← Quay lại trang sách

London, 1599

Tôi ngồi ở khu ghế nhạc công cao phía trên sân khấu, kế bên một ông già hom hem, trông có vẻ khinh khỉnh tên là Christopher, chơi đàn virginal. Tôi nói là “già”. Lão có lẽ không quá năm mươi, nhưng là người già nhất từng làm việc cho Lord Chamberlain’s Men. Nhiều khán giả có thể nhìn thấy chúng tôi, giả như họ chịu ngước lên trên này, nhưng chúng tôi đang ở trong bóng tối và tôi cảm thấy mình vô danh một cách an toàn. Christopher hiếm khi nói lời nào với tôi, dù trước hay sau buổi diễn.

Tôi nhớ lại một cuộc nói chuyện với lão.

“Chú mày không phải người London đúng không?” lão hỏi vẻ khinh thị.

Đó thật sự là một sự khinh thị khác thường. Hồi ấy, cũng như hiện tại, phần lớn người dân London là từ nơi khác đến. London là vậy mà. Và, xét đến việc số ca tử vong nhiều hơn hẳn số ca sinh, đó là cách duy nhất để London tiếp tục tồn tại, và phát triển.

“Vâng,” tôi đáp. “Cháu từ Pháp đến. Mẹ cháu xin tị nạn ở đây. Tránh quân của đức vua.”

“Người Công giáo à?”

“Vâng.”

“Thế giờ mẹ chú mày đâu?”

“Mẹ cháu mất rồi.”

Không mảy may cảm thông. Hay tò mò. Chỉ là cái nhìn thăm dò hồi lâu. “Cậu chơi như người Pháp vậy. Cậu có những ngón tay ngoại quốc.”

Tôi nhìn tay mình. “Vậy sao ạ?”

“Phải. Chú mày vuốt ve dây đàn thay vì gảy chúng. Việc đó tạo ra âm thanh rất kỳ lạ.”

“Chà, đó là âm thanh kỳ lạ mà ngài Shakespeare thích đấy ạ.”

“Tuổi này chơi được thế là khá rồi, ta nghĩ vậy. Nó mang tính mới lạ. Nhưng chú mày sẽ không trẻ mãi được đâu. Không ai như thế cả. Ngoại trừ thằng bé ở miền Đông đó.”

Đây rồi.

Khoảnh khắc tôi nhận ra, kể cả ở một nơi rộng lớn như London, tôi vẫn phải đề phòng.

“Người ta đã giết mẹ nó. Bà ta là phù thủy.”

Tim tôi bắt đầu đập loạn. Phải cố lắm mới có thể vờ tỏ ra bình tĩnh.

“Ừm, nếu bà ấy bị chìm, thì chứng tỏ bà ấy vô tội.”

Lão ngờ vực nhìn tôi. “Ta chưa bao giờ nói đến chuyện bị chìm .”

“Cháu đoán nếu liên quan đến thuật phù thủy thì đó hẳn là hình phạt ghế dìm.”

Mắt lão nheo lại vẻ sắc sảo. “Chú mày có vẻ kích động vì chuyện này quá. Nhìn xem, những ngón tay Pháp của chú mày đang run rẩy. Nói thật nhé, ngọn ngành thế nào thì ta không biết. Là Hal kể cho ta đấy.”

Hal, người thổi sáo tính tình nhã nhặn, đang ngồi trên chiếc ghế băng phía trước chúng tôi, không quá thích bị lôi kéo vào cuộc nói chuyện. Họ đã biết nhau khá lâu và từng làm việc chung trong những vở diễn khác.

“Đứa con trai không già đi.” Hal - nhợt nhạt, rụt rè, miệng nhỏ - góp lời. “Bà ta đã phù phép giết một người đàn ông hòng mang lại cho đứa con sự trường sinh bất lão.”

Tôi không biết phải nói gì.

Christopher vẫn nhìn xoáy vào tôi. Và rồi chúng tôi nghe thấy tiếng bước chân trên khu ghế nhạc công.

“Đây không phải cuộc nói chuyện riêng tư đấy chứ?”

Đó chính là Shakespeare. Đang đứng đó, tách một vỏ sò rồi mút lấy phần thịt bên trong, cẩn thận không để dây bẩn ra trang phục bằng vải tafta được chần khéo léo. Khi ông thưởng thức vị sò, mắt ông dừng lại ở Christopher.

“Vâng,” Christopher đáp, “tất nhiên rồi.”

“Ừm, tôi tin là mọi người đang cố gắng giúp chàng Tom trẻ tuổi cảm thấy tự nhiên như ở nhà.”

“Ồ vâng, chàng Tom trẻ tuổi ổn cả.”

Shakespeare thả cái vỏ sò xuống sàn nhà. Ông thoáng cười. “Tốt.”

Ông chỉ vào tôi. “Ta phải chuyển cậu lên phía trước mới được, tới băng ghế bên cạnh. Để nghe tiếng đàn luýt.”

Tôi có thể thấy Christopher đang tức anh ách. Thật là một khoảnh khắc hả lòng hả dạ. Tôi đứng lên bước tới vị trí mới, trong khi Hal nhích người ra. Tôi ngồi xuống. Mặt trong chiếc vỏ sò hắt ánh lấp lánh từ chỗ nền gỗ bụi bặm về phía tôi, như một con mắt đang theo dõi.

“Cảm ơn ngài,” tôi nói với ông chủ của mình.

Shakespeare lắc đầu, vẻ bình thản. “Tôi cam đoan với cậu đây không phải hành động từ thiện. Nào, tất cả mọi người, hãy chơi hết sức nhé. Ngài Walter đang dự đấy.”

Ngồi ở băng ghế trước được cái là tôi có tầm nhìn tốt. Và bản thân khán giả cũng chính là một màn trình diễn. Vào một chiều nắng đẹp, hàng nghìn người sẽ chen chúc vào đây. Đông hơn nhiều so với sức chứa của những nhà hát trung bình ngày nay, kể cả là Globe. Thường thì sẽ có những màn ẩu đả và cãi vã ỏm tỏi giữa những khán giả mua vé một xu đứng nơi rìa sân khấu và những khán giả mua vé hai xu ngồi ghế băng xa hơn đằng sau. Nếu ta có đủ ba xu để mua vé ngồi ở ghế băng kèm đệm thì có vẻ như là, bằng cách nào đó, ta tự cho là mình ở trên những chuyện như thế, mặc dầu tôi để ý thấy rằng, khi ta ngước nhìn lên những hạng ghế cao cấp hơn trên các ban công, lối cư xử kém lại quay trở lại.

Nói cách khác, ta sẽ gặp đủ mọi loại người. Kẻ trộm. Phường gây rối. Gái làng chơi. Những quý cô mặt mũi nhợt nhạt với bộ răng nhuộm đen làm giả cái dấu vết xa xỉ là bị sâu răng do ăn quá nhiều đường (một thực tế tôi vẫn luôn nhớ lại khi sống trong thời hiện đại với những sản phẩm làm rám da và các phương pháp tẩy trắng răng).

Có nhiều bài hát để khuấy động đám đông. Tôi đặc biệt thích bài “Under the Greenwood Tree”, được trình diễn bởi một nam diễn viên tóc vàng tươi vui tôi đã quên mất tên, người thủ vai ngài Amiens trung nghĩa, một trong những con người trung thành sẵn lòng đi đày ở vùng rừng nước Pháp với người cha của nữ anh hùng Rosalind là công tước Senior.

Ai thích nằm bên tôi,

Biến lời nhắn nhủ vui vẻ

Thành tiếng hót của chú chim ngọt ngào,

Lại đây, lại đây, lại đây:

Nơi đây anh không có kẻ thù

Ngoài mùa đông và thời tiết khắc nghiệt.

Trong tâm trí tôi, rừng Ardennes nước Pháp đã trở thành khu rừng Pons mà tôi biết khi còn nhỏ, nơi mẹ và tôi thi thoảng lui tới. Chúng tôi sẽ ngồi dưới bóng một cây ngô đồng lớn, và tại đó bà sẽ hát cho tôi nghe, trong khi tôi ngắm hạt ngô đồng rơi. Một thế giới cách xa mùi hôi thối và sự dơ bẩn của Bankside, hoặc mùi bia, nghêu sò và nước tiểu từ cái hố bên dưới. Tuy nhiên vở kịch đã khuấy động nhiều điều khác trong tôi. Có những người bị lưu đày, thay đổi danh tính, sa vào lưới tình.

Đó là một vở hài kịch, nhưng tôi thấy nó khá buồn thương.

Tôi nghĩ nhân vật Jaques chính là vấn đề. Ông chẳng làm gì sất. Tôi đã xem vở kịch tám mươi tư lần mà vẫn không thể nhớ ông đã làm gì. Ông chỉ đi lại loanh quanh, giữa tất cả những người lạc quan trẻ trung sáng láng, ra vẻ yếm thế và đau khổ. Nhân vật này do chính Shakespeare thủ vai, và mỗi lần ông cất lời, từ ngữ lại thấm vào cốt tủy tôi, như thể cảnh báo tôi về tương lai của chính mình:

Cuộc đời là một sân khấu,

Tất cả chúng ta là kịch sĩ không hơn;

Ta vào ra sân khấu,

Bao vai diễn trong một đời người...

Shakespeare là một diễn viên kỳ lạ. Ông rất trầm lặng - tôi không bàn đến giọng nói, mà là cung cách và sự hiện diện của ông. Khác một trời một vực với Burbage hoặc Kemp. Có một cái gì đó rất phi Shakespeare ở Shakespeare, nhất là khi ông tỉnh rượu. Một sự trầm lặng, cả trên lẫn ngoài sân khấu, như thể ông đang hấp thụ cuộc đời thay vì lên kế hoạch cho nó.

Một ngày thứ Năm, tôi về nhà thì thấy Grace đang khóc còn Rose thì ôm con bé. Chuyện là ông Willow đã lấy chỗ của họ để đưa cho một người đàn bà đã đổi tình với ông ta để lấy lợi ích. Ông ta cũng đã thử làm vậy với Rose. Và nặng lời với cả nàng lẫn Grace.

“Rồi sẽ ổn cả thôi. Bọn em vẫn có thể kiếm sống ở đó. Chỉ là không phải chỗ cũ thôi.”

Tôi sôi tiết. Lửa giận bừng bừng thiêu đốt tôi. Hôm sau, trước khi tới Southwark, tôi ra chợ tìm ông Willov, và, ngựa non háu đá, đã nện rồi xô ông ta vào quầy gia vị. Ông ta ngã vào chỗ gia vị ngoại lai của Tân Thế giới làm bốc lên một đám bụi màu cam.

Grace và Rose bị cấm cửa vĩnh viễn khỏi chợ. Chỉ nhờ chúng tôi biết được đam mê đổi tình lấy lợi ích của ông ta nên ông ta mới không làm gì thêm để hại chúng tôi.

Rose chửi rủa sự bộp chộp của tôi, ngay cả khi thái độ nàng đáp trả tôi cũng vô cùng nóng nảy.

Đó là trận cãi vã đầu tiên của chúng tôi. Tôi nhớ về cơn thịnh nộ rõ hơn là nhớ về các lời lẽ được tuôn ra. Tôi nhớ nàng đã lo lắng không biết phải nói chuyện làm sao với ông Sharpe.

“Bọn em đâu thể chỉ hái quả, Tom. Bọn em phải bán chúng. Giờ bọn em biết bán ở đâu đây?”

“Anh sẽ sửa chữa chuyện này. Anh đã làm hỏng chuyện. Anh sẽ sửa chữa, Rose à. Anh hứa đấy.”

Vì thế, tôi hỏi Shakespeare xem có thể cho Rose và Grace bán hoa quả ở nhà hát không. Sau một buổi diễn, tôi thấy ông đi xuyên qua đám đông trên bãi cỏ, trước quán rượu Nữ Hoàng. Ông đi thẳng vào quán, một mình, tảng lờ một kẻ đã nhận ra ông khi ông biến mất qua cánh cửa.

Tôi đi theo ông. Tôi đã từng vào quán Nữ Hoàng rồi. Ở đây, bản mặt non tơ của tôi không thành vấn đề. Tôi tìm thấy Shakespeare trong một góc yên tĩnh, tay cầm chiếc cốc vại.

Tôi đang tự hỏi làm thế nào - và liệu có nên - đến chỗ ông thì ông đã giơ tay vẫy tôi lại.

“Chàng Tom trẻ tuổi! Lại đây ngồi đi.”

Tôi đến ngồi xuống ghế đối diện ông, một chiếc bàn gỗ sồi nhỏ ngăn giữa chúng tôi. Phía xa, hai người đàn ông đang mải mê chơi cờ đam.

“Chào ngài Shakespeare.”

Một cô hầu bàn gần đó đang dọn những cốc vại không, Shakespeare bèn gọi với về phía cô.

“Cho bạn tôi bia ale nhé.”

Cô gật đầu, nhưng rồi Shakespeare nghĩ lại. “Nhưng cậu đến từ Pháp nhỉ? Có khi cậu thích bia lager.”

“Không, thưa ngài. Tôi thích ale hơn.”

“Sự khôn ngoan của cậu xoa dịu tôi đấy, Tom. Ở đây họ phục vụ loại ale ngon ngọt nhất đất London này đấy.”

Ông nhấm nháp cốc của mình, nhắm mắt lại. “Ale không để được lâu,” ông nói. “Một tuần sau là nó sẽ có vị chua lòm như chiếc quần ống chẽn của một hiệp sĩ. Bia lager thì để được mãi. Người ta nói hoa bia tạo cho nó sự bất tử. Bia ale lại là bài học giá trị hơn về cuộc sống. Ta đợi quá lâu, và ta sẽ nói lời tạm biệt khi còn chưa kịp chào hỏi gì. Cha tôi từng là người nếm bia ale đấy. Tôi học được nhiều từ ông.”

Bia được mang ra. Đúng là nó ngon ngọt thật. Shakespeare nhồi thuốc vào tẩu và châm lửa. Như phần lớn dân nhà hát có tiền, ông thích thuốc lá. (“Thứ thảo dược thổ dân này mang lại điều kỳ diệu cho bệnh của tôi.”) Ông nói với tôi nó cũng giúp ích cho việc viết lách nữa.

“Ngài đang viết vở mới ạ?” tôi hỏi thành tiếng, “Tôi có cản trở ngài viết không?”

Ông gật đầu. “Phải, và không, cậu không cản trở gì đâu.”

“À,” tôi đáp. (Chẳng có ai như Will Shakespeare trong khoản khiến người khác chẳng nói năng trôi chảy được.) “Tốt. Thật tốt.”

“Tôi sẽ đặt tên nó là Julius Caesar .”

“Nó nói về cuộc đời của Julius Caesar ạ?”

“Không.”

“Ồ.”

Ông rít một hơi tẩu dài. “Tôi ghét viết lách,” ông nói, qua làn khói cuộn tròn. “Sự thật là như vậy đấy.”

“Nhưng ngài viết rất tài mà.”

“Thì sao? Tài cán của tôi không đáng một vại bia. Nó chẳng có ý nghĩa gì. Không hề. Viết tài thì cũng như giỏi dứt tóc mình thôi. Tài năng há có nghĩa gì nếu nó làm ta đau khổ? Đó là cái tài bốc mùi và nó có mùi phân bò. Thà làm điếm ở Mũ Hồng Y còn hơn làm nhà văn. Cây bút lông vũ là lời nguyền của tôi.”

Tôi cảm thấy mình đã đụng trúng hôm ông có một ngày tồi tệ.

“Tôi viết bởi sau đó tôi có thể biến nó thành một vở kịch và tôi cùng các cổ đông có tiền bỏ túi. Mà tiền thì chẳng có gì xấu cả. Tiền ngăn con người ta phát điên.” Ông buồn bã nhìn chăm chăm một hồi lâu. “Tôi đã chứng kiến cha mình khổ sở ra sao hồi tôi còn nhỏ, cũng không nhỏ hơn cậu bây giờ mấy đâu. Ông ấy là người tốt. Ông không biết đọc nhưng thạo nhiều ngón nghề. Người nếm bia, thợ may găng tay, rồi bán len. Và nhiều việc khác nữa. Ông ấy đã làm rất tốt. Chúng tôi ăn tối trong niềm hạnh phúc. Bữa phụ nào cũng có thịt gia cầm. Rồi ông mất sạch tiền bạc. Chuyện cho vay mà không đòi lại được một đồng nào xảy ra như cơm bữa. Việc phải chăm lo cho người vợ cùng bảy đứa con đã đẩy ông rơi vào cảnh điên loạn một thời gian dài. Ông run bần bật, hoảng hốt và sợ ngay cả bóng một con chuột. Đó là nguyên do tôi cầm bút. Tôi chỉ là kẻ mãi chạy trốn cơn điên.” Ông thở dài, liếc qua bàn cờ đam, khi một người đàn ông đặt quân cờ xuống. “Giờ đến cậu. Cậu thì sao? Cha cậu cũng phát điên à?”

“Tôi không biết, thưa ngài. Cha tôi mất khi tôi còn bé. Ông mất mạng trong chiến tranh. Ở Pháp.”

“Người Công giáo à?”

“Người Công giáo.”

“Thế là cậu tới Anh?”

Tôi hiển nhiên không muốn nói về bản thân, nhưng Shakespeare có vẻ muốn biết rõ ngọn ngành, và nếu định xin ông giúp đỡ thì tôi không còn lựa chọn nào khác ngoài ngoan ngoãn vâng lời.

“Chúng tôi, vâng. Tôi và mẹ. Tới Suffolk.”

“Và cậu không thích bầu không khí thôn quê à, Tom?”

“Không khí không phải là vấn đề.”

“Con người?”

“Đủ mọi thứ.”

Ông nhấp bia, ông hút tẩu, ông dò xét. “Cậu có khuôn mặt non tơ và miệng lưỡi khôn ngoan. Người đời ghét điều đó. Họ biết mình có thể bị những thứ đó đánh lừa.”

Tôi lo lắng, trong thoáng chốc cảm thấy ông đang thử mình. Nhớ đến cuộc nói chuyện với Christopher và Hal.

“Cậu có biết Queen’s Men không?” ông hỏi.

“Đoàn kịch ấy ạ?”

“Chính nó. Phải. Ừm, người đàn ông này đã gia nhập đoàn kịch. Henry Hemmings. Trước đó, ông ấy từng tham gia vài đoàn kịch khác, và khi mọi người nảy sinh nghi ngờ rằng thời gian đã bỏ qua ông ấy, ông lại chuyển tới một đoàn mới. Đó là căn nguyên, tôi cho là vậy. Nhưng khi ông đến Queen’s Men, những lời thì thầm bay nhanh như chim sẻ. Một trong các diễn viên đã nhận ra ông, từ miền Bắc mười năm trước, và ẩu đả đã nổ ra. Cuộc ẩu đả dữ dội nhất bất cứ ai từng chứng kiến. Ở thị trấn Thame, hạt Oxfordshire. Cuối cùng, thêm hai kẻ trong đoàn kịch lao vào ông, như bầy chó tấn công một con thỏ vậy.” Ông cẩn thận đặt ống tẩu xuống bàn, làn khói uốn lượn một đường mỏng mảnh thẳng lên trần nhà.

“Ngài đã có mặt ở đó ạ?” tôi hỏi.

Ông lắc đầu. “Tôi không hề quen ông ấy. Thế nhưng tôi phải cảm ơn ông.”

“Vì?”

Ông mỉm cười, một nụ cười mỏi mệt vì cuộc sống. “Cái chết của ông ấy. Ông ấy chết và Queen’s Men mất đi một trong những diễn viên nòng cốt. Vì thế khi họ tới Stratford, tôi đã thấy khó khăn của họ và cơ hội của mình. Tôi xin được gia nhập. Tôi nhậu với họ. Chúng tôi trò chuyện chút đỉnh về những vấn đề chung chung. Chúng tôi nói về Plutarch và Robin Hood. Và rồi cơ hội mỉm cười với tôi. Tôi trở thành một thành viên Queen’s Men. Và cơ duyên đó đưa tôi đến London.”

“Tôi hiểu.”

Ông thở dài. “Thế nhưng đó kỳ thực lại là một khởi đầu không lành. Dù tôi không liên quan đến cái chết của ông ấy, cái bóng của Hemmings vẫn thường xuyên lướt qua tôi. Và tôi thường cảm thấy như thể bản thân, ngay cả bây giờ, đang ở nơi mà mình không thuộc về. Rằng chuyện xảy ra thật phi lý. Chúng là một bọn rách rưới bất lương và hung hãn. Những kẻ giết người. Mười hai tên Wolstan Cây. Còn Henry Hemming chẳng phạm tội gì cả, ngoại trừ việc là một kẻ khác biệt. Ông ấy sở hữu một khuôn mặt không già đi. Khởi đầu của tôi là thế đấy - chỉ là hạt sồi mục ruỗng mà thôi.”

Trong một thoáng, ông có vẻ thật mong manh, rồi ông gãi gãi râu, lại cầm tẩu lên. Hít một hơi và nhắm mắt lại. Phà khói qua vai trái trong khi tôi nhấm nháp bia ale.

“Hạt sồi đó không mục ruỗng,” tôi nói.

“À, thế mà cái cây lại cong queo. Nhưng câu chuyện này không có bài học đạo đức gì đâu, chỉ có sự hài hước và tiếng cười khiến nếp nhăn kéo đến.” Tôi không biết chắc liệu ông có coi tôi như một Henry Hemmings khác hay không. Tôi cũng không biết chắc Henry Hemmings có thực sự giống mình, hay liệu ông ấy có phải người vừa được ban phước vừa bị nguyền rủa với vẻ trẻ trung hơn bình thường. Tôi không biết liệu Shakespeare có biết chuyện xảy ra ở Edwardstone không, và liệu, có thể nào, mối liên quan của tôi với Suffolk khiến ông liên tưởng gì chăng. Tuy nhiên tôi lờ mờ cảm thấy một lời cảnh báo, đượm vẻ thân thiện, trong lời lẽ của ông. “Mà sao cậu muốn gặp tôi vậy?”

Tôi hít một hơi.

“Tôi có quen hai chị em, Grace và Rose, và họ cần việc làm. Họ cần gấp lắm ạ... Họ có thể bán táo.”

“Tôi không có tiếng nói trong công việc bán táo đâu.”

Ông lắc đầu. Tuồng như bực mình vì tôi đã khiến tâm trí vĩ đại của ông vướng bận một chuyện tầm phào tẻ nhạt như vậy.

“Nhờ cậu đấy, nói chuyện khác đi, không thì để tôi yên.”

Tôi nghĩ đến khuôn mặt lo lắng của Rose. “Tôi xin lỗi, thưa ngài. Tôi nợ hai chị em họ rất nhiều. Họ đã cưu mang tôi trong lúc tôi không có nơi nương tựa. Xin ngài.”

Shakespeare thở hắt ra. Tôi cảm tưởng mình đang trêu ngươi một con gấu, và đâm sợ những lời ông sẽ nói tiếp theo. “Thế Rose là ai? Khi nhắc đến tên cô bé, giọng cậu rất dịu dàng.”

“Cô ấy là tình yêu của tôi.”

“Ôi chao. Tình yêu nghiêm túc à?”

Ông chỉ vào Elsa và một cô gái điếm khác ở Mũ Hồng Y, những người thường xuyên chăn khách ở quán rượu. Bên dưới gầm bàn, Elsa đang túm háng của một quý ông, ngón cái mân mê chỗ phồng ra. “Nhìn kẻ mà cô ta đang ve vãn đi. Đó có phải kiểu tình yêu cậu cảm thấy không?”

“Không. Ừm, có. Nhưng cũng có cả kiểu khác nữa.”

Shakespeare gật đầu. Một bên mắt ông rưng lệ. Có lẽ tại khói thuốc. “Tôi sẽ có lời. Cậu cứ bảo mấy cô bé này là họ được phép bán táo.”

Và vậy là họ bán táo.

Tất cả thật ngọt ngào và nhẹ nhõm, dù mỗi lần nghe Jaques độc thoại tôi lại lo lắng. Tôi, hơn ai hết, là một diễn viên trong đời thực. Tôi đang đóng vai. Vai diễn tiếp theo của tôi sẽ là gì, và khi nào tôi phải nhận vai đó? Làm thế nào tôi có thể bỏ lại vai này đằng sau, và khi nào thì điều đó đồng nghĩa với việc tôi phải rời bỏ Rose?

Cái đêm tôi báo với Rose rằng nàng và Grace có thể đến nhà hát Globe làm việc vì “Ngài Shakespeare đã đồng ý” là một đêm hạnh phúc, và tôi đã mua một bộ bài trên đường về nhà. Chúng tôi ngồi suốt đêm mà cười mà hát, chơi bài, ăn bánh mua trên phố Old và uống nhiều bia ale hơn thường lệ.

Cuộc nói chuyện chuyển sang bàn tán về việc Grace ngày càng ra dáng phụ nữ ra sao, và rồi Grace nói với tôi, không phải theo lối sống sượng mà bằng thái độ thẳng thắn vốn là bản chất của Grace, “Em sẽ sớm vượt anh.”

Và con bé phá lên cười, bởi nó đã uống quá nhiều ale. Nó uống đã quen miệng, chỉ là liền tù tì bốn vại thì quá nặng đô.

Nhưng Rose không cười. “Thật đấy. Anh không già đi thêm một ngày nào cả.”

“Đó là bởi anh hạnh phúc,” tôi yếu ớt nói. “Anh không có nỗi lo nào để khiến mặt có nếp nhăn.”

Mặc dù tất nhiên sự thực là tôi có cả trăm mối tơ vò, nhưng sẽ mất hàng thập kỷ mới có duy nhất một nếp nhăn xuất hiện.

Tôi từng ngắm Rose, giữa những màn giải lao của vở nhạc kịch, và nàng cũng từng quan sát tôi, trên khu ghế nhạc công. Những sự trao đổi thầm lặng này giữa nơi đông người có ý nghĩa gì? Ở chúng có điều kỳ diệu, như một bí mật được sẻ chia vậy.

Tuy nhiên, càng vào mùa diễn, đám đông dường như ngày càng lộn xộn hơn. Vào đêm mở màn - với sự tham dự của nữ hoàng và cận thần - không có màn gây gổ nào. Từ đó cho đến cuối mùa, xô xát xảy ra như cơm bữa, bất cứ lúc nào, ở chỗ vé đứng bình dân. Tỉ như có lần, một gã đã dùng vỏ sò cứa đứt tai kẻ khác vì một gái mại dâm thường trực ở đó. Tôi lo cho hai chị em ở dưới đó trong khi tôi được an toàn trên này trong bầu không khí loãng toẹt của khu ghế nhạc công nhưng nhìn chung họ ổn cả, và vui vẻ khi bán được số hoa quả nhiều gấp bốn lần ở chợ Whitechapel.

Nhưng rồi, một buổi chiều kia, dưới bầu trời giăng đầy những cụm mây xám xịt trĩu mưa: rắc rối đến.

Tôi đang chơi dở khúc “What Shall He Have That Killed the Deer?” - mà đến giờ, như tất cả những ca khúc trong vở kịch, dù trong lúc ngủ tôi vẫn có thể gảy ra được - thì để ý thấy một chuyện. Một người - một gã đàn ông môi trề ở khu ghế ngồi có vẻ ngoài bần tiện - đã thó một quả táo của Grace và đang ngoạm thì bị con bé đòi phải trả một xu. Gã tìm cách xua nó đi như một con ruồi, nhưng Grace là Grace vì thế nó cứ đứng lì tại chỗ. Nó hét lên những lời mà tôi không nghe thấy, nhưng biết tính Grace nên tôi đoán được. Vì đứng chắn đường một kẻ khác, nó rơi vào một tình huống còn oái oăm hơn. Kẻ này - một tay vũ phu tóc muối tiêu răng ố nâu mặc bộ đồ chua mùi bia - xô Grace xuống sàn, khiến chỗ táo của con bé rơi xuống đất giữa những cát, hạt và vỏ sò, khuấy lên ký ức về những quả mận vương vãi trên đường Fairfield. Rồi nó trở thành đồ miễn phí cho tất cả, khi người ta tranh nhau chộp táo.

Grace đứng dậy và gã đầu tiên, kẻ trộm táo, liền túm lấy con bé, và trưng ra bộ mặt méo mó gớm ghiếc, gã thè lưỡi vào trong tai nó.

Đến lúc đó, tôi ngừng chơi.

Vẫn đang thổi sáo ở kế bên, Hal bèn huých nhẹ vào chân tôi, trong khi các diễn viên bên dưới tiếp tục hát. Tôi nghe thấy Christopher thở dài hậm hực sau lưng tôi. Tôi bèn bắt đầu gảy đàn trở lại, nhưng rồi thấy Rose đã bỏ giỏ của nàng đấy và lao qua khu ghế đứng, sốt vó lên vì em gái. Nàng vừa tới chỗ Grace, lúc này vẫn đang gặp rắc rối với kẻ liếm tai, thì đồng bọn của gã trộm táo túm lấy nàng, tốc váy nàng lên và thọc tay vào bên dưới.

Nàng tát hắn, hắn giật tóc nàng, tôi cảm thấy cơn đau đớn của nàng như thể của chính tôi, đúng lúc Grace thúc mạnh cùi chỏ vào mặt kẻ quấy rối, làm hắn chảy máu mũi. Tôi không biết chuyện gì xảy ra tiếp theo bởi khi ấy tôi đã trèo qua chấn song gỗ sồi của ban công, cầm cây đàn luýt như một cây gậy, và - trước tiếng hổn hển choáng váng của hàng nghìn người - nhảy thẳng xuống sân khấu.

Tôi ngã xuống người Will Kemp, rồi xô vai qua Shakespeare đang ngỡ ngàng trong khi lao về phía trước, nhảy khỏi sân khấu tới chỗ Rose và Grace.

Tôi chạy vòng qua khu vé đứng và chen lấn tìm đường trong khi đám đông giận dữ ném hạt, bia và táo về phía tôi. Vở kịch vẫn đang được diễn sau lưng tôi, như bình thường, nhưng trong cảnh hỗn loạn ở khu vé đứng và quanh khu ghế băng, tôi ngờ rằng ngay cả những người ngồi ghế năm xu cũng chẳng thể nghe lọt tai một lời thoại nào. Kể cả những người trên ban công cũng đang gào thết, chửi bới và ném rào rào đồ ăn xuống đầu tôi.

Rose giờ đã không sao - nàng đã thoát khỏi tay gã tấn công dâm đãng - và đang cố giúp Grace lúc này vẫn chưa thoát khỏi rắc rối, vẫn đang bị cánh tay to bè siết chặt cổ.

Với sự hợp lực của Rose và tôi, chúng tôi đã giải nguy được cho Grace.

Tôi túm tay hai chị em và hối họ, “Ta phải đi thôi.”

Nhưng giờ xem ra còn có một vấn đề nghiêm trọng hơn.

Một người từ hàng ghế đắt tiền đã đứng ra chắn đường trong khi chúng tôi cố thoát khỏi nhà hát. Tôi đã không phát hiện ra lão, và tôi ngờ rằng lão đã nhận ra mình, từ trước khi tôi nhảy khỏi khu ghế nhạc công.

Lão đứng đó, cao to lừng lững, ăn vận tươm tất hơn lần trước tôi gặp, mái tóc thưa chải ẹp thành từng đường ra sau đầu, đôi bàn tay đồ tể to bè đan trước mặt.

“Vậy là,” Manning nói, nhìn xuống tôi bằng con mắt còn tinh. “Tao thấy đúng là vậy nhỉ. Mày đã tới London... Đã bao lâu rồi kể từ hồi tao gặp mày lần cuối? Cứ như mới hôm qua. Mày chẳng mảy may thay đổi. Nhưng rồi, sau này mày vẫn thế, phải vậy không?”

Tao thấy đúng là vậy nhỉ.

Tôi không bao giờ biết chắc có phải Christopher đã gieo rắc nghi ngờ về tôi bên ngoài vòng các nhạc công hay không. Tôi cũng không bao giờ biết những kẻ đối xử thô bạo với Rose và Grace có liên quan tới toàn bộ chuyện này hay không.

“Tao thấy mày đã có bạn rồi nhỉ.”

“Không,” tôi bật ra, như thể một từ ấy có thể xóa bỏ hiện thực. Lão săm soi Grace và Rose đang bối rối.

“Không à?”

“Họ không phải bạn tôi,” tôi nói, quyết tâm để lão biết càng ít càng tốt về chị em họ, hay mối quan hệ của họ với tôi. “Đến hôm nay tôi mới gặp họ.”

Tôi đưa mắt ra dấu cho Rose rời đi, nhưng nàng không chịu.

“À, vẫn nói dối leo lẻo. Chà, hãy nhận thức rõ điều này, các cô gái, vì kẻ này không như bề ngoài đâu. Nó là hiện thân của cái ác tày trời. Một đứa con của phù thủy.”

“Mẹ tôi khi chết là một phụ nữ vô tội. Bà ấy chết là vì ông.”

“Chỉ có Chúa mới biết phép thuật cuối cùng của mụ ta là gì. Có lẽ mụ đã thay hình đổi dạng. Có lẽ mụ đang đứng giữa chúng ta đây.”

Lão nhìn chằm chằm Rose, rồi Grace, như thể đang cố đọc một văn bản khó hiểu. Tôi không thể ở lại thêm một khắc nào nữa. Cơn ác mộng đang trở thành sự thực. Chỉ cần biết về tôi thôi thì bất kỳ ai cũng gặp nguy hiểm rồi. Bản thân sự tồn tại của tôi là một lời nguyền. Đám đông xung quanh đang lắng xuống, nhưng dõi theo Manning còn nhiều hơn cả nhìn sân khấu. Tôi nhận ra một khuôn mặt đang chằm chằm nhìn mình. Tôi không biết tên anh ta nhưng biết đó là một thợ mài dao. Tôi từng gặp anh ta đang hành nghề trên cầu một sáng nọ.

Đó là một người đàn ông gầy nhom nhợt nhạt vẻ yếu ớt, không quá hai mươi, lúc nào cũng đeo chiếc đai lưng gài những con dao sáng loáng.

Tôi tính giật lấy một con dao, nhưng làm thế chỉ khiến tôi chắc chắn nhận được một tấm vé một chiều tới Tyburn cùng chiếc thòng lọng quanh cổ.

Nhưng tôi biết đã quá muộn. Việc Manning biết tôi quen các cô gái còn đỡ rủi ro hơn so với việc tôi bỏ đi và để họ lại với lão.

Vì thế tôi nài Rose, “Ta phải đi thôi.”

“... Ta sẽ giết ngươi theo một trăm năm mươi cách. Vì thế hãy run rẩy rời đi... ”

Nhưng rồi ngay cả các diễn viên cũng im bặt khi Manning túm một nắm tóc của Grace.

“Con này!” Manning hét lớn. “Con này bao nhiêu tuổi?”

Grace đá lão.

“Nó hai mươi? Ba mươi? Nó có thể đã sáu mươi tuổi rồi. Trông nó như trẻ con nhưng chúng ta biết tỏng những trò lừa gạt khác rồi, phải không?”

Grace đấm mạnh vào háng lão.

“Thả tôi ra, đồ con lươn, đồ khốn nạn!”

Nhưng dường như chẳng ích gì. Đám đông hùa theo Manning chống lại chúng tôi. Chúng tôi sẽ bị chặn lại ở đây mất. Manning sẽ bày ra một màn phán xét gì đó. Theo sau là lời buộc tội thực hành thuật phù thủy, bùa phép. Tôi đã làm liên lụy Rose và Grace. Điều duy nhất có thể cứu chúng tôi, ngay tại thời điểm ấy, chỉ có một mà thôi.

“Xin ông hãy bỏ tay khỏi cô bé đó.”

Đó chính là Shakespeare, đứng trước sân khấu và đã thoát khỏi vai diễn.

Manning vẫn giữ chặt. “Ta là William Manning, ta là...”

“Tôi không quan tâm,” Shakespeare nói. “Các diễn viên này không quan tâm. Nhà hát Globe này không quan tâm. Bỏ tay ra và thả cô bé đi, nếu không chúng tôi sẽ kết thúc buổi diễn này.”

Thế là đủ. Chỉ cần lời đe dọa không tiếp tục buổi diễn là đã đủ. Bất chấp những gì đang xảy ra, có thể thấy rõ ràng là đám đông còn muốn một thứ khác hơn cả công lý. Họ muốn được giải trí. Và Shakespeare biết điều đó rõ như bất kỳ ai.

Đám đông giờ chuyển sang la ó William Manning. Vỏ sò ném vào khuôn mặt đỏ gay của lão. Gân xanh nổi lên trán lão. Lão buông Grace ra. Trên đường chen lấn tiến về phía hông nhà hát, chúng tôi chộp lấy con bé, chân nghiến lên những mảnh vụn trong cát. Tôi quay sang sân khấu, tự hỏi liệu Shakespeare đã trở lại hay chưa. Ông bắt gặp ánh nhìn của tôi, rồi khi ông cất tiếng thông báo với đám đông náo nhiệt rằng phần còn lại của buổi diễn được dành để tưởng nhớ một diễn viên mà ông mang ơn - “một người có tên Henry Hemmings” - tôi biết đó là một thông điệp, một ám hiệu, dành riêng cho tôi.

Và thế là tôi biết chúng tôi không bao giờ có thể quay trở lại nhà hát Globe hoặc khu Bankside được nữa.