PHẦN BA Rose
Tôi cuốc bộ gần như liên tục suốt ba ngày. Chân tôi đỏ tấy, phồng rộp và đau dai dẳng. Mắt tôi khô và nặng trĩu vì những giấc ngủ chớp nhoáng mà tôi cố xoay xở bên vệ đường rừng và trên dải cỏ ven đường quốc lộ. Dẫu vậy, thực ra, tôi hầu như không chợp mắt chút nào. Lưng tôi ê ẩm do vác cây đàn luýt. Tôi đói ngấu, suốt ba ngày qua chưa có gì bỏ bụng ngoài quả mọng, nấm và một mẩu đuôi bánh mì mà một địa chủ cưỡi ngựa qua động lòng thương ném cho.
Nhưng tất cả những chuyện này đều không sao hết.
Thật vậy, tất cả những chuyện này là một sự phân tán dễ chịu khỏi sự dữ dội trong tâm trí tôi. Sự dữ dội dường như trào ra khỏi tôi, ngấm vào cỏ cây, mọi con lạch, dòng suối. Mỗi lần nhắm mắt lại, tôi lại nghĩ đến mẹ trong ngày cuối đời ấy, lơ lửng trên cao giữa không trung, tóc bay theo gió về phía tôi. Và tiếng hét của bà vẫn vang vọng trong tai tôi.
Ba ngày nay tôi đã hóa thành bóng ma của chính mình. Tôi đã trở về Edwardstone với tư cách một con người tự do, nhưng tôi không thể ở lại đó nữa. Bọn chúng là những kẻ giết người. Từng người một trong số chúng. Tôi trở lại căn nhà nhỏ lấy cây đàn luýt của mẹ, tìm ít tiền nhưng chẳng còn đồng nào. Rồi tôi bỏ đi. Tôi cứ thế chạy. Tôi không thể ở lại Edwardstone. Tôi không bao giờ muốn gặp lại những kẻ như Bess Small hay Walter Earnshaw, cũng như chẳng bao giờ muốn đi qua nhà Gifford nữa. Tôi muốn chạy trốn khỏi cảm giác kinh hãi và mất mát trong lòng, khỏi nỗi cô đơn vô hạn, nhưng dĩ nhiên chẳng thể nào chạy thoát khỏi nó.
Nhưng giờ tôi đã gần tới London. Một người đàn ông nói ngọng ở làng Hackney đã mách tôi rằng nếu tôi định tới London thì ắt sẽ đi qua Hội chợ Ngỗng Tơ, trên đường Fairfield ở Bow, và ở đó sẽ có đồ ăn, cùng “đủ trò cuồng điên”. Và tôi ở đây rồi. Đường Fairfield. Còn đây là khởi đầu của cơn điên: một con bò, án ngữ giữa đường, nhìn tôi chòng chọc. Như thể cố truyền đạt điều gì đó rất dễ lạc mất trong cái vực thẳm chắn giữa con người và con vật.
Khi tôi tiếp tục bước đi, xa khỏi con bò, những ngôi nhà xuất hiện hai bên đường. Và không như những làng xóm khác, những ngôi nhà ở đây cứ trải dài tít tắp, theo một đường thẳng, ở hai bên đường. Hầu như không có khoảng trống nào giữa chúng. Tôi nhận ra, London đây rồi. Và tôi thấy hết đám đông này đến đám đông khác phía trước mình, đặc kín con phố.
Tôi nhớ mẹ tôi xiết bao căm ghét những đám đông và cảm thấy nỗi sợ của mẹ trong mình, như một cảm xúc ma.
Và rồi, khi tới gần hơn, tôi để ý thấy âm thanh huyên náo. Tiếng những người bán hàng hò hét, ầm ĩ tranh khách. Tiếng cười lè nhè của những tay nghiện rượu. Tiếng ủn ỉn, ụm bò, quang quác của đủ loại động vật.
Tiếng sáo. Tiếng hát. Nhốn nháo.
Tôi chưa bao giờ chứng kiến bất cứ khung cảnh gì như thế này. Một bãi hỗn loạn. Cảnh tượng này càng thêm phần nhộn nhạo do cơn sảng loạn của tôi.
Có quá nhiều người. Quá nhiều người lạ. Tiếng người cười cười nói nói như ong vỡ tổ.
Một bà lão má đỏ bừng thở phì phò như ngựa kéo xe khi bà quẩy hai cái sọt chất đầy cá và sò lủng lẳng trên quang gánh gỗ.
Hai thằng bé đánh nhau gần một bãi quây tạm để nhốt lợn.
Một quầy bánh nướng.
Một sạp bánh mì.
Củ cải.
Đồ ren.
Một cô bé, không quá mười tuổi, xách một giỏ đầy ắp anh đào.
Những quầy ngỗng quay ở hai bên đường.
Một mớ rau diếp nằm trong vũng nước.
Một người đàn ông vẻ thích thú đi qua tôi và trỏ một kẻ say khướt đang loay hoay đứng dậy. “Xem anh ta kìa, nhóc, trời còn sáng bảnh mà đã xỉn quắc cần câu rồi.”
Những chú thỏ.
Hai con ngỗng sống, kêu quàng quạc và dang rộng cánh đấu nhau.
Thêm lợn. Thêm bò. Thêm những kẻ say. Nhiều kẻ say hơn.
Một người phụ nữ mù váy áo là lượt được một cô bé mồ côi lôi thôi lếch thếch dẫn đi.
Những người ăn mày què quặt.
Một ả đàn bà, đến gần một người lạ bất kỳ, tóm lấy vật giữa hai chân gã và thì thầm lời gạ gẫm sặc hơi men.
Tiếng om sòm quanh những quầy bia.
Một người khổng lồ “từ Vùng Đất Thấp” - một người đàn ông lớn tiếng rao bán những món hàng mới lạ - và một người lùn “từ Xứ Tây”, đứng bên nhau, khuếch đại hiệu ứng kiếm tiền.
Một người đàn ông đương nuốt một thanh kiếm.
Một người kéo vĩ cầm. Một người thổi kèn túi. Một người thổi sáo, nhìn tôi vẻ ngờ vực, với những ngón tay điệu nghệ chơi bản “Three Ravens”.
Và mùi: thịt quay, bia, phô mai, oải hương, phân tươi.
Cơn chóng mặt trở lại, nhưng tôi vẫn lảo đảo dấn bước.
Cơn đói của tôi, trước mùi của ê hề đồ ăn, giờ thực sự biến thành một dạng cơn đau. Tôi đi về phía một quầy thịt ngỗng. Tôi đứng đó, hít hà mùi thịt quay.
“Ngỗng bao nhiêu thế?”
“Ba silinh, anh giai.”
Tôi không có ba silinh. Sự thực là: tôi không có một cắc nào cả.
Tôi loạng choạng lùi lại. Giẫm phải chân một người đàn ông.
“Để ý vào chứ nhóc!”
Nhóc, nhóc, nhóc.
“Vâng, tôi là một thằng nhóc,” tôi lầm bầm, mặc dù vào thời ấy mười tám tuổi rõ ràng đáng xếp vào dạng trung niên rồi.
Và chính lúc đó, mọi thứ bắt đầu quay cuồng.
Nhìn chung tôi vốn khá khỏe mạnh. Một trong nhiều đặc tính sinh học của tôi đó là chưa bao giờ bị ốm ra trò. Tôi chưa bao giờ bị cảm lạnh, hay cảm cúm. Cả đời tôi chưa từng nôn mửa. Tôi thậm chí còn chưa bao giờ bị tiêu chảy, một điều hiếm hoi - hiếm đến đáng ngờ, đến không thể tin nổi - mà người ta có thể nói vào năm 1599. Ấy vậy mà khi đó tôi lại cảm thấy sức cùng lực kiệt. Ban nãy trời vừa mưa, nhưng giờ mặt trời đã ló dạng và bầu trời khoác áo xanh thăm thẳm. Cùng một màu xanh thờ ơ như trên sông Lark. Cái nóng khiến cho hết thảy, vốn đã đủ căng thẳng, càng căng ra như dây đàn.
“Mẹ,” tôi lẩm bẩm, sảng loạn. “Mẹ.” Tôi cảm thấy mình chết mất. Và, trong khoảnh khắc ấy, tôi hoàn toàn chấp nhận điều đó.
Nhưng rồi tôi trông thấy nàng.
Nàng đang đứng cầm một giỏ hoa quả, nhíu mày nhìn tôi. Nàng trạc tuổi tôi, nhưng bề ngoài nom đúng tuổi. Nàng có mái tóc dài sậm màu và đôi mắt lấp lánh như những viên sỏi dưới suối.
Tôi bước về phía nàng, kinh ngạc nhìn chăm chăm vào những quả mận và mận tía trong giỏ.
Tôi có một cảm giác kỳ lạ, cứ như tôi đang không ở trong cơ thể của chính mình.
“Cho tôi một quả mận được không?” tôi hỏi nàng.
Nàng xòe ngửa lòng bàn tay ra. Tôi nhớ đến bàn tay của Manning và những ngón tay duỗi ra đã khiến mẹ tôi cứ thế chìm dưới nước.
“Tôi không... tôi... tôi... cái... tôi...”
Tôi thấy con bò lạc mình gặp lúc trước lững thững trong đám đông. Tôi nhắm mắt lại và thấy mẹ từ trên trời rơi xuống, nặng trịch như gỗ. Tôi mở mắt ra thì thấy người bán hoa quả đang chau mày nhìn mình, vẻ bực bội hoặc bối rối hoặc cả hai.
Tôi hơi liêu xiêu, còn đường phố thì xoay mòng mòng.
“Vững vàng vào,” người bán hoa quả nói.
Đó là lời đầu tiên nàng nói với tôi.
Vững vàng vào.
Nhưng tôi không vững vàng nổi.
Tôi có thể hiểu tại sao mẹ tôi lại cần dựa vào tường sau khi cha mất. Nỗi đau khiến ta chao đảo.
Mọi thứ chợt sáng rỡ rồi lại tối sầm.
Nhoáng cái - một khắc, hoặc năm phút sau đó - tôi đã nằm sấp, nửa khuôn mặt úp trong vũng bùn, xung quanh vương vãi mận và mận tía. Hầu hết chúng cũng nằm trong bùn. Mấy quả bị nghiền nát dưới chân người qua đường. Một quả bị chó gặm.
Tôi lờ đờ đứng dậy.
Một đám con trai cười cợt và châm chọc tôi.
Cô gái lồm cồm bò xung quanh hòng cứu vãn bất cứ quả mận nào có thể.
“Tôi xin lỗi,” tôi nói.
Tôi nhặt một quả mận dính bùn lên, toan bỏ đi.
“Này! Này! Này! Cậu kia!” Nàng túm lấy vai tôi. Mũi nàng phập phồng tức tối. “Nhìn xem cậu đã làm gì thế này!”
Tôi nghĩ mình sẽ lại ngất mất, bèn quyết định cứ thế mà đi, để không phá hoại thêm gì nữa.
“Đứng lại! Cậu không thể đi như thế được!”
Tôi cắn quả mận lấm bùn. Nàng giật nó khỏi tay tôi, nhanh như cắt, vứt xuống đất.
“Cái giỏ này là tiền tôi phải kiếm cả một tuần đấy. Tuần nào đắt hàng ấy nhé. Giờ tôi phải trả ông Sharpe tiền số trái cây mà tôi còn chẳng bao giờ bán được đây này.”
“Ông Sharpe ư?”
“Nên giờ cậu trả tiền cho tôi đi.”
“Tôi không có tiền.”
Mặt nàng đỏ bừng vì bẽ bàng và tức giận. Nàng có vẻ bối rối trước tình trạng tài chính của tôi. Có lẽ là bởi, bất chấp những vết bẩn trên quần áo tôi và khi đem tôi so với phần lớn đám đông xung quanh, trông tôi ăn vận khá tươm tất. Mẹ đã luôn đảm bảo rằng, dẫu cho hoàn cảnh của chúng tôi đã thay đổi chóng mặt kể từ khi chuyển tới Anh, thì chúng tôi vẫn phải trông cao sang quyền quý hết sức có thể. Điều này, mà sau này tôi mới nhận ra, là một trong nhiều nguyên do khiến chúng tôi phải chật vật để hòa đồng với những dân làng Edwardstone rách rưới. Không phải nguyên do chính, hiển nhiên rồi.
“Kia,” nàng nói, chỉ vào cây đàn luýt trên lưng tôi.
“Gì cơ?”
“Đưa nó cho tôi. Cậu có thể lấy nó ra gán nợ.”
“Không.”
Nàng nhặt một cục đá lên. “Được, thế thì tôi sẽ đập vỡ nó, như cách cậu phá cái giỏ của tôi.”
Tôi giơ hai tay lên. “Không được! Không.” Chắc hẳn nàng đã nhận thấy vẻ gì đó trên khuôn mặt tôi và nghĩ lại. “Cậu không có gì để ăn thế mà lại lo cho một cây đàn luýt.”
“Nó là của mẹ tôi.”
Mặt nàng dịu đi, từ tức giận lại trở về vẻ bối rối. “Thế mẹ cậu đâu?”
“Mẹ tôi mất ba ngày trước rồi.”
Nàng khoanh tay lại. Phải. Trông nàng trạc mười tám, mười chín tuổi. Tôi có thể tả lại cho bạn là nàng mặc một chiếc váy trắng mộc mạc, một chiếc “đầm dài” như người ta từng gọi, và đeo khăn quàng cổ màu đỏ giản dị, thắt chéo góc, với nút thắt nằm phía bên trái cổ. Tôi có thể tả lại cho bạn là da nàng sạch bong - của hiếm giữa đám đông này - và nàng có hai nốt ruồi bên má phải, một nốt nhỏ hơn nốt kia, như một mặt trăng trong quỹ đạo của một hành tinh, cùng một chòm sao nhỏ là những đốm tàn nhang trên mũi. Mái tóc sậm màu của nàng nửa nằm trong chiếc mũ vải nhỏ màu trắng, nửa buông xõa.
Nàng có kiểu diện mạo mà phần lớn thời gian đều nhăn mặt nhíu mày, nhưng cũng ánh lên vẻ láu lỉnh nơi khóe môi, như thể một nụ cười luôn chực hé nở nhưng lại bị ghìm chặt bởi một thế lực phản đối nào đó bên trong tâm trí nàng. Tôi có thể tả lại cho bạn là vóc người nàng cũng dong dỏng nữa. Hơn tôi một phần tư cái đầu vào thời điểm ấy, dẫu thấp hơn tôi khi tôi trở thành, về mặt thể chất, một “người trưởng thành”.
“Mất rồi ư?”
“Vâng.”
Nàng gật đầu. Cái chết chẳng có gì lạ cả. “Vậy giờ cậu sống với ai?”
“Tôi sống một mình.”
“Thế cậu sống ở đâu?”
“Chẳng đâu cả.”
“Cậu không có nhà à?”
Tôi lắc đầu và cảm thấy nỗi tủi nhục trào lên.
“Cậu có biết chơi không?” Nàng chỉ vào cây đàn luýt trên lưng tôi.
“Có.”
“Thế thì,” nàng nói vẻ kiên quyết, “cậu đến sống với chúng tôi đi.”
“Tôi không làm thế được.”
Một cô bé đến đứng bên nàng, xách chiếc giỏ giống hệt chỉ có điều là không rách nát. Đó là người bán anh đào mà tôi thấy ven đường lúc trước. Cô bé khoảng mười, mười một tuổi. Hẳn là chị em. Cùng mái tóc sậm màu và ánh nhìn quyết liệt. Một tên say tìm cách chộp một quả anh đào, nhưng với phản xạ nhanh nhẹn, cô bé đã giơ cái giỏ ra xa khỏi gã, đôi mắt long lên giận dữ.
“Đây không phải từ thiện,” cô chị nói. “Cậu sẽ đến sống với chúng tôi cho đến khi trả hết nợ. Cho chỗ trái cây và cái giỏ. Cậu cũng có thể trả cả tiền ở trọ nữa.”
Cô em nhìn xoáy vào tôi như mũi tên.
“Đây là Grace,” cô chị giải thích. “Còn tôi là Rose Claybrook.”
“Chào Grace.”
“Anh ta ăn nói cứ dị dị thế nào ấy, mùi thì như đít ngựa vậy,” Grace nói, không có vẻ gì là thương cảm. Rồi, quay sang tôi, “Anh từ đâu rơi xuống thế?”
“Suffolk,” tôi khào khào. Suýt chút nữa đã đế thêm: và Pháp. Nhưng tôi cảm thấy không nhất thiết phải vậy. Suffolk đã đủ xa lạ rồi.
Tôi lại thấy chóng mặt.
Rose tiến lại dìu tôi.
“Suffolk? Cậu cuốc bộ từ Suffolk đến á? Chúng tôi sẽ đưa cậu về nhà. Grace, giúp chị đỡ cậu ấy. Cho cậu ấy vài quả anh đào nữa. Trong bộ dạng này thì sẽ đi lâu đấy.”
“Cảm ơn,” tôi thều thào, nhẹ như không khí, tập trung hết sức vào việc đặt chân này trước chân kia, như thể tập đi trở lại. “Cảm ơn.”
Và đó là cách cuộc đời thứ hai của tôi bắt đầu.