di cư “hiện đại” cũng diễn ra từ lâu lắm rồi. Hơn ba trăm năm trước, ta có người Ấn Độ đến đây sau khi được tuyển làm việc trên những con tàu do công ty Đông Ấn quản lý. Rồi đến người Đức và Do Thái, Nga và châu Phi. Nhưng sự thực là, dù di cư luôn là một phần của xã hội Anh, thì suốt một thời gian dài, dân di cư với những khác biệt rõ rệt bị đối xử như những sinh vật lạ ngoại lai... Ví dụ như, vào thế kỷ mười tám, một người đàn ông tên Omai đã từ quần đảo Thái Bình Dương tới đây. Ông đã cập bến trong chuyến hải trình thứ hai của thuyền trưởng Cook...” Tôi dừng lại. Tôi nhớ đã ngồi trên boong tàu với anh, Omai, người bạn cũ của tôi, cho anh xem đồng xu của con gái tôi và dạy anh từ tiền . “Và khi Omai đến đây, ông được xem là độc lạ đến mức những nhân vật có danh tiếng thời đó, từ nhà vua trở xuống, đều đi gặp và ăn tối cùng ông...” Tôi nhớ khuôn mặt anh, lấp lóa trong ánh lửa. “Ông thậm chí còn được họa sĩ lừng danh nhất thời đó, Sir Joshua Reynolds, vẽ chân dung. Ông ấy là người nổi tiếng, trong một thời gian ngắn. Omai...”

Omai.

Đã lâu rồi tôi không gọi to tên anh. Từ dạo tôi kể với Hendrich chuyện của anh, hồi năm 1891. Nhưng tôi vẫn thường nghĩ về anh. Về những gì đã xảy ra với anh. Dẫu vậy, bây giờ nghĩ về anh, dường như lại khiến đầu tôi thêm nhức nhối. Mọi thứ hơi quay tròn.

“Ông ấy...”

Cô bé ngồi hàng đầu, Danielle, nhóp nhép nhai kẹo cao su, nhíu mày nhìn tôi. “Thầy có sao không ạ?”

Một chiêu mồi cười. Danielle quay lại. Thích thú tận hưởng trò vui.

Vững vàng vào.

Tôi cố mỉm cười với cả lớp. “Không sao. Thầy không sao... Vùng này của London nói riêng luôn được định nghĩa bởi sự di cư. Chẳng hạn như, đằng kia” - tôi chỉ ra cửa sổ, về hướng Tây - “giai đoạn thế kỷ mười sáu và mười bảy, ta có người Pháp. Họ là những người di cư theo số đông đầu tiên vào thời hiện đại. Không phải tất cả bọn họ đều ở lại London. Nhiều người đã tới Canterbury. Những người khác về nông thôn. Kent...” Tôi dừng lại. Thở. “... Suffolk. Nhưng không ít người đã định cư ở Spitalfields, và một cộng đồng thực sự đã được hình thành. Họ bắt đầu ngành công nghiệp lụa tại đây. Nhiều người trong số họ là thợ dệt lụa. Nhiều người là những cựu quý tộc đột nhiên phải tạo dựng cuộc sống mới cho mình trong những hoàn cảnh rất khác so với đời sống họ từng biết nơi quê nhà.”

Có một cậu bé ngồi ở một trong những chiếc bàn giữa lớp. Anton. Một cậu bé trầm lặng với vẻ mặt ủ ê và nghiêm trọng. Nó giơ tay lên.

“Ừ, Anton?”

“Tại sao họ lại đến đây ạ? Ý em là, nếu cuộc sống của họ ở quê nhà vốn đã tốt đẹp đến vậy rồi?”

“Ừm, họ là người theo đạo Tin Lành. Tín đồ Kháng Cách, họ được gọi như vậy đấy, dẫu họ không tự xưng như thế. Họ theo thuyết pháp của Jean Cauvin - hay John Calvin. Vào thời đó, theo đạo Tin Lành ở Pháp là một việc nguy hiểm, giống như việc là người Công giáo ở Anh vậy. Vì thế nhiều người trong số họ...”

Tôi nhắm mắt lại, cố gắng xua đi ký ức. Cơn đau đầu trở nên không thể chịu nổi.

Chúng nhận thấy điểm yếu của tôi. Tôi lại nghe thấy tiếng cười rộ lên.

“Vì thế nhiều người trong số họ phải... phải chạy trốn.”

Tôi mở mắt ra. Anton không cười. Nó khẽ mỉm cười động viên tôi. Nhưng tôi khá chắc là nó, như những đứa còn lại trong lớp, đang nghĩ rằng tôi không hoàn toàn tỉnh táo.

Tôi cảm thấy tim mình gõ nhịp jazz điên cuồng khi phòng học bắt đầu nghiêng ngả.

“Cho thầy một phút thôi,” tôi nói.

“Thầy ơi?” Anton có vẻ lo lắng.

“Thầy không sao. Thầy không sao. Thầy chỉ... thầy sẽ quay lại ngay thôi.”

Tôi bước ra khỏi lớp, men theo hành lang. Đi qua một lớp học. Một lớp khác. Tôi thấy Camille qua cửa sổ. Cô đang đứng trước một tấm bảng trắng chi chít những hướng dẫn chia động từ.

Cô trông thật bình tĩnh và làm chủ lớp học. Cô nhìn thấy tôi và mỉm cười, tôi bèn cười đáp lại, bất chấp cơn hoảng loạn của mình.

Tôi đi vào nhà vệ sinh.

Tôi nhìn chằm chằm vào khuôn mặt mình trong gương.

Tôi biết khuôn mặt mình quá rõ để mà thực sự nhìn nó. Sự quen thuộc có thể biến ta thành kẻ xa lạ với chính mình.

“Tôi là ai? Tôi là ai? Tôi là ai?”

Tôi vã nước vào hai má. Tôi thở chầm chậm.

“Tôi tên là Tom Hazard. Tom Hazard. Tôi tên là Tom Hazard.”

Bản thân cái tên này chứa đựng quá nhiều điều. Nó chứa đựng tất cả những người từng gọi tôi như thế và tất cả những người mà tôi từng giấu tên. Nó chứa đựng mẹ tôi và Rose và Hendrich và Marion. Nhưng nó không phải là cái mỏ neo. Bởi một cái mỏ neo thì cố định ta vào một chỗ. Còn tôi thì vẫn lênh đênh. Liệu tôi có thể cứ thế trôi nổi lãng du trên biển đời mà mãi mãi mang theo cảm giác này không? Một con thuyền kiểu gì cũng đến lúc phải dừng lại. Nó phải cập một bến cảng, bến tàu, một điểm đến nào đó, đã biết trước hoặc vô định. Nó phải tới đâu đó , và dừng chân tại nơi ấy, nếu không thì mục đích của con thuyền là gì đây? Tôi đã làm quá nhiều người khác nhau, đóng quá nhiều vai khác nhau trong đời. Tôi không phải một người. Tôi là một đám đông trong một thân thể.

Tôi là kẻ tôi oán ghét và người tôi ngưỡng mộ. Tôi sôi nổi, buồn tẻ, hạnh phúc lẫn muộn phiền triền miên. Tôi ở cả phía đúng đắn lẫn phía sai lầm của lịch sử.

Tôi, tóm lại, đã đánh mất bản thân.

“Ổn rồi,” tôi nói với hình phản chiếu của mình. Tôi nghĩ về Omai. Giá như tôi biết anh ở đâu. Giá như tôi đã không cứ thế để anh đi mà không cố gắng giữ liên lạc. Thật cô đơn, thế gian này ấy, khi không có nổi một người bạn.

Thở chậm giúp nhịp tim tôi điều hòa lại. Tôi lau khô mặt bằng khăn giấy.

Tôi bước ra khỏi nhà vệ sinh, trở lại hành lang và cố gắng nhìn về phía trước, không ngó vào lớp của Camile trên đường về lớp mình. Hành xử như một thầy giáo bình thường không có vấn đề gì hết chỉ có, xem nào, bốn mươi năm ký ức trong mình.

Tôi trở vào phòng học.

“Xin lỗi các em,” tôi nói, cố nặn một nụ cười. Cố tỏ ra bình thản. Cố nói gì đó vui vui. “Hồi trẻ thầy chơi đồ nhiều quá. Thỉnh thoảng lại hồi tưởng ấy mà.”

Chúng cười rộ lên.

“Thế nên đừng chơi đồ đấy nhé. Kẻo lại đau đầu với cả sau này phải đi dạy sử đấy. Thôi, được rồi, tiếp tục bài học nào...”

Ngày hôm đó, tôi lại gặp Camille lần nữa. Giờ nghỉ buổi chiều. Chúng tôi ở trong phòng giáo vụ. Cô đang nói chuyện với một giáo viên ngôn ngữ khác, Joachim, người Áo, dạy tiếng Đức, với cái mũi khi thở cứ phát ra âm thanh rin rít. Cô ngừng cuộc nói chuyện và lại gần khi tôi ngồi một mình uống trà.

“Chào Tom.”

“Chào,” tôi đáp. Một từ sẵn có nhạt nhòa nhất đi kèm với một nụ cười sẵn có cũng nhạt nhòa nhất.

“Vừa nãy anh không sao chứ? Trông anh hơi...” Cô tìm từ. “Căng thẳng.”

“Tôi chỉ bị đau đầu thôi. Tôi hay bị đau đầu lắm.”

“Tôi cũng thế.”

Mắt cô nheo lại. Tôi lo cô đang cố nhớ xem đã gặp tôi ở đâu. Đó có thể là lý do tôi nói, “Tôi vẫn đang... đau đầu. Nên tôi mới ngồi một mình.”

Cô có vẻ hơi bị phật ý và sượng sùng. Cô gật đầu. “À vâng. Ừm, mong anh đỡ hơn. Có ibuprofen trong tủ sơ cứu đấy.”

Nếu biết sự thật về tôi thì cô sẽ gặp nguy hiểm đến tính mạng đấy.

“Tôi sẽ ổn thôi, cảm ơn cô.”

Tôi thôi nhìn cô và đợi cô bỏ đi. Cô làm vậy thật. Tôi cảm nhận được cơn giận của cô. Tôi cũng thấy áy náy nữa. Thực ra, không, không phải mỗi thế. Có gì đó khác. Kiểu như nỗi nhớ nhà, một niềm khao khát - một cảm giác - mà đã lâu tôi không biết đến. Khi cô bỏ đi và ngồi xuống đầu kia phòng giáo vụ, cô không mỉm cười, cũng chẳng nhìn tôi, và tôi cảm thấy một thứ gì đó đã kết thúc trước cả khi nó có cơ hội bắt đầu.

Buổi tối hôm đó, tôi dẫn Abraham từ công viên về qua đường Fairfield. Tôi không hay đi đường này. Tôi đã cố tránh nó từ khi quay trở về London.

Nguyên nhân tôi tránh nó là bởi đó là nơi tôi lần đầu gặp Rose. Việc tôi liều tới phố Chapel và phố Well đã quá đau đớn rồi. Nhưng tôi cần vượt qua chuyện của nàng. Tôi cần vượt qua tất thảy. Tôi cần một sự “khép lại” như cách người ta nói ngày nay. Dẫu cho ta chẳng tài nào khép lại quá khứ. Điều tốt nhất ta có thể làm là chấp nhận nó. Và đó là cái đích tôi muốn phấn đấu.

Tôi đang ở đường Fairfield, bên ngoài trạm xe buýt sáng đèn mà thảm đạm, tròng tay vào túi ni lông để nhặt phân của Abraham, rồi vứt vào thùng rác. Có khi vẽ được biểu đồ lịch sử của London bằng đường đồ thị giảm dần đều đặn và ổn định của những cục phân chình ình trên đường phố công cộng cũng nên.

“Mày biết không, Abraham, mày không nên làm thế trên đường. Đó là lý do chúng ta đi công viên. Mày biết mà, cái nơi xanh xanh có cỏ ấy?”

Abraham giả ngơ khi chúng tôi tiếp tục bước.

Tôi nhìn quanh. Cố tìm ra nơi tôi lần đầu gặp nàng. Điều này thật sự bất khả. Không nhận ra được gì cả. Cũng như phố Chapel và đường Well, không một tòa nhà hiện giờ nào có mặt từ hồi đó. Tôi thấy, qua một cửa sổ, một hàng người đang chạy trên máy chạy bộ. Tất cả đều nhìn chằm chằm lên thứ mà tôi cho là một dàn màn hình ti vi phía trên đầu họ. Một số đeo tai nghe. Một người đang kiểm tra iPhone trong lúc chạy.

Địa điểm không còn quan trọng với con người nữa. Địa điểm không phải là trọng tâm. Ngày nay người ta chỉ hiện diện nửa vời ở những nơi họ đang ở. Lúc nào họ cũng thập thò ngấp nghé ở cái thế giới số cao siêu ở tận đẩu tận đâu.

Tôi cố tìm ra nơi từng là quầy thịt ngỗng và nơi nàng từng đứng cầm giỏ hoa quả.

Và rồi tôi thấy nó.

Tôi đứng ngây ra trong một thoáng, không màng đến xung quanh, trong khi Abraham giật giật sợi dây lúc xe cộ vù vù phóng qua. Cơn đau đầu tăng thêm một bậc và tôi cảm thấy chóng mặt đến mức phải dựa vào bức tường gạch.

“Chỉ một phút thôi, nhóc,” tôi nói với Abraham. “Chỉ một phút thôi.”

Và những ký ức ùa ra như nước tràn đập. Đầu tôi nhói đau còn dữ dội hơn so với lúc tôi ở trong lớp ban sớm, và trong giây lát, trong lúc tạm lắng giữa những hồi còi xe, tôi cảm thấy quá khứ sống động của con đường, tàn dư của cơn đau lơ lửng trong không khí, và tôi thấy gân cốt rã rời như hồi năm 1599, khi tôi vẫn đang trên đường tiến về phía Tây, sảng loạn và sẵn sàng được cứu rỗi.