← Quay lại trang sách

London, 1599

Thời ấy, khu Bankside được cấu thành từ nhiều khu tự quản. Khu tự quản là khu vực được chỉ định nằm bên ngoài những bức tường thành, nơi các luật lệ thông thường không được đếm xỉa đến. Thực ra, chẳng luật lệ nào được đếm xỉa đến. Mọi thứ đều được chấp nhận. Hành nghề nào cũng được. Loại hình giải trí nào cũng được cho phép, bất luận ô uế đến chừng nào. Buôn phấn bán hương. Trêu gấu [1] . Biểu diễn đường phố. Rạp hát. Đủ thứ. Ở đây có cả.

Về cơ bản, đó là một khu vực tự do. Và điều đầu tiên tôi khám phá ra về tự do đó là nó có mùi phân. Tất nhiên, so với bây giờ, mọi nơi trong hoặc ngoài London đều bốc mùi phân. Nhưng đặc biệt khu Bankside là mùi phân nồng nặc nhất. Chung quy tại những xưởng thuộc da rải rác khắp chốn. Có năm xưởng thuộc da san sát nhau, băng qua cầu là thấy. Và sau này tôi phát hiện ra, lý do chúng bốc mùi là bởi cánh thợ thuộc da ngâm da trong phân.

Khi tôi tiến về phía trước, thứ mùi này quyện vào những mùi khác. Mùi mỡ và xương động vật từ những người làm keo và xà phòng. Cùng mùi mồ hôi chua lòm từ đám đông. Một thế giới mùi xú uế mới toanh.

Tôi đi qua vườn gấu - được gọi là Vườn Paris, vì cớ gì thì tôi chịu chết - và thấy một con gấu đen khổng lồ bị xích. Nom nó quả là sinh vật buồn thảm nhất tôi từng thấy. Mình mấy thương tích, bẩn thỉu và cam phận, ngồi thu lu dưới đất. Con gấu là một ngôi sao. Sức hút chính để kéo mọi người đến với khu Bankside. Người ta gọi nó là “Sackerson”. Trong nhiều tuần nhiều tháng sắp tới, sẽ không ít lần tôi nhìn thấy hoặc nghe thấy nó giao chiến, mắt đỏ ngầu, vồ ngoạm lũ chó, miệng sùi bọt thịnh nộ, khi đám đông hò reo trong cơn kích động tàn nhẫn sôi sục. Đó là thời điểm duy nhất con gấu trông tràn trề sinh lực, khi nó chống trả cái chết. Tôi thường nghĩ về con gấu đó, về ý chí sống sót vô nghĩa đó, vượt qua bất cứ sự tàn tệ và đớn đau nào mà cuộc đời chọn ném về hướng nó.

Dù sao thì, vào ngày đầu tiên ấy, tôi đã đi theo hướng Rose chỉ nhưng không có cảm giác là đã đến đúng chỗ. Nơi đó đã cách tiếng ồn của dân làm xà phòng đủ xa, dù rằng không cách xa xưởng thuộc da nồng nặc mùi phân như tôi muốn. Quanh đấy cũng có người qua kẻ lại. Có một người đàn bà vận đồ màu lục, với một cái răng đen và khuôn mặt bự phấn, chòng chọc nhìn tôi vẻ soi mói, đứng dựa vào tường một tòa nhà bằng đá với tấm biển sơn màu có vẽ hình chiếc mũ của Đức Hồng y. Đây, như tôi đã suy đoán, là một trong nhiều nhà thổ ở khu này. Té ra là nơi xôm tụ nhất, với các giao dịch diễn ra nhộn nhịp mọi lúc trong ngày. Có cả một quán trọ nữa. Quán rượu Nữ Hoàng. Nó nằm trong số những tòa nhà sạch sẽ hơn trong khu, dù hóa ra đám khách khứa thì, trái lại, bẩn tưởi hơn.

Có một không gian ngoài trời phía trước quán rượu và nhà thổ, một bãi cỏ hình chữ nhật nơi mọi người đi dạo, và tôi quyết định dừng chân ở đó.

Tôi hít một hơi sâu.

Và rồi tôi bắt đầu chơi đàn.

Âm nhạc thì không có gì phải ngại. Thậm chí chơi nhạc cũng chẳng có gì phải ngại. Ngay cả nữ hoàng Elizabeth cũng có thể gảy một hai nhạc cụ. Nhưng chơi nhạc ở nơi công cộng - cả ở Pháp và nước Anh này - là việc mà người có xuất thân quý tộc không làm. Chắc chắn ta không chơi nhạc trên đường phố. Con trai của một bá tước và bá tước phu nhân Pháp mà lại chường mặt ra đây, chơi nhạc ở khu dơ dáy nhất của Bankside, thì đúng là một việc mất thể diện.

Thế nhưng, tôi vẫn chơi.

Tôi chơi một vài khúc nhạc Pháp mẹ đã dạy tôi và mọi người liền tiến lại, thỉnh thoảng nhướng mày. Nhưng càng lúc sự tự tin càng lớn dần, tôi bèn chuyển sang các bài hát và mấy bản ballad tiếng Anh và nhanh chóng thu hút được khán giả. Một hoặc hai lần, ai đó trong đám đông khán giả còn thảy cho một xu. Nhờ quan sát các nghệ sĩ biểu diễn khác, tôi đã biết là phải cầm mũ đi xung quanh vào những quãng nghỉ xen kẽ - như cánh nghệ sĩ hát rong vẫn làm ngày nay - nhưng tôi không có mũ, vì thế cứ sau mấy bài hát tôi lại xách chiếc giày trái nhảy lò cò xung quanh, khiến đám đông tuồng như thích thú ngang ngửa với khi nghe nhạc. Khán giả là một tổ hợp kỳ lạ và gây ngợp gồm những người chèo thuyền, kẻ bán hàng rong, bợm rượu, gái điếm và người đi xem hát. Một nửa từ những khu nhà tập thể đằng Nam còn một nửa - nửa có khả năng xùy tiền ra hơn - tới từ bên kia cầu. Có lẽ bởi đám đông cứ trố mắt nhìn nên tôi thấy mình nhắm mắt thì sẽ chơi hay hơn. Đến cuối ngày đầu tiên, tôi đã kiếm đủ để trả cho giỏ trái cây. Đến cuối tuần, tôi đã mua đền được một cái giỏ mới.

“Đừng có hí hửng vội, Tom Smith,” Rose nói, vừa nén cười vừa ăn chiếc bánh nhân thịt thỏ nóng hổi tôi mua trên đường về nhà. “Cậu vẫn phải trả tiền trọ đấy.”

“Chúng ta ăn bánh nhân thịt mỗi ngày được không ạ?” Grace hỏi, mặt lem nhem vụn bánh. “Ngon hơn đứt mấy món hầm và món củ cải như hạch.”

“Củ cải không phải hạch, Grace.”

“Và cũng tốt cho ta hơn củ cải nữa,” tôi bảo nàng, nhắc lại câu đúc kết khôn ngoan thời đó. “Ta không bao giờ bắt gặp nữ hoàng hay quý tộc nào ăn củ cải cả.”

Rose đảo mắt. “Nhưng chúng ta có phải quý tộc đâu, đó mới là vấn đề.”

Đối với họ, tôi chỉ là Tom Smith đến từ Suffolk và sẽ luôn phải là như thế. Với cả, tôi biết thừa mình sẽ không bao giờ trở thành bá tước. Tôi sẽ không bao giờ lại được sống trong một ngôi nhà đẹp đẽ. Sẽ không có người hầu kẻ hạ. Cha mẹ tôi đã chết. Pháp là một thế giới thù địch đối với tôi. Tôi là một nghệ sĩ đường phố ở London. Bất cứ sự ra vẻ nào vượt quá cái địa vị đó cũng chỉ dẫn tới rắc rối.

Đến thứ Ba sau đó, tôi đã trả đủ tiền trợ hai tuần đầu tiên. Và kể từ lúc đó, tôi trở thành người ngang hàng trong nhà, là một thành viên của gia đình. Tôi cảm thấy, tóm lại, như mình đã có nơi để thuộc về, và tôi cố hết sức phớt lờ tương lai cùng những vấn đề có thể xảy đến. Khi hát cho một đám đông tụ tập trước giờ vào rạp hoặc ngắm Rose cười mỉm mím má ửng hồng, tôi có thể tưởng tượng rằng mình đang hạnh phúc.

Grace muốn học đàn luýt vì thế một tối nọ tôi bắt đầu dạy nó. Tay nó vắt trên dây đàn như một con nhện treo lủng lẳng trên mái nhà. Tôi chỉnh lại tay con bé, sao cho những ngón tay song song với chiều dài của nhạc cụ.

Nó muốn học “Greensleeves” và “The Sweet and Merry Month of May”, hai bản nhạc nó thích nhất. Tôi hơi ngại dạy nó bản “Greensleeves”. Như đa phần những bản nhạc được yêu thích trong lịch sử, “Greensleeves” là giai điệu không phù hợp chút nào với trẻ nhỏ. Hồi ấy tôi chưa thạo đời đến thế nhưng cũng đủ để biết rằng Lady Greensleeves - quý cô Tay Áo Xanh - là cách gọi sỉ nhục mang tính tiêu chuẩn của thời ấy dành cho những người phụ nữ lăng nhăng. Tay áo của cô ta mang màu xanh là do hết thảy những màn ái ân ngoài trời mà cô ta được cho là đã thực hiện. Thế nhưng Grace là đứa cứng đầu, còn tôi thì không muốn phá hỏng sự ngây thơ của con bé trên danh nghĩa bảo vệ nó, vì thế tôi đành phải cho nó học. Nó khá khó dạy, thích cầm đèn chạy trước ô tô, nhưng cả tôi và nó đều kiên nhẫn với nhau. Chúng tôi chơi nhạc ngoài nhà vào buổi tối giữa hè, và tôi quay sang thấy Rose đang nhìn chúng tôi từ cửa sổ, mỉm cười.

Một tối, quãng đầu thu, Rose vào phòng tôi. Nàng mệt. Trông nàng khang khác. Hơi im lặng, hơi thất thần.

“Sao thế?”

“Cả triệu thứ vặt vãnh. Không sao đâu.”

Có gì đó mách bảo tôi rằng nàng muốn kể tôi nghe nhưng chưa kể được.

Nàng ngồi trên giường, hỏi tôi liệu có thể dạy nàng chơi đàn luýt được không. Nàng nói nếu tôi chịu dạy nàng chơi đàn nàng sẽ bớt năm xu tiền nhà. Tôi đồng ý. Không phải bởi tiền nhà, mà vì tôi thích có cớ được ngồi bên nàng một lúc.

Nàng có một nốt ruồi nhỏ khác, giống như hai nốt trên má, giữa ngón cái và ngón trỏ. Tay nàng hơi lấm bẩn vì vừa ăn nốt anh đào. Tôi tưởng tượng mình nắm lấy tay nàng. Thật là một suy nghĩ trẻ con! Có lẽ đầu óc tôi hãy còn non nớt như khuôn mặt của tôi vậy.

“Cây đàn luýt đẹp quá. Tôi chưa bao giờ thấy thứ gì như vậy. Mọi chi tiết trang trí này,” nàng nói.

“Mẹ tôi được... một người bạn tặng. Cô có thấy chỗ này không?” Tôi chỉ vào một lỗ âm thanh được chế tác thủ công tinh xảo, bên dưới dây đàn. “Nó được gọi là hoa hồng đấy.”

“Chỉ làm màu thôi.”

Tôi bật cười. “Đó là bộ phận quan trọng nhất đấy.”

Tôi dạy nàng chơi hai dây, gảy tới gảy lui, nhịp độ nhanh dần, theo nhịp tim tôi. Tôi chạm vào cánh tay nàng. Tôi nhắm mắt lại, cảm thấy sợ hãi trước bao cảm xúc dành cho nàng.

“Âm nhạc quan trọng là ở thời gian,” tôi bảo nàng. “Ở sự kiểm soát thời gian.”

Khi ngừng chơi, nàng có vẻ đăm chiêu giây lát và rồi nói gì đó đại loại như, “Đôi khi tôi muốn dừng thời gian lại. Đôi khi, trong khoảnh khắc hạnh phúc, tôi muốn chuông nhà thờ không bao giờ reo lại nữa. Tôi muốn không bao giờ còn phải ra chợ nữa. Tôi muốn chim sáo đá dừng bay lượn giữa bầu trời... Nhưng tất cả chúng ta đều chịu sự định đoạt của thời gian. Tất cả chúng ta đều là dây đàn, không phải vậy sao?”

Chắc chắn nàng đã nói câu cuối này: Tất cả chúng ta đều là dây đàn.

Rose quá tài giỏi so với công việc đi hái quả. Rose là một triết gia, thật vậy. Nàng là người thông tuệ nhất tôi từng biết. (Và chẳng bao lâu sau đó, tôi sẽ biết Shakespeare, nên việc này nói lên khá nhiều điều.) Nàng trò chuyện với tôi như thể tôi bằng tuổi nàng và tôi yêu nàng vì điều đó. Khi tôi ở bên nàng, mọi thứ nhạt nhòa đi và tôi cảm thấy bình tâm. Nàng là một đối trọng. Chỉ nhìn nàng thôi tôi đã cảm thấy bình yên rồi, điều này lý giải tại sao tôi lại nhìn nàng lâu đến vậy, với ánh mắt đăm đắm. Cái ánh mắt mà người ta không bao giờ còn dùng để nhìn người khác nữa. Tôi muốn nàng, xét trên mọi nghĩa. Còn muốn tức là còn thiếu. Đơn giản vậy đấy. Có một sự trống trải, một khoảng trống, bị khoét sâu mở rộng khi mẹ tôi chìm dưới làn nước, mà tôi những tưởng sẽ không bao giờ kết thúc, nhưng khi nhìn Rose, tôi bắt đầu cảm thấy mình đầy đặc trở lại, như thể có gì đó để níu lấy. Vững vàng.

“Tôi muốn cậu ở lại, Tom à.”

“Ở lại ư?”

“Ừ. Ở lại. Đây.”

“Ồ.”

“Tôi không muốn cậu phải rời đi đâu. Grace thích có cậu ở đây. Cả tôi nữa. Thích lắm. Cậu là niềm an ủi với cả hai chúng tôi. Nơi này từng có cảm giác quá trống trải, giờ thì không thế nữa.”

“Ừm, tôi thích ở đây.”

“Tốt.”

“Nhưng một ngày nào đó tôi có thể phải rời đi.”

“Sao lại vậy?”

Tôi muốn nói với nàng, ngay lúc đó. Tôi muốn nói rằng tôi là kẻ khác biệt, dị kỳ, quái đản. Rằng tôi sẽ không già đi như cách người khác già đi. Tôi muốn nói với nàng rằng mẹ tôi không phải bị ngựa hất ngã mà bị chết đuối bởi hình phạt ghế dìm, bị buộc tội sử dụng thuật phù thủy để giết người. Tôi muốn kể cho nàng về William Manning. Tôi muốn nói với nàng rằng thật khó khăn biết bao khi mang cảm giác phải chịu trách nhiệm cho việc đánh mất người mà ta yêu thương nhất. Kể cho nàng về sự bức bối khi là một bí ẩn, ngay cả với chính bản thân mình. Rằng có một khiếm khuyết trong sự cân bằng của các thể dịch trong cơ thể tôi. Tôi muốn nói với nàng rằng tên tôi là Estienne còn họ là Hazard chứ không phải Smith. Tôi muốn nói với nàng rằng nàng là sự an ủi đích thực duy nhất tôi từng biết kể từ khi mẹ tôi qua đời. Hết thảy những mong muốn này trào lên, nhưng không có chỗ để trút ra.

“Tôi không thể ở lại được.”

“Cậu là một bí ẩn cần được làm sáng tỏ.”

Một khoảng tĩnh mịch.

Tiếng chim hót.

“Cậu đã bao giờ hôn chưa Tom?” Tôi nghĩ về đêm đầu tiên đó, khi nàng trao tôi một nụ hôn phớt lên môi. “Một nụ hôn đúng nghĩa ấy, Tom?” Rose nói rõ hơn, như thể đọc được suy nghĩ của tôi.

Sự im lặng của tôi chính là một câu trả lời ngượng ngùng.

“Một nụ hôn,” nàng nói, “giống như âm nhạc vậy. Nó làm thời gian dừng lại... Tôi từng có một mối tình,” nàng bình thản nói. “Một mùa hè nọ. Anh ấy làm việc trong vườn quả. Chúng tôi hôn nhau và làm nhiều điều vui vẻ cùng nhau nhưng tôi chưa bao giờ thực sự có cảm xúc với anh ấy. Nếu ta có cảm xúc với ai đó, chỉ một nụ hôn thôi cũng có thể làm chim sẻ dừng lại, người ta nói vậy đấy. Cậu nghĩ điều đó có thể xảy ra không?”

Và nàng đặt cây đàn luýt sang một bên giường rồi hôn tôi, tôi nhắm mắt lại và phần còn lại của thế giới mờ nhòa đi. Chẳng có gì khác. Chẳng có gì ngoài nàng. Nàng là những vì sao, là thiên đường, là đại dương. Chẳng có gì ngoài một mảnh thời gian đó, cùng chiếc nụ tình yêu chúng tôi đã gieo bên trong nó. Và rồi, một lúc sau khi nó bắt đầu, nụ hôn dừng lại, và tôi lùa tay vào tóc nàng, tiếng chuông nhà thờ điểm đằng xa và mọi thứ trên đời lại trở về như cũ.

[1]

Trò thả chó trêu chọc một con gấu bị xích.