Paris, 1928
Tôi cuốc bộ một mình cả quãng đường dài về nhà từ khách sạn lớn nơi tôi làm theo ca, chơi piano cho những người Mỹ và châu Âu giàu có đang nhâm nhi trà hay cocktail. Tôi thấy cô đơn. Tôi cần ở bên con người, hòng che giấu nỗi cô đơn trong lòng. Vì thế tôi hướng đến quán bar Harry đông đúc ồn ào, như thi thoảng vẫn làm. Hầu hết người ở đó là từ nơi khác đến, đúng kiểu đám đông tôi luôn thích.
Tôi len tới quầy bar và thấy có chỗ trống kế bên một cặp đôi bóng bẩy để kiểu tóc chẻ ngôi giữa giống nhau.
Người đàn ông nhìn tôi, có lẽ cảm nhận được nỗi cô đơn của tôi.
“Thử Bloody Mary đi,” anh ta nói.
“Nó là gì vậy?”
“Món bá cháy . Một loại cocktail. Zee mê nó lắm, phải không em yêu?”
Người phụ nữ nhìn tôi với đôi mắt nặng trĩu, buồn bã. Cô đang say, hoặc buồn ngủ hoặc cả hai. Giờ để ý kỹ, tôi thấy hai người họ đều trông khá xỉn. Cô gật đầu. “Đó là một đồng minh tuyệt vời trong cuộc chiến đấy.”
“Cuộc chiến nào kia?” tôi thắc mắc thành tiếng.
“Cuộc chiến chống lại sự buồn tẻ. Đó là một cuộc chiến ra trò đấy. Một cuộc chiến mà kẻ thù vây khắp quanh ta.”
Tôi bèn gọi Bloody Mary. Tôi ngạc nhiên nhận thấy nó có chứa nước ép cà chua. Người đàn ông nghiêm khắc nhìn người phụ nữ. Thật khó phân biệt đó là nghiêm khắc thật hay giả vờ. “Phải nói rằng anh cảm thấy khá bị xúc phạm khi em nói thế đấy, Zee.”
“Ôi, không phải anh đâu, Scott... anh đâu có chán quá. Đây là một trong những buổi tối khá khẩm của anh mà.”
Đúng lúc đó anh ta chìa tay ra. “Scott Fitzgerald. Còn đây là Zelda.”
Điều tuyệt vời của việc sống tận bốn thế kỷ là ta hiếm khi rơi vào tình huống bị choáng ngợp khi gặp người nổi tiếng, nhưng kể cả vậy thì cũng khá ấn tượng khi tình cờ gặp tác giả cuốn sách gối đầu giường của mình.
“Tôi mới đọc xong cuốn sách của anh, Đại gia Gatsby. Tôi cũng đọc Bên này thiên đàng khi nó được xuất bản.”
Anh ta bỗng nhiên có vẻ tỉnh rượu hẳn. “Anh thấy thế nào? Gatsby ấy? Ai cũng thích Thiên đàng hơn. Ai cũng thế. Các nhà xuất bản của tôi đã phải cố đấm ăn xôi với cái thứ dở ẹc đó, chủ yếu là vì thương hại.”
Nhìn mặt Zelda như thể cô sắp nôn đến nơi. “Cái bìa áo đó. Ernest hiếm khi đúng về bất cứ thứ gì nhưng anh ta đã đúng về cái đó. Đó là cuộc chiến chống lại thị giác.”
“Không phải cái gì cũng là một cuộc chiến đâu, em yêu.”
“Hiển nhiên là có chứ, Scott.”
Họ trông như sắp sửa cãi nhau, vì thế tôi xen vào: “Ừm, tôi nghĩ nó thật đặc sắc. Ý tôi là cuốn sách ấy.”
Zelda gật đầu. Tôi nhận thấy cô nom như một đứa trẻ. Cả hai người họ đều vậy. Họ giống như những đứa trẻ vận quần áo người lớn. Ở họ có một vẻ ngây ngô mong manh biết mấy.
“Tôi vẫn cố gắng bảo anh ấy là nó hay mà,” cô nói. “Ta có thể bảo đi bảo lại với anh ấy, nhưng chỉ như nước đổ đầu vịt thôi.”
Dẫu vậy, Scott có vẻ nhẹ nhõm khi thấy tôi thích cuốn sách. “Ừm, anh nói vậy khiến tôi thấy anh tử tế hơn cái gã ở Herald Tribune đấy. Đây, đồ uống của anh này...” Anh ta đưa cho tôi ly Bloody Mary.
“Anh biết không, họ sáng tạo ra nó ở đây đấy,” Zelda nói.
Tôi nếm món đồ uống lạ. “Thật ư?”
Lúc này, Scott ngắt lời, “Nói cho chúng tôi nghe xem, anh làm nghề gì?”
“Tôi chơi piano. Ở quán Ciro.”
“Quán Ciro ở Paris á?” anh ta hỏi lại. “Phố Daunou? Tuyệt quá. Anh có số hưởng rồi đấy.”
Zelda uống một ngụm đầy món đồ uống gì đó như cocktail gin. “Anh sợ gì?”
Scott cười vẻ áy náy. “Khi say cô ấy hay hỏi vậy lắm. Lần nào cũng thế.”
“Sợ ư?”
“Ai mà chẳng có thứ để sợ. Tôi sợ giờ đi ngủ. Việc nội trợ. Và tất cả những việc có hầu gái phục vụ. Scott thì sợ các bài phê bình. Hemingway nữa. Và sự cô đơn.”
“Anh có sợ Hemingway đâu.”
Tôi cố suy nghĩ. Tôi muốn được trả lời thật lòng ít nhất một lần. “Tôi sợ thời gian.”
Zelda mỉm cười, nghiêng đầu vẻ như thẫn thờ thông cảm, hoặc cam chịu. “Ý anh là việc già đi ư?”
“Không, ý tôi là...”
“Scotty và tôi không có kế hoạch già đi đâu, nhỉ?”
“Kế hoạch là,” Scott chêm vào, với vẻ nghiêm túc quá lố, “nhảy từ tuổi thơ này sang tuổi thơ khác.”
Tôi thở dài, hy vọng làm thế trông tôi có vẻ trầm tư và nghiêm túc, cũng như sở hữu trí thông minh của Thời đại Hoàng kim. “Vấn đề là, nếu ta sống đủ lâu, cuối cùng ta cũng hết sạch tuổi thơ.”
Zelda mời tôi một điếu thuốc và tôi nhận lấy (thời đó tôi hút thuốc - ai thời đó cũng vậy cả), rồi cô cắm một điếu khác vào miệng Scott, và một điếu cho mình. Một vẻ thất vọng hoang dại bất chợt bùng lên trong mắt cô khi cô quẹt diêm. “Trưởng thành hoặc phát điên,” cô nói, sau lần rít đầu tiên. “Những lựa chọn thần thánh ta có...”
“Giá như ta tìm ra cách dừng thời gian lại,” chồng cô nói. “Đó là những gì ta cần làm. Anh biết đấy, dùng cho một khoảnh khắc hạnh phúc lửng lơ giữa không trung. Chúng ta có thể quăng lưới bắt nó như bắt một con bươm bướm, và nắm giữ khoảnh khắc đó mãi mãi.”
Zelda nhìn qua quầy bar đông đúc. “Vấn đề là người ta cắm ghim vào bươm bướm. Thế là chúng chết...” Cô dường như đang tìm kiếm ai đó. “Sherwood đi rồi. Nhưng, ồ, nhìn kìa! Gertrude và Alice kìa.”
Và ngay sau đó, họ mang theo cocktail biến mất xuyên qua căn phòng đông đúc và mặc dù họ đã ra hiệu rõ ràng rằng tôi có thể nhập hội, tôi vẫn ở lại chỗ cũ, chẳng có gì bầu bạn ngoài ly vodka pha nước ép cà chua, ở lại trong cái bóng an toàn của lịch sử.