PHẦN BỐN Nghệ sĩ piano
Đó là tháng Tám. Tôi đang ở trong phòng khách một căn nhà gỗ nhỏ bên rìa thị trấn, thực hiện nhiệm vụ Hendrich giao. Cứ tám năm một lần lại có một nhiệm vụ. Đây là thỏa thuận. Anh làm nhiệm vụ rồi anh sẽ chuyển tới nơi tiếp theo và Hendrich giúp anh thay đổi danh tính và giữ cho anh an toàn. Thời điểm duy nhất anh gặp nguy hiểm chính là trong khi thực hiện nhiệm vụ. Dẫu vậy tôi đã gặp may. Trước lần này, tôi đã thực hiện ba nhiệm vụ và tất cả đều thành công. Nói cách khác: tôi đã định vị được những hải âu khả nghi và thuyết phục họ gia nhập hội. Không cần phải mạnh tay. Không có bài kiểm tra tính cách thực sự nào. Nhưng ở đây, tại Bisbee, mọi thứ đã thay đổi. Ở đây, tôi sắp tìm ra mình là ai. Và tôi sẵn sàng làm những gì, để tìm thấy Marion.
Dù trời đã tối và bóng đêm đã nhanh chóng xóa nhòa những rặng núi đỏ bên ngoài cửa sổ, cái nóng vẫn hầm hập. Như thể bầu không khí cháy bỏng bên ngoài đã tụ lại, như thể ai đó đã quyết định nhồi nhét toàn bộ sức nóng sa mạc vào căn nhà gỗ này vậy.
Mồ hôi rỏ xuống mũi tôi và rơi lên lá bài chín rô.
“Mầy không quen chịu nóng phỏng? Mầy đã trốn ở đâu vậy? Alaska à? Mầy đã đào vàng ở Yukon hả?” Kẻ đang hỏi là tên móm gầy nhẳng. Kẻ có bàn tay trái khuyết mất hai ngón. Kẻ có tên Louis. Hắn tợp thêm một ngụm whisky và nuốt đánh ực.
“Trốn khắp nơi,” tôi đáp. “Tao phải làm vậy.”
Rồi đến tên kia - Joe - tên vừa phủ đầu tôi bằng một bộ thùng phá sảnh, tên to xác hơn, khôn ngoan hơn, phá lên cười khả ố. “Thú vị thật đấy, và chúng tao luôn trân trọng những lúc nhậu với người lạ. Nhứt là những thằng có tờ xanh trong túi. Nhưng mầy không đến từ hạt Cochise. Nhìn là biết. Xem quần áo của mầy kìa. Thấy không, người vùng nầy đều lấm lem. Do bụi. Do mỏ than. Mầy không thấy có sợi bông trắng nào ở quanh Bisbee nầy đâu. Nhìn tay mầy đi. Sạch như tuyết ấy.”
Tôi nhìn xuống tay mình. Dạo này, tôi đã quen với dáng vẻ của chúng, nhờ toàn bộ quãng thời gian từng chơi nhạc. Tôi đã tự học piano. Đây là việc tôi đã làm trong tám năm vừa rồi.
“Tay nào chả là tay,” tôi nói giọng lâm ly.
Chúng tôi đã chơi xì tố hơn một tiếng đồng hồ. Tôi đã thua một trăm hai mươi đô. Tôi uống thêm chút whisky. Cảm giác như lửa đốt vậy. Tôi nhận ra giờ đã đến lúc. Giờ tôi phải nói những gì tôi đến đây để nói.
“Tao biết hai đứa mày là ai.”
“Ồ?” Joe nói.
Tiếng đồng hồ tích tắc. Ngoài kia, xa xa, tiếng con gì đó tru lên. Một con chó hoặc sói đồng cỏ.
Tôi hắng giọng. “Bọn mày giống tao.”
“Hẳn rồi.” Lại là Joe, với tiếng cười khô như sa mạc.
“Joe Thompson, đó là tên mày, đúng chứ?”
“Mầy đang đào bới gì vậy, thưa mầy?”
“Không phải Billy Stiles à? Không phải William Larkin hả?”
Louis liền ngồi thẳng dậy. Mặt đanh lại. “Mầy là ai?”
“Tao đã từng là nhiều người. Như chúng mày vậy. Giờ tao nên gọi mày là gì nhỉ? Louis? Hay Jess Dunlop? Hay John Patterson? Hay có lẽ là Jack Ba Ngón? Mà đó mới là dạo đầu thôi, phải không?”
Bốn con mắt và hai khẩu súng chĩa thẳng vào tôi. Chưa bao giờ thấy ai rút súng nhanh bằng hai kẻ này. Đích thị là chúng rồi.
Chúng trỏ vào khẩu súng lục tôi mang theo. “Đặt nó lên bàn, chầm chậm thôi..”
Tôi làm theo. “Tao ở đây không phải để gây sự. Tao ở đây để giữ cho chúng mày an toàn. Tao biết chúng mày là ai. Ít nhất tao cũng biết chúng mày đã từng là một vài người nào. Tao biết chúng mày không phải lúc nào cũng làm việc trong mỏ đồng. Tao biết chuyến tàu chúng mày đã cướp ở Fairbank. Tao biết chuyến tàu tốc hành Nam Thái Bình Dương mà chúng mày vơ vét được nhiều đến mức không tưởng nổi. Tao biết không ai trong hai đứa mày cần đào đồng cả.” Joe nghiến hàm ken két đến nỗi tôi nghĩ y sắp rụng răng đến nơi, nhưng tôi vẫn tiếp tục. “Tao biết lẽ ra hai đứa mày phải bị xử bắn ở Tombstone hai mươi sáu năm trước.” Tôi thọc tay vào túi lấy ra xấp hình Hendrich đã tìm được. “Và tao biết những bức ảnh này của chúng mày được chụp cách đây ba mươi năm, và chúng mày gần như chẳng già đi một ngày nào cả.”
Chúng chẳng buồn tiến đến xem ảnh. Chúng biết chúng là ai. Và chúng cũng biết tôi biết chúng là ai. Tôi phải nói.
“Nghe này, tao không có ý gây chuyện với chúng mày đâu. Tao chỉ đang cố giải thích rằng chuyện đó không vấn đề gì cả. Có rất nhiều người như chúng mày. Tao không biết toàn bộ quá khứ của chúng mày, nhưng hai đứa mày trông trạc tuổi nhau. Tao đoán chúng mày sinh đầu thập niên 1700. Ừm, tao không biết liệu trong thời gian đó, ngoài hai đứa mày, chúng mày có tiếp xúc với ai khác có chung tình trạng này không, nhưng tao có thể đảm bảo rằng có rất nhiều người như vậy. Nhiều người chúng ta . Có khi phải hàng nghìn. Và tình trạng của chúng ta rất nguy hiểm. Một bác sĩ ở Anh đã đặt tên cho nó, anageria . Ngộ nhỡ chuyện này vỡ lở ra - vì chúng ta quyết định cho mọi người biết, hay do người khác tìm thấy chúng ta - thì chúng ta đều gặp nguy hiểm. Và những người chúng ta quan tâm cũng gặp nguy hiểm. Chúng ta hoặc sẽ bị nhốt trong nhà thương điên, bị truy đuổi và bị cầm tù nhân danh khoa học, hoặc sẽ bị giết bởi những kẻ sùng tín. Vậy nên, như tao chắc chắn là chúng mày cũng biết, cuộc sống của chúng mày đang gặp nguy hiểm.”
Louis gãi gãi bộ râu lởm chởm. “Nhìn theo hướng súng này thì coi bộ mầy mới là kẻ ở thế chỉ mành treo chuông.”
Joe cau mày. “Tóm lại mầy đang đòi hỏi gì chúng tao vậy, thưa mầy?”
Một hơi thở sâu. “Tao mang đến đây một đề nghị. Nghe này, người dân ở Bisbee đã nghi ngờ chúng mày rồi. Thông tin đang rò rỉ. Giờ là thời đại nhiếp ảnh. Quá khứ của chúng ta để lại bằng chứng.” Khi nghe chính mình đang nói, với nỗi sợ hãi chầm chậm len vào trong giọng, tôi nhận ra mình chỉ đang nhại lại lời Hendrich. Mọi điều tôi đang nói cũng tựa như những gì Hendrich đã nói. Mỗi một lời phát ra hầu như đều rỗng tuếch. “Có một hội, kiểu như một liên minh, hoạt động vì lợi ích tập thể. Chúng tao cố gắng thuyết phục tất cả những ai mắc tình trạng này, tình trạng được gọi là anageria, trở thành thành viên của hội. Hội giúp đỡ mọi người. Hội hỗ trợ họ, khi họ cần bước tiếp và bắt đầu trở thành một người khác. Họ có thể được nhận hỗ trợ về tiền bạc, cũng có thể dưới hình thức giấy tờ, hồ sơ.”
Joe và Louis trao đổi suy nghĩ qua ánh mắt. Mắt Louis đờ đẫn hơn, ít ánh lên sự khôn ngoan hơn. Hắn trông cù lần một cách nguy hiểm, nhưng lại dễ trị hơn. Kẻ nhiều khả năng bị mua chuộc nhất. Joe là kẻ mạnh, cả về cơ thể lẫn đầu óc. Joe là kẻ cầm khẩu Colt không chút run tay.
“Số tiền mầy đang nói đến là bao nhiêu?” Louis hỏi, một con bọ vo ve quanh đầu hắn.
“Tùy theo nhu cầu. Hội phân bổ ngân sách tùy theo nhu cầu của mỗi trường hợp cụ thể.” Chúa ơi, giọng lưỡi tôi bắt đầu chẳng khác gì Hendrich.
Joe lắc đầu. “Mầy nghe thằng kia nói không, Louis? Nó đang bảo ta rời khỏi Bisbee cơ đấy. Vô ích thôi, hiểu chứ. Chúng tao xoay xở tốt ở đây. Chúng tao có quan hệ tốt với người dân vùng nầy. Chúng tao lang bạt đủ rồi, tao đã rầy đây mai đó khắp đất nước nầy từ khi xuống thuyền rất lâu về trước. Tao không định nghe lời người khác mà bỏ xứ đâu.”
“Mày mà nghe lời thì ấm vào thân mày thôi. Mày thấy đấy, hội nói rằng sau tám năm...”
Joe buông một tiếng thở dài nửa chừng biến thành tiếng gầm gừ. “Hội nói? Hội nói? Chúng tao chả ở trong hội nào mà cũng cóc bao giờ định gia nhập hội nào. Mầy nghe thủng chưa?”
“Tao rất tiếc nhưng...”
“Tao muốn găm một lỗ trên đầu mầy quá.”
“Nghe này, hội có liên hệ với giới luật đấy. Họ biết tao ở đây. Nếu bắn tao, mày sẽ bị bắt.”
Cả hai tên bật cười trước câu nói này.
“Mầy nghe thấy chưa, Louis?”
“Tao nghe thấy rồi.”
“Tốt nhất ta nên giải thích với ngài Peter cha vơ chú váo là tại sao chuyện nầy lại buồn cười đi.”
“Chúng mày có thể gọi tao là Tom. Thấy không, tao giống chúng mày. Tao có nhiều tên lắm.”
Toe phớt lờ tôi và tiếp tục dòng suy nghĩ. “Được rồi. Để tao. Nghe nầy, câu chuyện hài này buồn cười ở chỗ chẳng có luật pháp nào ở đây động được đến chúng tao hết. Đây không phải thị trấn bình thường. Chúng tao đã giúp cảnh sát trưởng Downey và P.D. cũ được một thời gian rồi.”
P.D. Phelps Dodge. Tôi đã được cung cấp đủ thông tin về Bisbee để biết rằng Phelps Dodge là công ty khai thác mỏ chủ chốt trong khu vực này.
“Nói trắng ra thì,” Joe nói tiếp, “chính chúng tao xúi bẩy họ tiến hành vụ trục xuất Bisbee đấy. Mầy biết vụ đó mà, phải không?”
Tôi biết sơ sơ về vụ đó. Tôi biết rằng, vào năm 1919, hàng trăm thợ mỏ đình công đã bị bắt cóc một cách thô bạo và bị trục xuất khỏi thị trấn.
“Thế nên đến đây huyên thuyên về các đề nghị và về cái hội tép riu của mầy sẽ chẳng lay chuyển được chúng tao đâu. Cái hội cuối cùng mà chúng tao qua lại đã bị chúng tao đá bay tới New Mexico rồi, và chúng tao được cảnh sát trưởng phê duyệt cho làm thế hẳn hoi nhé... Giờ thì, xem ra mầy nóng và chán lắm rồi nhỉ. Đi dạo một chút cho mầy nguội máu bớt đi thôi nào...”
Lúc này trời tối đen như mực. Bóng tối sa mạc.
Không khí chuyển lạnh, nhưng tôi vẫn toát mồ hôi và đau nhức mình mẩy, cái miệng chua vị whisky thì khô như nấm mộ tôi đã đào suốt hơn một tiếng đồng hồ.
Đạn không phải bệnh truyền nhiễm. Chúng không phải dịch hạch hay một trong số cả trăm căn bệnh khác mà các hải âu có thể chống lại được. Cũng như tuổi già sau cùng cũng tới, không có sự miễn nhiễm nào trước một viên đạn cả. Mà tôi thì không muốn chết. Tôi phải sống vì Marion. Hendrich đã làm tôi tin rằng chúng tôi đang ngày càng đến gần hơn với việc tìm ra con bé.
Ít nhất một kẻ trong bọn chúng vẫn chĩa súng lục vào tôi không rời trong suốt lúc tôi đào. Tình hình này không đổi khi chúng ra hiệu cho tôi ra khỏi hố. Và suốt thời gian đó hai con ngựa ô Saddlebred vẫn vừa gặm cỏ vừa rủ rỉ với nhau.
“Nào,” Joe nói, khi tôi lết ra khỏi hố, đảm bảo mình vẫn cầm theo cây xẻng. Tôi dựa vào nó, như để nghỉ lấy sức. “Chúng tao không định chôn tiền của mầy theo đâu. Dốc sạch ví xuống đất đi.”
Tôi biết thời cơ đã tới. Thời cơ duy nhất tôi có. Tôi liếc về phía lũ ngựa vẻ tò mò, khiến hai tên kia cũng nhìn theo. Khi đôi mắt sắc lạnh của Joe nhìn trở lại phía tôi, cây xẻng đã vung nhanh vào mặt y. Y ngã ngửa ra sau, gần như bất tỉnh, buông tay khỏi khẩu súng, khiến nó rơi thịch xuống đất.
“Giết nó,” Joe líu nhíu.
Louis, kẻ mà tôi đánh liều phỏng đoán là hèn nhát hơn một chút, bóp cò chậm hơn một chút, nhả đạn đúng lúc tôi đang lồm cồm vớ lấy súng của Joe. Âm thanh dội khắp sa mạc trong khi cơn đau nhói lên nơi lưng tôi, gần vai phải. Nhưng tôi có súng của Joe và một cánh tay khỏe mạnh, vì thế tôi xoay người bắn vào cổ Louis, hắn đáp trả nhưng lần này chỉ trúng vào màn đêm. Rồi tôi cũng bắn Joe vài phát và máu loang đen trong bóng tối, rồi bằng cách nào đó trong cơn đau, tôi vẫn có thể vận sức đá và vần chúng xuống nấm mộ tôi đã đào rồi phủ đất lên chúng. Tôi vỗ mông một con ngựa để nó phóng đi, sau đó ì ạch leo lên con kia.
Cơn đau dữ dội hơn tất cả những gì tôi từng trải qua, nhưng bằng cách nào đó tôi nén lại được và cứ đi, đi mãi, đi mãi, băng qua sa mạc và vượt những đồi những núi khô cần rồi qua một cái mỏ lớn mà trong tâm trí sảng loạn của tôi, nó nom như bóng tối của cửa tử đang vẫy gọi, tựa sông Styx. Tôi cưỡng lại sự mời gọi và con ngựa tiếp tục đi thâu đêm cho đến khi tôi tới Tucson vào lúc mặt trời ban sáng chầm chậm tỏa rạng trên bầu trời và tìm thấy quán trọ Arizona, rồi ở đó, Agnes xối rượu vào vết thương của tôi và tôi cắn chặt chiếc khăn ướt để kìm tiếng hét lúc chị ta gắp viên đạn ra khỏi da thịt tôi.