Hackney, gần London, 1599
Họ không sống ở Bow. Họ sống xa hơn, trong một ngôi nhà nhỏ hẹp trên đường Well, ở làng Hackney. Thời ấy Hackney có rất nhiều cánh đồng dâu và vườn quả. So với phần lớn khu vực trong và lân cận London, Hackney có mùi khá dễ chịu, và không khí thì trong lành, dù nó rất khác với miền quê tôi từng biết đến ở Suffolk. Ví dụ như ở đó có một rạp hát. Nó đã bị dỡ bỏ vài tháng trước khi tôi đến, nhưng Rose kể với tôi rằng nó là một nơi tuyệt vời và rằng chính Richard Burbage đã biểu diễn ở đó cùng con gấu Chúa tể Nâu.
Tôi không biết có phải vì có một rạp hát mà Hackney có vẻ cởi mở hơn Edwardstone hay không. Không có nỗi sợ hãi rõ rệt nào với người ngoài. Ừm, ngoại trừ một bà cụ được gọi là Già Adams cứ nhổ nước bọt vào những người bà ta gặp trên đường và thường hét đổng vào mặt họ “Tiên sư cha” hoặc “Cục phân chết tiệt biết đi nhà mày”, nhưng mọi người chỉ cười xòa cho qua. Nó không thực sự khiến ta cảm thấy đây là nỗi sợ người ngoài mà đúng hơn là nỗi căm ghét con người nói chung, ít nhất cũng là thái độ không phân biệt đối xử.
“Một lần bà ấy nhổ nước bọt vào chỗ táo của tôi, thế là Grace lao bổ vào bà ấy như một con mèo hoang vậy,” Rose kể lại, khi lần đầu tiên tôi bị chửi là cục phân chết tiệt, trong chuyến đi đầu tiên của tôi đến nhà họ.
Ngôi nhà được làm bằng gỗ và thạch cao, gần một bức tường đá nhỏ có cái tên tham vọng hết chỗ nói - Bức tường Đá Vĩ đại - và cách một tầm ném sỏi là một vùng nước khiêm tốn được gọi là Hồ Lớn Cho Ngựa. Lũ ngựa được nói đến chủ yếu thuộc một chuồng ngựa mang tên - tôi không đùa bạn đâu - Chuồng Ngựa Vĩ đại.
Còn một cái kho khác đằng sau - tên là, chao ôi, Kho Yến Mạch - và xa xa là vườn quả, cây cối mọc san sát nhau kéo dài hàng mẫu đất. Xa hơn là một miệng giếng bằng đá, rúc giữa lùm cây sồi. Dưới lăng kính của thế kỷ hai mốt, tất thảy trông khá quê mùa, nhưng đối với tôi, khi ấy, những phần đất được phân chia với tường bao và đám cây san sát nhau trong vườn quả lại khiến nơi đây mang một nét thật hiện đại.
Rose và Grace đã giao kèo với một nông dân trồng cây ăn quả trong vùng, theo đó họ sẽ hái và bán quả theo mùa - mận, mận tía và anh đào, còn cả táo, mận lục và lý gai nữa - và chia phần lớn số tiền họ kiếm được cho ông nông dân, ông Sharpe, “một người vắt cổ chày ra nước”, kẻ đã có công trồng cây.
Ngôi nhà có nhiều cửa sổ hơn bất cứ ngôi nhà nào tôi từng thấy trong một thời gian dài. Không là gì so với nhà cửa ở Pháp, nhưng là một nơi tạm trú tiện nghi hơn ngôi nhà ở Edwardstone.
“Thế,” Rose hỏi tôi. Ở nàng toát lên vẻ thẳng thắn. Một vẻ trưởng thành, đứng đắn. “Cậu tên gì?”
“Tom,” tôi đáp. Đó là sự thật. Nhưng rồi tôi lại lo ngại sự thật về bản thân, và rằng nó nguy hiểm chừng nào. Vì thế tôi nói dối về họ của mình, lần đầu tiên trong nhiều lần về sau: “Tom Smith .”
“Thế cậu bao nhiêu tuổi rồi, Tom Smith?”
Chỗ này tôi phải cẩn thận. Sự thật - mười tám tuổi - có lẽ không ai tin. Và nếu có tin thì cũng thật nguy hiểm khi cho nàng biết điều đó. Tuy nhiên tôi không thể cứ thế cho nàng biết số tuổi mà khả năng cao là nàng đang nghĩ tới, mười ba hoặc mười bốn.
“Cô bao nhiêu tuổi?”
Nàng cười tôi. “Tôi hỏi cậu trước mà.”
“Tôi mười sáu tuổi.”
Nàng không mảy may bất ngờ khi nghe thấy điều đó. Tôi trộm nghĩ mình thật may mắn bởi khi tình trạng này khởi phát, tôi đã cao lên, cổ dày, vai rộng. “Mắt cậu trông chững chạc hơn thế,” là tất cả những gì nàng nói. Điều này khiến tôi được an ủi lạ kỳ, trong khi tất cả mọi người ở Edwardstone từng tin rằng tôi không hề thay đổi trong những năm đầu niên thiếu.
“Tôi mười tám,” nàng nói. “Còn Grace mười tuổi.”
Thích thật đấy. Cuộc nói chuyện này. Thích thật. Nhưng tôi không muốn tiết lộ thêm. Tôi không thể. Tôi là một bí mật nguy hiểm. Không biết về tôi thì tốt cho họ hơn.
Họ đãi tôi bữa ăn gồm bánh mì, xúp củ cải và anh đào.
Nụ cười của Rose tựa làn hơi ấm. “Lẽ ra cậu nên ở đây hôm qua. Chúng tôi đã ăn bánh nhân thịt chim bồ câu. Grace là bậc thầy bắt chim bồ câu đấy.”
Grace làm điệu bộ bắt một con chim bồ câu và vặn cổ nó.
Một khắc trôi qua. Rồi, không thể tránh khỏi, một câu hỏi khác.
“Tại sao cậu đến đây?” Rose hỏi.
“Cô mời tôi mà.”
“Không phải ở đây . Tại sao cậu lại tới London? Một thân một mình? Cậu chạy trốn khỏi cái gì vậy?”
“Suffolk. Nếu từng ở đó, cô sẽ chẳng buồn thắc mắc đâu. Nơi đó rặt những kẻ mê tín đầu đất đầy lòng thù ghét. Chúng tôi đến từ Pháp, cô biết đấy. Chúng tôi không bao giờ hòa nhập được ở nơi đó cả.”
“Chúng tôi?”
“Ý tôi là, khi mẹ tôi còn sống.”
“Chuyện gì xảy ra với bà ấy vậy?”
Tôi chăm chú nhìn Rose. “Có một số chuyện tôi không muốn nhắc đến.”
Grace để ý đến tay tôi, tay đang cầm muỗng xúp. “Anh ấy đang run kìa.”
“Cậu ấy đang ở ngay bên kia bàn đấy,” Rose nói. “Em đừng nói năng như thể cậu ấy không có mặt ở đây chứ.” Rồi mắt nàng lại hướng vào tôi. “Tôi không có ý làm cậu buồn đâu.”
“Nếu bữa ăn này và một đêm an giấc phải trả giá bằng việc nói về những chuyện đau lòng thì tôi thà ngủ ngoài mương còn hơn.”
Mắt Rose lóe lên giận dữ. “Cậu sẽ thấy Hackney có mấy con mương hay ho lắm đấy.”
Tôi đặt muỗng xuống và đứng lên.
“Ở Suffolk người ta không bao giờ bông đùa à?”
“Tôi đã nói với cô là tôi từ Pháp tới. Mà tôi không có tâm trạng đùa bỡn đâu.”
“Cậu bẳn tính thật đấy nhỉ? Chua như chanh vậy.”
Grace ra vẻ đánh hơi xung quanh như một chú chó. “Anh ấy còn bốc mùi chua nữa.”
Rose tỏ ra nghiêm nghị. “Ngồi xuống đi Tom. Cậu không có nơi nào để đi đâu. Với cả, cậu phải ở lại đây cho đến khi trả hết nợ đã.”
Tôi cảm thấy rối bời. Lòng tôi ngổn ngang. Tôi quá căng thẳng trong lòng, sau ba ngày rũ rượi vì cuốc bộ và đau khổ. Tôi không giận chị em họ, tôi còn biết ơn họ nữa kìa, nhưng lòng biết ơn đã bị nuốt chửng bên trong nỗi đau khi nhắm mắt và nhìn thấy đôi bàn tay của Manning.
“Cậu không phải người duy nhất trên đời này phải chịu bi thương đâu. Đừng ôm khư khư trong lòng như thể chúng báu lắm vậy. Đời còn nhiều thương đau lắm kìa.”
“Tôi xin lỗi,” tôi nói.
Rose gật đầu. “Được rồi. Cậu mệt rồi. Còn nhiều chuyện khác nữa. Cậu sẽ ngủ trong phòng con trai.”
“Phòng con trai ư?”
Nàng giải thích nó được gọi là phòng con trai vì đó từng là chỗ của hai anh em - Nat và Rowland - nhưng cả hai đều không còn nữa. Nat mất vì thương hàn năm mười hai tuổi, còn cậu bé Rowland tội nghiệp không qua khỏi sau một trận ho không rõ căn nguyên trước khi kịp đầy năm. Từ đó lại tiếp tục giải thích cha mẹ họ đã qua đời như thế nào: mẹ họ mất vì “sốt hậu sản” (một chuyện phổ biến thời ấy), một tháng sau khi sinh Rowland, nên thằng bé mới ốm yếu như vậy, còn cha họ mất vì đậu mùa. Hai cô gái dường như bình thản khi nói về chuyện đó. Dù vậy Grace có vẻ thường thức giấc giữa đêm, gặp những cơn ác mộng về bé Rowland.
“Thấy không,” Rose nói, rắc muối lên nỗi ê chề của tôi. “Đời có nhiều nỗi đau lắm.”
Nàng dẫn tôi vào phòng. Có một ô cửa sổ vuông nhỏ kích cỡ bằng một chiếc vô tuyến xách tay thời 1980. (Khi sống trong một khách sạn ở São Paulo năm 1980, tôi rất hay xem ti vi. Nó khiến tôi nhớ đến ô cửa sổ vuông nhỏ ở Hackney.) Căn phòng đơn sơ giản dị nhưng giường có chăn và mặc dù nệm nhồi rơm nhưng tôi mệt bã cả người đến nỗi giường bốn cột của nữ hoàng cũng không thể êm ái bằng.
Tôi đổ vật xuống giường, nàng cởi giày cho tôi và nhìn tôi, ánh nhìn nghiêm khắc như của một người mẹ ban nãy đã tan biến, và nàng ân cần nói, như thể cho tâm hồn tôi nghe vậy, “Mọi chuyện sẽ ổn thôi, Tom à. Nghỉ ngơi đi.”
Nhưng đến khi tôi mở mắt ra thì lúc đó đã là giữa đêm hôm khuya khoắt, và tôi đang ngồi trên giường, bị đánh thức bởi tiếng hét của chính mình, một vầng trăng tròn đầy đang treo bên ngoài cửa sổ, còn toàn thân tôi run như cầy sấy và tôi hầu như không thở nổi. Cảm giác hãi hùng ập đến với tôi từ mọi phía.
Rose lúc này đang ở đó, giữ cánh tay tôi. Grace, đứng sau nàng, ngáp ngủ trên ngưỡng cửa.
“Ổn rồi, Tom à.”
“Không bao giờ đâu,” tôi nói, có phần mê sảng.
“Đừng tin vào những giấc mơ. Nhất là những giấc mơ dữ.”
Tôi không nói với nàng giấc mơ đó là một ký ức. Thay vào đó tôi phải cố gắng phủ nhận cái thực tế về những gì mình biết và mơ một giấc chiêm bao khác, với tư cách Tom Smith. Nàng đưa Grace về giường rồi ở lại bên tôi. Nàng ngả người về phía tôi và đặt lên môi tôi một nụ hôn. Chỉ là một nụ hôn phớt, nhưng hôn phớt trên môi thì lại không thuần túy là hôn phớt.
“Cái này là sao vậy?” tôi hỏi.
Tôi có thể nhìn thấy nụ cười của nàng dưới ánh trăng. Đó không phải nụ cười tán tỉnh. Mà là một nụ cười đơn thuần, tỉnh rụi. “Để cậu có thứ khác mà bận tâm.”
“Tôi không nghĩ mình từng gặp người nào như cô?” tôi nói.
“Vậy thì tốt. Cuộc đời tôi còn gì vui nữa, nếu có một bản sao?”
Một giọt lệ rưng rưng trong mắt nàng.
“Sao thế?”
“Đây là giường Nat từng ngủ. Lạ thật. Khoảng không gian nơi thằng bé từng nằm được lấp đầy trở lại. Vậy đấy. Thằng bé từng ở đó, và giờ thì không còn nữa.”
Tôi nhận thấy nàng đang đau khổ, và trong khoảnh khắc tôi thấy mình thật ích kỷ trong nỗi đau riêng của bản thân. “Tôi ngủ chỗ khác cũng được. Ngủ trên sàn nhà cũng không sao.”
Nàng lắc đầu, mỉm cười. “Không, không.”
Bữa sáng gồm bánh mì lúa mạch đen và một cốc bia nhỏ. Grace cũng uống một chút. Đó là loại đồ uống người ta có thể uống mà biết rằng mình sẽ không chết. Tất nhiên, không giống như nước, cái thứ về cơ bản là trò cò quay Nga [1] .
“Đây là nhà tôi,” Rose giải thích, “hợp đồng cho thuê được chuyển nhượng cho tôi vì cha mẹ tôi đã mất. Vì thế, chừng nào còn sống ở đây, cậu phải theo quy định của tôi. Và quy định đầu tiên là cậu phải trả nợ, rồi sau đó cậu có thể trả chúng tôi hai silinh mỗi tuần chừng nào cậu còn ở đây. Với cả giúp chúng tôi lấy nước nữa.”
Chừng nào cậu còn ở đây.
Quả là một viễn cảnh tươi sáng, có một nơi để nương náu vô thời hạn. Và căn nhà nhỏ này còn là một mái nhà đủ đầy nữa. Khô ráo, sạch sẽ, thông thoáng và có mùi oải hương. Một bó oải hương, giờ tôi mới để ý, ló ra từ một cái bình giản dị. Có một lò sưởi khi tiết trời trở lạnh. Căn nhà này lớn hơn căn ở Edwardstone một chút, các phòng riêng rẽ, nhưng đều được chủ nhân bỏ công chăm chút như nhau để giữ mọi thứ gọn gàng, sạch sẽ, thơm tho hết sức có thể.
Ấy vậy mà, lời mời lưu trú vô thời hạn - nếu không phải đãi bôi - lại khiến tôi thấy buồn.
Tôi có một dự cảm, ngay cả vào lúc đó, rằng từ ấy trở đi sẽ chẳng có gì là lâu bền trong cuộc đời tôi hết.
Bạn thấy đấy, ở thời điểm này, tôi không biết mọi thứ sẽ thay đổi. Tôi chẳng biết gì về tình trạng của mình. Nó không có tên. Mà dẫu có thì tôi cũng chẳng biết. Tôi chỉ giả định vậy thôi. Trông tôi sẽ ở độ tuổi này mãi mãi. Bạn có thể cho rằng như vậy cũng hay đấy chứ nhưng không, không hẳn vậy đâu. Tình trạng của tôi đã đẩy mẹ tôi vào chỗ chết. Tôi biết mình không thể kể cho Rose hay em gái nàng chuyện đó mà không khiến họ bị vạ lây tương tự. Mà hồi đó, mọi thứ thay đổi nhanh lắm, nhất là khi bạn còn trẻ. Những khuôn mặt thay đổi gần như theo mùa.
“Cảm ơn,” tôi đáp lời nàng.
“Có cậu ở đây sẽ tốt cho Grace. Nó nhớ các anh em lắm, cả hai chúng tôi đều vậy. Nhưng nếu cậu giở trò gì - nếu cậu gây bất cứ tai tiếng nào cho chúng tôi - và nếu quỵt nợ” - nàng giữ khoảnh khắc đó như một quả anh đào đang được nuốt dở - “là cậu sẽ bị đá đít khỏi đây đấy.”
“Dưới một con mương à?”
“Đầy phân,” Grace bé bỏng nói, lúc này đã uống cạn bia.
“Xin lỗi Tom. Grace [2] là tên con bé, chứ không phải cách tả nó đâu.”
“Phân là từ hoa mỹ mà,” tôi nói vẻ hòa hảo. “Trúng trọng tâm.”
“Không có quý cô nào trong cái nhà này cả,” Rose nói.
“Còn tôi cũng chẳng phải quý tộc.” Giờ không phải lúc cho họ biết rằng nói trắng ra, tôi, tuy vậy, là một thành viên của giới quý tộc Pháp.
Rose thở dài. Tôi vẫn nhớ những tiếng thở dài của nàng. Đó là những tiếng thở dài hiếm khi buồn bã. Chúng luôn mang hơi hướm mọi chuyện vốn dĩ đã vậy rồi, sau này cũng thế và vậy thì cũng có sao. “Tốt. Chà, hôm nay là một ngày mới.”
Tôi thích hai chị em. Họ là niềm an ủi giữa tiếng thét gào đau khổ trong câm lặng.
Tôi muốn ở lại. Nhưng tôi không muốn họ gặp nguy hiểm. Họ không được phép tò mò về tôi. Đó là vấn đề cốt lõi.
“Mẹ tôi bị ngựa hất ngã,” tôi buột miệng. “Bà ấy qua đời như vậy đấy.”
“Buồn quá,” Grace nói.
“Phải,” Rose tiếp lời. “Buồn thật.”
“Thỉnh thoảng tôi vẫn nằm mơ về chuyện đó.”
Nàng gật đầu. Có lẽ nàng vẫn còn thắc mắc nhưng không nói ra.
“Hôm nay cậu nên nghỉ ngơi đi. Xốc lại tinh thần. Nên là, khi chúng tôi ra vườn quả, cậu cứ ở trong nhà. Còn ngày mai cậu có thể bắt đầu chơi đàn luýt và mang tiền về cho chúng tôi.”
“Không, không, tôi sẽ trả nợ. Tôi sẽ kiếm tiền ngay hôm nay. Cô nói đúng, tôi sẽ ra phố chơi nhạc.”
“Phố nào cũng được à?” Grace hỏi, vẻ thích thú.
“Phố nào đông ấy.”
Rose lắc đầu. “Cậu phải ở London. Phía Nam tường thành.”
Nàng trỏ tay. Nàng chỉ đường cho tôi.
“Một cậu bé chơi đàn luýt! Người ta sẽ cho cậu ối tiền.”
“Cô nghĩ vậy à?”
“Nhìn xem, nắng lên rồi kìa. Sẽ có đông người lắm đây. Rồi cậu sẽ có những điều mới mẻ để mơ về.”
Mặt trời rọi qua cửa sổ, chiếu sáng khuôn mặt nàng và nhuộm màu vàng óng ả lên những lọn tóc nâu, và lần đầu tiên trong bốn ngày qua, tâm hồn tôi - hoặc thứ mà tôi từng cho là tâm hồn - trong một khoảnh khắc mỏng mảnh nhất, cảm nhận được một điều gì đó khác ngoài nỗi giày vò khôn thấu.
Em gái nàng cầm giỏ lên, mở cửa và ngày mới ùa vào, một khoảng nắng hình chữ nhật xiên xiên biến mặt sàn gỗ thành vàng.
“Thế là,” tôi thốt ra, như thể định nói thêm gì đó. Rose bắt gặp ánh mắt tôi, mỉm cười và gật đầu như thể tôi đã nói hết câu vậy.
[1]
Trò chơi mà người tham gia sử dụng một khẩu súng lục ổ quay với một viên đạn duy nhất để bắn vào đầu mình theo lượt. Người còn sống sẽ là người chiến thắng. Cách diễn đạt này ám chỉ sự may rủi.
[2]
Duyên dáng, thanh lịch. (tiếng Anh)