← Quay lại trang sách

London, hiện tại

Tôi nhớ cảm giác ấy, sự kết hợp quay cuồng chóng mặt của tình yêu và nỗi sợ. Tôi nhớ, khi chuông reo. Tôi nhớ mùi vườn quả vương tóc nàng, và tôi vẫn nhớ nàng đến cháy bỏng.

Vững vàng vào.

Tôi mở mắt ra, thấy Anton đang chuồn khỏi lớp.

“Anton,” tôi lên tiếng, “một phút thôi.”

Trông nó có vẻ sợ sệt. Nó cứ như vậy trong suốt giờ học. Nó đang nhét dở một cái tai nghe vào tai.

“Em thích âm nhạc à?”

Nó có vẻ bối rối vì câu hỏi này. Nó những tưởng tôi sẽ hỏi câu khác. Mọi thứ ở nó đều toát lên vẻ cố tình tỏ ra bình tĩnh, ngoại trừ đôi mắt. “Vâng. Vâng ạ, thưa thầy.”

“Em có chơi nhạc không?”

Nó gật. “Có ạ, piano, một chút thôi ạ. Mẹ dạy em hồi bé.”

“Em phải cẩn thận với nó đấy. Nó có thể làm em rối loạn. Những mớ hỗn độn với hóa học thần kinh của em. Cảm xúc.”

Nó nhìn tôi vẻ khó hiểu.

Tôi tiếp tục. “Mẹ em có biết về đám bạn của em không?”

Nó nhún vai ngượng ngùng.

“Vì em có thể làm tốt hơn thế.”

Nó biết mình không có quyền hờn dỗi, nhưng nó gần như đã làm vậy rồi. Hơi bĩu môi. “Si không phải bạn em. Chỉ là anh trai người quen của em.”

“Người quen à? Quen ở trường? Ở đây à?”

Nó lắc đầu. “Hồi xưa thôi ạ.”

“Hồi xưa thôi?”

“Nó bị đuổi học rồi ạ.”

Tôi gật đầu. Thảo nào.

Một khoảng im lặng. Mặt nó căng ra, nom như đang chuẩn bị tinh thần làm gì đó. “Chuyện thầy nói tối qua có thật không ạ? Chuyện giết người ấy ạ.”

“Ồ có. Có chứ, thật đấy. Ở sa mạc. Arizona. Khá lâu rồi. Thầy không khuyến khích học theo đâu.”

Nó bật cười, không chắc đó có phải câu đùa hay không. (Không phải.) “Thầy đã bao giờ bị bắt chưa ạ?”

“Không, không phải theo nghĩa như em nghĩ đâu. Không, thầy không bị bắt. Nhưng khi già đi, Anton à, ta nhận ra rằng mình không bao giờ thoát khỏi điều gì. Tâm trí con người có... nhà tù riêng. Không phải chuyện gì trên đời này ta cũng có quyền chọn lựa.”

“Vâng. Em hiểu điều đó, thưa thầy.”

“Ta không thể chọn nơi ta sinh ra, ta không thể chọn người sẽ không rời bỏ ta, ta không thể chọn nhiều thứ. Một cuộc đời có những con nước không thể thay đổi, cũng y như lịch sử vậy. Nhưng vẫn còn những khoảng trống bên trong để chọn lựa. Để cho những quyết định.”

“Chắc vậy ạ.”

“Thật vậy đấy. Ta đưa ra quyết định sai lầm trong hiện tại và rồi nó sẽ ám ảnh ta, như Hòa ước Versailles năm 1919 đã tạo điều kiện cho Hitler lên nắm quyền vào năm 1933, vì thế mỗi khoảnh khắc trong hiện tại đều phải trả giá bằng một khoảnh khắc trong tương lai. Chỉ rẽ nhầm một bước là ta có thể lạc lối. Nó quay trở lại. Ta không thể thoát khỏi bất cứ thứ gì.”

“Có vẻ thế ạ.”

“Người ta đã nói về la bàn đạo đức và thầy nghĩ đúng vậy thật. Chúng ta luôn biết được cái nào là đúng, cái nào là sai với bản thân mình, hướng Bắc và hướng Nam. Ta phải tin tưởng nó, Anton à. Người ta có thể nói với em đủ mọi kiểu chỉ dẫn sai, dẫn em rẽ vào bất cứ ngóc ngách nào. Em không thể tin tưởng bất kỳ điều gì trong số đó. Em thậm chí không được tin tưởng tôi. Người ta nói gì trong mấy quảng cáo ô tô nhỉ? Về hệ thống định vị ấy? Trở thành tiêu chuẩn. Mọi thứ ta cần biết về phải trái đúng sai đã ở sẵn đó. Nó đã thành tiêu chuẩn. Như âm nhạc vậy. Em chỉ việc lắng nghe mà thôi.”

Nó gật đầu. Tôi không biết liệu nó thấm thía được gì không, hay nó chỉ ngấy đến tận cổ hoặc sợ hãi và muốn chuồn khỏi lớp càng nhanh càng tốt.

“Vâng, thưa thầy. Thầy nói phải lắm ạ.”

“Được rồi.”

Thật lạ khi nói những chuyện này với một phù du. Như thể tôi quan tâm vậy. Hendrich luôn nhắc nhở tôi rằng không gì nguy hiểm hơn việc quan tâm tới một con người bình thường, bởi việc đó “làm tổn hại những ưu tiên của chúng ta”. Nhưng có lẽ ưu tiên của Hendrich không còn là ưu tiên của tôi nữa, và có lẽ chúng cần bị làm cho tổn hại. Có lẽ tôi chỉ cần mơ hồ cảm thấy mình lại là con người. Cũng được một thời gian rồi. Đã bốn trăm năm rồi.

Tôi quyết định hạ tông giọng. “Em có thích trường học không, Anton?”

Nó nhún vai. “Lúc có lúc không ạ. Có lúc nó có vẻ... chả liên quan gì cả.”

“Chả liên quan?”

“Vâng. Lượng giác và Shakespeare và những thứ vớ vẩn.”

“Ô phải. Shakespeare. Henry IV. ”

“ Phần Một. ”

“Phải, em đã nói vậy. Thế em không thích à?”

Nó nhún vai. “Chúng em từng đi xem rồi. Một buổi sinh hoạt ngoại khóa. Khá chán ạ.”

“Em không thích nhà hát à?”

“Không ạ. Cái đó dành cho mấy người giàu già chát, phải không ạ?”

“Hồi xưa thì không thế đâu. Có thời, ai cũng có thể đến nhà hát. Đó từng là nơi điên loạn nhất London. Ta gặp mọi loại người ở đó. Ta gặp những người giàu già chát, hẳn rồi, ngồi tít trên các ban công, quần là áo lượt, nhưng ta còn gặp những người khác nữa. Ta có thể vào nhà hát chỉ với một xu, kể cả vào thời đó vẫn là một món tiền mọn. Một ổ bánh mì, vậy thôi. Cũng từng có ẩu đả nữa, đôi khi là ẩu đả bằng dao. Người ta từng ném đồ vào diễn viên nếu họ không thích những gì mình xem. Vỏ sò. Táo. Hầm bà lằng. Shakespeare cũng từng lên sân khấu. William Shakespeare. Người đàn ông quá cố trên áp phích. Ở đó. Trên sân khấu. Không lâu đến thế đâu, không hẳn. Lịch sử ở ngay đây, Anton à. Nó ở ngay sát bên ta.”

Nó hơi mỉm cười. Đây là mục đích của nghề giáo. Một tia hy vọng ở nơi ta những tưởng là không hề có hy vọng. “Nghe như thể thầy đã ở đó vậy.”

“Thì thầy đã ở đó mà,” tôi nói.

“Sao ạ?”

Lần này tôi mỉm cười. Cảm giác thật trêu ngươi, khi ở rất gần cái ngưỡng hé lộ sự thực của bản thân, giống như nắm giữ một con chim sắp được ta thả tự do vậy.

“Thầy biết Shakespeare.”

Và rồi nó bật cười như thể biết tỏng tôi đang nói đùa.

“Được rồi ạ, vâng, thưa thầy Hazard.”

“Hẹn gặp em ngày mai nhé.” Ngày mai. Tôi luôn ghét từ đó. Thế nhưng, không hiểu sao, lần này nó lại không quá chướng tai nữa. “Ngày mai. Ừ.”