London, 1599
Tôi đã chơi đàn luýt ở Southwark suốt mùa hè và sang mùa thu. Tôi thường làm việc muộn, mãi tới khi họ đóng cổng thành, và phải cuốc bộ một quãng đường dài về nhà, có khi mất hơn một tiếng đồng hồ.
Lúc này trời đã chuyển mùa và đám đông thưa dần đi. Tôi đi khắp các nhà trọ, xin một chân đánh đàn, nhưng họ không còn chỗ cho tôi. Làm nhạc công ở nhà trọ được xem là tốt hơn nhiều so với việc làm một nghệ sĩ đường phố vô danh. Tôi nhận ra mình là một phần của một giống loài đang suy tàn và không được chào đón. Tuy nhiên, rắc rối nằm ở chỗ đã có một ban nhạc - Pembroke’s Men - chiếm lĩnh thị trường.
Và sau khi nghe nói tôi đang tìm việc, một người trong nhóm đó - một tay khổng lồ kéo vĩ cầm, râu ria xồm xoàm được dân trong vùng gọi là “Wolstan Cây” bởi kích cỡ của gã, và, có lẽ, là do món tóc bờm xờm nom hơi giống đám lá cây trong cơn bão - đến chỗ tôi bên ngoài Mũ Hồng Y ngay khi trời vừa chập tối.
Gã tóm gáy tôi và dúi mạnh tôi vào tường.
“Để thằng bé yên,” Elsa, một gái mại dâm thân thiện có mái tóc màu lửa mà tôi thường nói chuyện trên đường về nhà, lên tiếng.
“Im mồm đi con điếm.” Rồi gã quay sang tôi. Răng gã đã hỏng hết cả, như một hàng những viên sỏi nâu lộn xộn. Khó lòng mà xác định mùi phân bốc ra từ gã hay từ xưởng thuộc da bên cạnh. “Mày không được chơi nhạc trong bất cứ nhà trọ nào ở phía bên này Bishopsgate, thằng nhãi. Nhất là loanh quanh khu Bankside. Cứ liệu thần hồn đấy. Đây là địa bàn của bọn tao. Không có chỗ cho những thằng mặt non tơ như mày đâu.”
Tôi nhổ nước bọt vào mặt gã.
Gã tóm lấy cổ cây đàn luýt.
“Bỏ ra!”
“Tao sẽ đập vỡ cái này trước, rồi đến ngón tay mày.”
“Trả đây, đồ ăn cướp...”
Elsa đứng chắn trước mặt gã. “Này, Wolstan! Trả lại cho nó đi!”
Gã giơ cây đàn luýt lên cao sau đầu, định vung tay đập nó vào tường.
Rồi một giọng nói vang lên, một giọng nói vang rền, trầm sâu đầy kịch nghệ.
“Dừng lại đi, Wolstan.”
Wolstan quay lại, thấy ba người đàn ông vừa xuất hiện trên con đường sau lưng gã.
“Ôi trời đất quỷ thần ơi,” Elsa nói, đột nhiên phấn khích hẳn lên - hoặc, nhiều khả năng, là giả vờ như thế - trong lúc mân mê vuốt phẳng những nếp nhăn trên váy, chậm rãi như mèo liếm láp. Toàn bộ khu này là nhà hát. Trên hoặc ngoài sân khấu. “Đó chính là Richard III.”
Tất nhiên, đó chẳng phải Richard III gì sất. Đó là Richard Burbage, người mà đến cả tôi cũng biết là diễn viên nổi tiếng nhất London. Hồi đó, ông trông khá đáng sợ. Ông không phải là Errol Flynn hay Tyrone Power hay Paul Newman hay Ryan Gosling. Nếu xuất hiện trên Tinder, phải may mắn lắm ông mới được quẹt phải một cái. Tóc ông mỏng dính, xỉn màu, mặt sần sùi méo mó như Rembrandt, nhưng ở ông có điều gì đó khác, một điều được người thời Elizabeth nhận ra theo một cách mà những người ở thế kỷ hai mươi mốt không còn làm được nữa: một khí chất . Một điều gì đó mạnh mẽ và trừu tượng, một giác quan linh hồn, một sự hiện diện, một sức mạnh.
“Chúc ông một buổi tối tuyệt vời, thưa ông Burbage,” Cây nói, hạ cây đàn luýt xuống.
“Có vẻ như không phải ai cũng được thế nhỉ,” Burbage đáp.
Tôi chú ý tới hai người đàn ông kia. Một người tròn như thùng rượu, với bộ râu ấn tượng, nom gọn ghẽ hơn của Wolstan. Ông đang cười khẩy theo cung cách kịch nghệ quá chừng vì thế tôi đoán ông cũng là diễn viên. Ông có vẻ khá xỉn.
“Bãi nước đái bò sủi bọt nhà ngươi, trả cây đàn luýt cho thằng bé đi.”
Người còn lại gầy và khá điển trai, có điều chiếc miệng nhỏ và mái tóc dài chải ngược ra sau trông không được hợp mắt lắm. Mắt ông dịu dàng, nom giống mắt bò. Như hai người kia, ông mặc áo chẽn cài khuy, có lớp độn và diềm ren; của ông là màu vàng, tôi nghĩ, dù thật khó phân biệt trong cảnh tranh tối tranh sáng. Một phong cách phóng khoáng của người được trả lương hậu hĩnh, thêm chiếc khuyên tai vòng bằng vàng cho hoàn thiện. Đó rõ ràng là các diễn viên, và là những người được trả lương cao. Tôi biết họ ắt hẳn là thành viên của Lord Chamberlain’s Men, cùng Burbage.
“Ôi chao... Nhìn này. Hãy nhìn xem. Địa ngục trống không và toàn bộ lũ quỷ đều ở đây trên Bankside này,” người điển trai nói, vẻ cam chịu nhưng cay đắng.
Elsa nhận ra người này. “Chính là Shakespeare.”
Shakespeare - vì đó chính là ông - nở một nụ cười gần như không nhìn thấy được.
Elsa quay sang người đứng kế bên Shakespeare, người to như thùng rượu. “Tôi cũng biết ông. Ông là Will kia. Will Kemp.”
Kemp gật đầu, vỗ vỗ bụng vẻ tự hào. “Chính là tôi đây.”
“Trả tôi cây đàn luýt,” tôi bảo Wolstan một lần nữa, và lần này gã biết tối nay gã sẽ chẳng làm nên cơm cháo gì. Gã đặt cây đàn luýt vào tay tôi rồi chuồn đi.
Elsa vẫy tay chế giễu, ngoe nguẩy ngón tay út. “Đồ dòi bọ ghê tởm!”
Ba diễn viên cười ầm. “Nào, tới quán Nữ Hoàng làm một chầu thôi,” Kemp nói.
Shakespeare nhíu mày với mấy người bạn như thể đang bị đau đầu. “Các ông đúng là mấy quả cà già bê bết rượu chè.”
Elsa thì thầm vào tai Richard Burbage trong khi ông ta thoải mái sờ soạng cô.
Shakespeare tiến lại chỗ tôi. “Wolstan là con quái vật.”
“Vâng, ngài Shakespeare.”
Ông phả ra hơi bia xen lẫn thuốc lá và đinh hương. “Thật xấu hổ khi thấy Cây lộ bản chất như thế... Vậy, chàng trai, cậu chơi có hay không?”
Tôi vẫn hơi choáng. “Hay ư?”
“Đàn luýt ấy.”
“Tôi nghĩ là có, thưa ngài.”
Ông ghé sát hơn. “Cậu bao nhiêu tuổi?”
“Mười sáu, thưa ngài,” tôi đáp, giữ số tuổi đúng theo Rose vẫn tưởng.
“Trông cậu trẻ hơn thế hai tuổi. Ít nhất là thế. Nhưng cũng lại có vẻ nhiều hơn thế hai tuổi. Khuôn mặt cậu khá khó đoán.”
“Tôi mười sáu tuổi, thưa ngài.”
“Không sao, không sao...” Ông hơi loạng choạng và đặt tay lên ngực tôi, như để lấy điểm tựa. Tôi nhận ra, ông say chẳng kém hai người kia. Nhưng ông vẫn cố đứng thẳng.
“Chúng tôi, những cổ đông của Lord Chamberlain’s Men, đang tìm kiếm nhạc công. Tôi vừa viết một vở kịch mới, As You Like It , và nó cần có âm nhạc. Có rất nhiều bài hát. Và chúng tôi cần một tay đàn luýt . Cậu thấy đấy, chúng tôi có một tay luýt nhưng bệnh đậu mùa cướp anh ta đi rồi.”
Tôi nhìn chằm chằm vào Shakespeare. Mắt ông chứa hai ngọn lửa vàng, phản chiếu một ngọn đuốc cháy gần đó.
Kemp, đang kéo Burbage thoát khỏi sự chú ý của Elsa, thích mau mau chóng chóng cho xong chuyện, nên huỵch toẹt luôn với tôi: “Ngày mai, nhà hát Globe, trước mười một giờ.”
Shakespeare lờ ông ta đi. “Chơi luôn đi,” ông nói, hất đầu về phía cây đàn luýt.
“Luôn ạ?”
“Khi sắt đương còn nóng.”
Elsa cất giọng ngân một khúc tục ca mà tôi không biết.
“Cậu chàng tội nghiệp này vẫn còn run,” Kemp nói, làm bộ thông cảm. “Đi thôi.”
“Không,” Shakespeare nói. “Cứ để cậu bé chơi.”
“Tôi không biết phải chơi bài gì.”
“Chơi từ tâm cậu ấy. Vờ như bọn tôi không ở đây. Thành thật với chính mình.”
Ông suỵt Elsa.
Tám con mắt đổ dồn vào tôi.
Thế là tôi nhắm mắt lại và chơi một điệu gần đây hay chơi, vừa đàn vừa nghĩ về Rose.
Cả một ngày mặt trời khoác lên tôi cái nắng chói chang
Bằng những cái chau mày làm tôi héo úa
Và khiến tôi thêm mỏi mòn chờ đợi;
Nàng mỉm cười, tựa suối nguồn của tôi khiến niềm vui đâm chồi,
Nàng chau mày, tựa mùa đông muộn phiền hỡi ôi.
Khi ngừng hát, tôi nhìn bốn khuôn mặt đang lặng lẽ chăm chú nhìn tôi.
“Bia!” Kemp hét lớn. “Ông chủ, mang bia lại đây!”
“Cậu bé này khá đấy,” Burbage nói, “nếu ta bỏ qua bài hát.”
“Và cả giọng ca nữa,” Elsa chêm vào.
“Cậu chơi cừ đấy,” Shakespeare nói. “Ngày mai hãy đến nhà hát Globe. Mười một giờ. Mười hai silinh một tuần.”
“Cảm ơn ngài Shakespeare.”
“Mười hai silinh một tuần ư?”
Rose không tin vào tai mình. Đương là buổi sáng. Chúng tôi ra ngoài lấy nước trước khi đi làm. Rose phải dừng lại và đặt xô nước xuống. Tôi cũng đặt xô của mình xuống. Nước - để vệ sinh, không phải nước uống - lấy từ cái giếng cuối đường làng, cách Kho Yến Mạch và vườn quả gần một dặm về phía Bắc, vì thế chúng tôi cần nghỉ lấy sức. Bầu trời ban sáng ửng sắc hồng như báo điềm gì đó.
“Phải. Mười hai silinh một tuần.”
“Làm việc cho ngài Shakespeare á?”
“Lord Chamberlain’s Men. Phải.”
“Tom à, mừng quá đi mất.”
Nàng ôm tôi. Như một người chị. Hơn cả một người chị.
Và rồi khuôn mặt nàng toát lên vẻ buồn bã khi nàng lại xách cái xô lên.
“Sao thế?”
“Em e là bọn em sẽ không được gặp anh nhiều nữa.”
“Anh sẽ đi bộ về nhà mỗi tối như cũ. Vòng qua những bức tường hoặc đi xuyên qua.”
“Ý em không phải thế.”
“Vậy ý em là gì?”
“Cuộc đời anh sẽ quá rực rỡ sắc màu so với một cô gái buôn thúng bán mẹt ảm đạm như em.”
“Em đâu có ảm đạm, Rose.”
“Một ngọn cỏ không ảm đạm cho đến khi anh thấy một bông hoa.”
“Phải. Một ngọn cỏ lúc nào cũng ảm đạm. Em không phải ngọn cỏ.”
“Còn anh không phải người ở lâu một chỗ, Tom. Anh từ Pháp chạy đến. Và anh từ Suffolk chạy đến. Rồi anh sẽ lại chạy khỏi đây. Anh đâu có ổn định. Vì kể cả khi chúng ta hôn nhau, anh vẫn không dám nhìn lâu vào mắt em.”
“Rose à, nếu có ngày anh chạy khỏi đây thì đấy cũng không phải do em.”
“Vậy nếu có ngày anh chạy đi thì sẽ là tại sao hả Tom? Sẽ là tại sao?”
Đến đây, tôi không trả lời được.
Nước nặng trĩu nhưng chúng tôi đã gần về nhà. Chúng tôi đã tới chỗ chuồng ngựa và nhìn thấy một hàng ngựa, như những lãnh chúa trên ban công nhà hát đang theo dõi một vở kịch mà họ đã xem từ trước, chằm chằm nhìn chúng tôi. Rose rơi vào im lặng. Tôi cảm thấy áy náy vì đã nói dối về cái chết của mẹ. Tôi cần cho nàng biết sự thật về tôi. Đến một lúc nào đó, tôi nhất định phải làm vậy.
Ngay khi sắp về đến nhà, chúng tôi gặp hai phụ nữ trên đường. Một trong hai người là Già Adams. Bà ta đang chửi mắng người kia. Cút đi cục phân chết tiệt.
Rose quen người phụ nữ còn lại ở chợ Whitechapel. Mary Peters.
Một người phụ nữ trầm lặng, toát lên vẻ buồn bã. Chị quãng bốn mươi. Vào thời đó là độ tuổi chẳng thể xem thường nếu ta đạt đến được. Lúc nào chị cũng mặc đồ đen góa phụ.
Già Adams rướn người sát lại, phun những từ nanh nọc vào chị, nhưng Mary quay đi, dán mắt xuống đất với cơn giận dữ câm lặng khiến bà già phải lỉnh đi như một con mèo đột nhiên sợ con mồi.
Rồi Mary tiếp tục men theo đường Well tiến về phía chúng tôi.
Chị có vẻ không bực chút nào khi đụng mặt Già Adams. Tôi để ý thấy Rose nom lại hơi căng thẳng khi gặp Mary.
“Chào buổi sáng, chị Mary.”
Mary thoáng cười. Chị nhìn tôi. “Tom của cô đây à?”
Tom của cô.
Thật là một cảm giác dễ chịu ngượng ngùng. Khi biết rằng Rose đã nhắc đến tôi. Khi được cảm thấy như thể tôi thuộc về nàng. Điều đó khiến tôi cảm thấy không còn trống rỗng, thấy chân thực, như thể không gian mà tôi đang chiếm hữu được sinh ra là để cho tôi chiếm hữu.
“Vâng. Vâng, đúng thế.” Rose hơi đỏ mặt. Hồng phớt, như những áng mây ban sáng.
Mary gật đầu. Xem chừng hiểu ra. “Hôm nay ông ấy không ở đây. Cô và Grace chắc sẽ vui lắm khi biết tin này.”
“Thật ư?” Rose có vẻ nhẹ nhõm.
“Ông ấy bị sốt. Hy vọng đó là đậu mùa nhỉ?”
Tôi bối rối. “Mọi người đang nói về ai vậy?”
Mary hơi rúm người lại, như thể vừa lỡ lời.
“Ông Willow thôi mà,” Rose nói. “Người quản chợ.”
Mary bước đi. “Lát gặp cô ở đó nhé.”
“Vâng.”
Khi chúng tôi tiếp tục đi về nhà, tôi ướm hỏi Rose về ông Willow.
“Ôi, đừng lo. Ông ấy hơi khắt khe một tí thôi.”
Nàng chỉ nói có vậy. Ngay sau đó, tôi nhận ra nàng đang nói về Mary. Rose nói chị đã tới vùng này mấy năm trước và là người rất kín tiếng. Chị không mở lòng nói về quá khứ vì thế mọi người chẳng biết gì mấy về chị.
“Chị ấy là người tốt. Nhưng là một bí ẩn. Như cậu vậy. Nhưng em sẽ làm sáng tỏ anh. Nói em nghe điều em không biết đi. Một chút thôi cũng được. Một tí ti thôi cũng được.”
Anh có thể mua toàn bộ vàng ở Strand nhưng anh thà sống trong một ngôi nhà nhỏ ở đường Well nếu điều đó cho phép anh được sống bên em, tôi đã không nói vậy.
“Vừa mới hôm qua, anh đã thấy một người chèo thuyền bị rơi xuống sông Thames, ngay dưới nhà Nonesuch, trong khi đám đông đứng nhìn, và tôi đã nghĩ giá có em ở đó để cùng chứng kiến.”
“Khiếu hài hước của em không được tàn nhẫn như của anh đâu.”
“Anh tin là ông ấy còn sống.”
Nàng có vẻ ngờ vực và nghi ngại. Tôi bèn chuyển sang chuyện khác.
“Anh thích cách em chăm sóc Grace. Cách em hiểu rõ bản thân. Cách em tạo dựng cuộc sống, một cuộc sống tốt lành, với một mái nhà tốt lành, trong khi em đã chịu quá nhiều mất mát. Cô tìm thấy vẻ đẹp ở những nơi vốn chẳng có gì đẹp. Em là ánh sáng lấp lánh trong vũng nước.”
“Vũng nước ư?” nàng phì cười. “Em xin lỗi. Tiếp đi... em khát khao được khen lắm. Cho em thêm nữa đi.”
“Anh thích cách nghĩ của em. Anh thích cách em không sống một cuộc sống thờ ơ không nhận thức được về bản chất của nó.”
“Em không phải một nữ diễn viên da trắng đâu. Em là một người hái quả. Em tầm thường lắm.”
“Em là người ít tầm thường nhất mà anh biết.”
Nàng đặt tay lên người tôi. “Quần áo em chỉ là mớ giẻ rách với những giấc mơ.”
“Có lẽ em sẽ tuyệt hơn nếu không có chúng.”
“Những giấc mơ ư?”
“Không.”
Giờ tôi đang đứng sát gần nàng. Và đăm đắm nhìn nàng. Không đường trốn chạy. Tôi không hề biết mình vẫn tìm kiếm nàng bấy lâu nay, nhưng giờ tôi đã tìm được nàng, và tôi không biết rồi đây chuyện gì sẽ xảy ra. Tôi có cảm giác như mình đang quay vù vù, không kiểm soát nổi, như hạt cây ngô đồng, bị cuốn theo cơn gió thất thường.
“Đi thôi,” nàng nói. “Hãy để dành niềm vui thú của chúng ta. Anh sẽ muộn mất đấy.”
Chúng tôi hôn nhau và tôi nhắm mắt lại, hít hà mùi oải hương và nàng, và tôi cảm thấy sợ hãi và tràn đầy tình yêu đến nỗi tôi nhận ra chúng - sự sợ hãi, tình yêu - là một và giống hệt nhau.