Los Angeles, 1926
Vết thương do đạn bắn đang lành lại, nhưng vai tôi vẫn còn đau. Tôi đang ở Chung cư & Khách sạn Garden Court trên đại lộ Hollywood, trong một nhà hàng thuộc khuôn viên tòa nhà. Toàn bộ là đá cẩm thạch, với những cây cột cùng vẻ tráng lệ. Một phụ nữ vẻ ngoài ma mị tô son môi màu đen với khuôn mặt nhợt nhạt ma quái đang ngồi ở bàn không xa, nói chuyện với hai gã đàn ông vận đồ doanh nhân xun xoe. Đó là Lillian Gish, ngôi sao màn bạc. Tôi nhận ra cô từ bộ phim Orphans of the Storm , lấy bối cảnh cách mạng Pháp.
Trong thoáng chốc, tôi đã bị mê hoặc.
Tôi đã nuôi dưỡng sở thích đi xem phim trong thời gian ở Albuquerque suốt tám năm qua. Cái cách ta có thể ngồi một mình tầm hơn một tiếng đồng hồ trong bóng tối và quên đi ta là ai, để mặc bản thân cảm nhận những gì mà bộ phim bảo ta cảm nhận.
“Tất cả bọn họ đều quy tụ tại đây,” Hendrich kín đáo giải thích trong lúc chuẩn bị đánh chén món cá bơn lưỡi ngựa xốt tôm hùm. “Gloria Swanson, Fairbanks, Fatty Arbuckle, Valentino. Mới tuần trước Chaplin còn ngồi ngay bàn này. Chỗ cậu đang ngồi. Cậu ta chỉ ăn xúp. Đó là toàn bộ bữa ăn của cậu ta. Độc có xúp.”
Hendrich ngoác miệng cười. Tôi chưa bao giờ ghét điệu cười ấy cho mãi đến lúc này. “Sao thế Tom? Do thịt bò hả? Có vẻ hơi quá lửa.”
“Thịt bò ngon mà.”
“Ồ, vậy là do chuyện xảy ra ở Arizona?”
Tôi suýt bật cười trước câu nói ấy. “Còn chuyện gì khác nữa? Tôi đã phải giết hai người đấy.”
“Nói nhỏ thôi. Tôi ngờ là cô Gish rất muốn nghe những chuyện như vậy đấy. Thận trọng giùm đi, Tom.”
“Chà, tôi không hiểu sao ta phải làm việc này trong nhà hàng. Tôi tưởng ông có một căn hộ trên tầng mà.”
Ông ta có vẻ lúng túng. “Tôi thích nhà hàng. Được ở bên mọi người thì lúc nào cũng thật dễ chịu. Cậu không thích ở bên mọi người à, Tom?”
“Để tôi nói cho ông biết điều tôi không thích...”
Ông ta phất tay, như thể đang mời tôi bước qua cánh cửa. “Mời cậu,” ông ta nói. “Nói tôi nghe cậu không thích gì đi. Nếu làm thế khiến cậu thấy vui.”
Tôi nhoài người ra trước thì thầm. “Tôi không thích tẩu thoát khỏi hiện trường giết người trên lưng ngựa với một viên đạn găm vào vai. Một viên đạn đấy. Và... và...” Tôi thất thần. “Tôi không muốn làm thế. Tôi không muốn giết chúng.”
Ông ta thở dài bình thản. “Tiến sĩ Johnson đã nói gì ấy nhỉ? Kẻ nào biến bản thân thành quái vật thì sẽ thoát được khỏi nỗi đau làm người. Cậu biết tôi nghĩ gì không? Tôi nghĩ cậu đang tìm kiếm bản thân. Cậu lạc lối. Cậu thậm chí không biết mình là ai hay thứ gì. Cậu không có mục đích. Cậu sống trong cảnh nghèo nàn. Cậu quẩn quanh ủ rũ, tự làm bỏng chính mình hòng cảm nhận được gì đó. Giờ nhìn xem. Cậu đã có mục đích.” Ông ta đợi trong giây lát. “Món xốt tôm hùm này ngon bá cháy.”
Người hầu bàn đến rót thêm rượu. Chúng tôi tập trung ăn cho đến khi anh ta lại biến mất. Đàn piano bắt đầu tấu lên. Một vài thực khách dựa vào ghế, nhìn nghệ sĩ chơi đàn trong vài giây.
“Tôi chỉ nói là tôi không thích thôi. Những kẻ đó sẽ không đời nào gia nhập hội. Ông nên biết điều đó mới phải. Lẽ ra tôi nên được biết, Hendrich ạ.”
“Mong cậu hãy cố gọi tôi là Cecil. Ở đây tôi là Cecil. Câu chuyện cuộc đời của tôi là kiếm tiền ở San Francisco. Phát triển bất động sản. Tôi góp phần tái xây dựng thành phố. Sau trận động đất. Trông tôi không giống một tay Cecil nào đó à? Hãy gọi tôi là Cecil. Người ta sẽ nghĩ tôi là Cecil B. DeMille, tôi có thể hô biến họ thành ngôi sao. Việc này có thể khiến tôi làm gì đó...”
Ông ta trôi vào trong dòng suy nghĩ. “Tôi yêu thị trấn này. Giờ tất cả bọn họ đều đổ đến đây. Tất cả những cô gái nông trại trẻ trung từ Nam Dakota hay Oklahoma hay châu Âu. Thành phố này có vẻ vẫn luôn như thế. Trong kỷ Băng Hà, động vật từng đến đây và bị mắc kẹt trong vũng hắc ín nom như những mặt hồ lấp loáng và mùi thịt sẽ dụ những loài vật khác tới để rồi bị dính bẫy trong lớp hắc ín đen đặc. Dù sao đi nữa, tôi kiểu như là một kẻ săn mồi an toàn. Người ta cho rằng tôi hơn bảy mươi tám tuổi. Bảy mươi tám! Tưởng tượng mà xem. Ở tuổi bảy mươi tám tôi đang lông bông quanh Flanders. Tôi là kẻ ngựa quen đường cũ. Biết bao lời cầu hôn mà tôi đã ngỏ. Tôi là Valentino của Vùng Đất Thấp...”
Tôi nốc một ngụm rượu lớn. “Tôi không thể làm vậy được, Hendrich ạ, tôi không làm được.”
“Cecil, làm ơn. ”
“Tôi xin lỗi vì đã đi gặp bác sĩ Hutchinson. Nghiêm túc đấy. Nhưng tôi muốn có lại cuộc sống cũ. Tôi chỉ muốn lại được là chính mình.”
“Tôi e rằng điều này, như người ta nói, là bất khả. Thời gian cứ trôi đi. Chúng ta có dư dả thời gian nhưng vẫn không thể đảo ngược nó được. Chúng ta không thể dừng thời gian lại. Chúng ta di chuyển một chiều, hệt như hết thảy những phù du này. Cậu không thể cứ vậy tách khỏi hội cũng như không thể có chuyện cậu chưa từng được sinh ra. Cậu hiểu điều đó chứ Tom? Còn con gái cậu thì sao, Tom? Chúng ta sẽ tìm thấy con bé. Chúng ta sẽ tìm thấy.”
“Nhưng các ông có tìm thấy đâu.”
“Chưa thôi, Tom ạ, chúng ta chưa tìm thấy. Tôi có linh cảm con bé đang ở ngoài kia, Tom ạ. Tôi biết là nó ở ngoài kia. Nó ở đó , Tom à.”
Tôi lặng thinh. Tôi giận dữ, phải, nhưng như chuyện thường xảy ra với cơn giận, đó chẳng qua là nỗi sợ hãi được phóng chiếu ra bên ngoài. Hội không là gì cả - nó không tồn tại hữu hình trong thế giới thực, chẳng có lấy một tấm biển đá bên ngoài một tòa nhà lớn thông báo về sự hiện hữu của nó. Nó chỉ là Hendrich và những người đặt niềm tin vào ông ta. Dẫu vậy... Hendrich là đủ. Năng lực của ông ta. Thật vậy, có khi chính năng lực đó đã khiến ông ta dụ được tôi vào tròng lần nữa, chỉ nhờ dùng đúng lời đúng lẽ. Có khi nó không phải là lời nói suông. Có khi ông ta thực sự có thể linh cảm được con bé ở ngoài kia.
Nhưng rồi một suy nghĩ nảy ra. “Nếu năng lực của ông tốt đến vậy, thì tại sao ông không biết? Tại sao ông không biết chúng đã có thể lấy mạng tôi?”
“Chúng nào đã lấy được mạng cậu. Giả dụ chúng giết cậu thật thì, đúng vậy, tôi đã phạm một sai lầm khủng khiếp. Nhưng thực tế cậu là người sống sót, và tôi đã biết điều đó, và nó đã được chứng thực. Hiển nhiên, chúng ta đều là những kẻ sống sót. Nhưng cậu... tôi không rõ nữa. Có điều gì đó đặc biệt ở cậu. Cậu có khát vọng sống. Khi đến độ tuổi của cậu, hầu hết mọi người đều có cảm giác mọi thứ đã ở sau lưng. Nhưng khi nhìn cậu, tôi thấy một niềm khao khát tương lai, một sự mong mỏi mãnh liệt. Vì con gái cậu, phải, nhưng còn vì điều gì đó khác nữa. Một bí ẩn lớn.”
“Nhưng đây là cuộc sống kiểu gì chứ? Cứ tám năm một lần lại phải thay tên đổi họ?”
“Trước đó, cậu đã phải biến mình thành một con người khác rồi. Có gì khác nhau nào?”
“Khác ở chỗ tôi được quyền quyết định. Đó là cuộc sống của tôi .”
Ông ta lắc đầu, mỉm cười vẻ nghiêm nghị. “Không. Cậu đang ẩn dật. Cậu đang trốn tránh cuộc đời. Tôi dám cá là, cậu đang trốn tránh chính mình.”
“Nhưng đó chẳng phải là mục đích của hội sao? Trốn tránh?”
“Không, Tom à, không. Cậu hiểu lầm hết rồi. Nhìn chúng ta này. Ở giữa nhà hàng nổi tiếng nhất tại một thành phố ngập nắng ai ai cũng ao ước ghé thăm. Chúng ta không trốn tránh. Ta không náu mình ở St Albans, kéo kim loại ra khỏi lò rèn. Mục đích hội nhắm tới là cung cấp một cấu trúc, một hệ thống , tạo điều kiện cho chúng ta cải thiện cuộc sống của mình. Thỉnh thoảng cậu mới phải ra tay hỗ trợ, làm công việc tuyển mộ, rồi cậu được sống một cuộc sống êm đẹp. Thế mà cậu cảm ơn tôi như thế này đây.”
“Tôi mới dành tám năm trên một nông trại ở Albuquerque chỉ có ba con bò và mấy cây xương rồng làm bạn. Xem ra hội đối xử với một số người tốt hơn với những kẻ còn lại đấy.”
Hendrich lắc đầu. “Tôi mang theo một lá thư gửi cậu đây, của Reginal Fisher. Cậu nhớ không? Người cậu đã tuyển mộ ở Chicago ấy?”
Ông ta giao thư cho tôi và tôi liền đọc. Đó là một lá thư dài. Dòng nổi bật là dòng này, gần cuối. Tôi lẽ ra đã phản bội Chúa mà kết liễu đời mình nếu như anh không bao giờ đến gặp tôi, nhưng giờ tôi cảm thấy hạnh phúc lắm, khi biết rằng mình không phải một cá thể kỳ dị giữa loài người, mà là một thành viên của gia đình.
“Được rồi, Arizona là một sai lầm. Nhưng không phải mọi thứ đều vậy. Nhiều mạng sống đã mất trong chiến trận nhưng đâu có nghĩa là người ta không nên chiến đấu. Cậu có đàn piano, Tom nhỉ. Cậu có chơi không?”
“Năm tiếng một ngày.”
“Thế giờ cậu biết chơi bao nhiêu nhạc cụ?”
“Chừng ba mươi.”
“Ấn tượng đấy.”
“Không hẳn đâu. Hầu hết trong số đó không ai còn muốn nghe nữa. Khó mà chơi được nhạc của Gershwin bằng đàn luýt.”
“Phải.” Hendrich ăn nốt miếng cá cuối cùng. Đoạn nhìn tôi vẻ nghiêm túc. “Cậu là kẻ giết người, Tom ạ. Không có sự che chở của hội thì giờ cậu xong đời rồi. Cậu cần chúng tôi. Nhưng tôi không muốn cậu ở lại chỉ vì cậu cần phải thế, Tom à... Tôi hiểu ý cậu, tôi hiểu ý cậu. Tôi hiểu. Và tôi sẽ không bao giờ quên những người mà cậu đã cứu mạng bằng cách đưa họ vào hội. Vì thế, từ giờ trở đi tôi sẽ quan tâm nhiều hơn một chút đến những gì cậu cần. Tôi sẽ phân bổ thêm người và nguồn lực để tìm Marion. Chúng ta đã có vài người mới. Người ở London. Kẻ ở New York. Người ở Scotland. Kẻ ở Vienna. Tôi sẽ để họ bắt tay vào việc. Và, tất nhiên, tôi sẽ tài trợ cho những nhu cầu đó. Tôi sẽ lắng nghe. Tôi sẽ tận tâm tận lực giúp cậu. Tôi muốn cậu sống tốt hơn, Tom. Tôi muốn cậu không chỉ tìm được Marion mà còn cả tương lai cậu đang chờ đợi nữa...”
Một nhóm bốn người đàn ông vào phòng và được hộ tống tới một bàn. Một người trong số đó có khuôn mặt dễ nhận ra nhất trên hành tinh này. Đó là Charlie Chaplin. Anh ta nhận ra Lillian Gish bèn đi tới chào cô, vẻ mặt điềm tĩnh được thay bằng nụ cười bồn chồn thoáng qua không mấy khi xuất hiện. Cô cười duyên dáng. Tôi đã thở cùng bầu không khí với Shakespeare, và giờ tôi đang thở chung bầu không khí với Chaplin. Sao tôi có thể không cảm kích chứ?
“Chúng ta là những sợi chỉ vô hình của lịch sử,” Hendrich nói, như thể đọc được tâm trí tôi. Chaplin thấy chúng tôi nhìn bèn nghiêng chiếc mũ quả dưa tàng hình về phía chúng tôi.
“Thấy chưa. Đã bảo mà. Anh ta thích chỗ này. Hẳn là do món xúp. Giờ thì, cậu muốn làm gì với đời mình nào?”
Tôi cân nhắc đến sự chú ý mà Chaplin đang nhận được, và không thể nghĩ ra có cơn ác mộng nào ghê khiếp hơn. Thế rồi, trong khi tiếp tục nghiền ngẫm câu hỏi, tôi nhìn chăm chăm vào nghệ sĩ piano, trong chiếc áo vét dạ tiệc trắng, nhắm mắt phiêu diêu, nốt nọ tiếp nốt kia, nhịp nọ nối nhịp kia, chẳng ai chú ý tới trừ tôi.
“ Kia ,” tôi nói, hất đầu về phía nghệ sĩ piano. “Kia là việc tôi muốn làm.”