← Quay lại trang sách

London, hiện tại

“Nhưng tại sao Hội Quốc Liên không thể ngăn Mussolini tiến vào Abyssinia ạ?”

Aamina ngồi hàng đầu. Nghiêm túc, chau mày, tập trung cao độ, tay cầm bút chì, con bé mặc chiếc áo phông có dòng chữ “Proud Snowflake”.

Tôi đang giảng về nguyên nhân dẫn tới Thế Chiến II, cố gắng quay ngược thời gian từ năm 1939 về tới đầu thập niên 1930, nói về việc Italy thôn tính Abyssinia, giờ là Ethiopia, vào năm 1935, cũng như sự trỗi dậy của Hitler năm 1933, nội chiến Tây Ban Nha và cuộc Đại Suy Thoái.

“Ừm, họ đã cố gắng, nhưng theo cách rất nửa vời. Các lệnh trừng phạt kinh tế, nhưng không có chỉ thị nào được thực thi đến nơi đến chốn cả. Nhưng vấn đề là, vào thời điểm đó, nhiều người không nhận ra họ đang đương đầu với điều gì. Các em thấy đấy, khi ta nhìn vào các sự kiện lịch sử, luôn có triển vọng hai chiều. Tiến và lùi. Nhưng vào thời điểm đó, mọi thứ đều chỉ là một chiều. Không ai biết chủ nghĩa phát xít đang hướng tới đâu.”

Bài giảng đang diễn ra êm xuôi và cơn đau đầu của tôi cũng không quá tệ - tôi nghĩ việc làm lành với Camille đã giúp ích - nhưng có lẽ vì thế mà tôi đã trót bật chế độ tự động. Tôi không thực sự suy nghĩ về những gì mình đang nói.

“Thế nhưng, tin tức về Abyssinia như một bước ngoặt thực sự. Nó khiến mọi người nhận thấy có chuyện gì đó đang diễn ra. Không chỉ với Đức mà cả Italy. Với trật tự thế giới. Thầy nhớ đã đọc một tờ báo vào ngày Mussolini tuyên bố chiến thắng và thầy...”

Chết tiệt.

Tôi dừng lại.

Nhận ra mình vừa nói gì.

Aamina, bén nhọn y như cây bút chì của nó, cũng nhận ra. “Thầy nói như thể thầy đã ở đó vậy,” nó nói.

Vài học sinh khác cũng gật đầu đồng tình.

“Không, thầy không ở đó, nhưng thầy có cảm giác như vậy. Lịch sử là thế đấy. Ta cư trú trong đó. Đó là một hiện tại khác...”

Aamina bày ra vẻ mặt buồn cười.

Tôi tiếp tục. Che đậy dấu vết của mình, tôi nghĩ. Đó là một lỗi vặt vãnh tuy nhiên là loại lỗi mà tôi chưa từng phạm phải.

Giờ giải lao, tôi thấy Camille đang tán gẫu với ai đó ngoài hành lang. Dựa người vào một tác phẩm nghệ thuật của học sinh lấy cảm hứng từ các khu ổ chuột của Rio, màu sắc chói rực, theo trường phái Dã thú và mang phong cách cuối thế kỷ mười chín.

Cô đang nói chuyện với Martin. Giáo viên âm nhạc vô vọng. Martin mặc quần jean đen áo phông đen. Anh ta để râu còn tóc dài hơn tóc của một thầy giáo bình thường. Tôi không biết họ đang nói chuyện gì, nhưng anh ta làm Camille cười. Tôi cảm thấy một nỗi bất an kỳ lạ. Rồi sau đó tôi đi qua, Martin nhìn thấy tôi trước và cười mỉa, như thể tôi làm anh ta buồn cười vậy. “Chào Tim. Trông anh hơi lạc lối đấy. Người ta có đưa anh bản đồ không?”

“Tom,” tôi nói.

“Sao cơ, anh bạn?”

“Tôi tên là Tom. Không phải Tim. Là Tom.”

“Được thôi, anh bạn. Nhầm tí ấy mà.”

Camille mỉm cười với tôi. “Giờ dạy thế nào?” cô hỏi, ánh mắt dán vào tôi như một thám tử. Một thám tử tươi cười nhưng vẫn là thám tử.

“Ốn cả,” tôi đáp.

“Nghe này, Tom, thứ Năm nào mấy người chúng tôi cũng tới Coach & Horses làm vài ly. Chúng tôi hẹn nhau lúc bảy giờ. Tôi, Martin, Isham, Sarah... Anh đi cùng cho vui nhé. Rủ anh ấy đi, Martin.”

Martin nhún vai. “Đây là thế giới tự do mà. Đúng vậy đấy, chơi tới bến đi.”

Tất nhiên, chỉ có một câu trả lời duy nhất mà tôi nên đưa ra. Không. Nhưng tôi liếc nhìn Camille và thấy mình đáp, “Vâng, được. Coach & Horses, bảy giờ. Nghe hay đấy.”

Khúc nhạc dạo về piano

Tôi di chuyển từ nơi này đên nơi khác và lúc này sang lúc khác tựa một mũi tên miễn nhiễm với trọng lực.

Mọi chuyện quả là có tốt lên trong một thời gian ngắn.

Vai tôi đã lành lại.

Tôi trở lại London. Hendrich bố trí cho tôi một chân đánh đàn piano trong khách sạn ở London. Cuộc sống thuận buồm xuôi gió. Tôi uống cocktail và tán tỉnh những phụ nữ thanh lịch diện đầm đính hạt rồi lao vào màn đêm khiêu vũ theo điệu nhạc jazz với những cậu trai chơi bời và những cô nàng tiệc tùng. Đó là quãng thời gian hoàn hảo với tôi, khi mà tình bạn và các mối quan hệ được trông đợi sẽ bùng lên cuồng nhiệt rồi tắt ngấm trong sự trác táng chóng vánh thấm đẫm rượu gin. Thập niên 20 thét gào . Thời nay người ta gọi như vậy nhỉ? Và nếu đem so với những thời đại trước đó thì đúng là họ đã bật ra tiếng gào. Tất nhiên, London các thập niên trước đây thật ồn ào - như thấp niên 1630 gầm vang, hay thập niên 1750 rộn rã tiếng cười - nhưng lần này khác. Lần đầu tiên trong lịch sử, âm thanh luôn hiện hữu, đâu đó ở London, mà điều này không tự nhiên cho lắm. Tiếng động cơ ô tô, âm thanh của hàng loạt rạp chiếu bóng, tiếng đài phát thanh, âm thanh của những con người đang gồng mình quá sức.

Đó là kỷ nguyên của tiếng ồn, và thế là bỗng nhiên việc chơi nhạc đóng một vai trò quan trọng mới. Nó khiến ta trở thành chủ nhân thế giới. Giữa mớ tạp âm ngẫu nhiên của cuộc sống hiện đại, việc biết chơi nhạc, cắt nghĩa được âm thanh, có thể chóng vánh biến ta thành một dạng thần. Một đấng sáng tạo. Một kẻ thiết lập trật tự. Một người xoa dịu ủi an.

Tôi thích vai của mình bấy giờ. Daniel Honeywell, sinh ra tại London, nhưng đã ngân rung những phím đàn piano cho các du khách thượng lưu và émigrés [1] trên những con tàu vượt đại dương kể từ thời Đại Thế Chiến. Dẫu vậy, nỗi sầu muộn vẫn dần len vào. Khi ấy tôi nghĩ đó là một chương khác trong nỗi sầu riêng tư của mình, sự vô ích của việc đem lòng yêu một người phụ nữ từ lâu đã không còn trên cõi đời này. Nhưng tôi nghĩ đó cũng là sản phẩm của việc hòa nhịp với thời đại.

Tôi muốn làm gì đó. Tôi chán ngấy việc chỉ sống vì mình rồi. Tôi muốn làm gì đó cho nhân loại. Xét cho cùng tôi là một con người và nỗi thấu cảm của tôi được dành cho những con người khác, không chỉ là những kẻ dính lời nguyền - hoặc món quà - sống siêu thọ. “Tội lỗi thời gian,” Agnes đã gọi nó như vậy, khi tôi tán gẫu với chị ta về chuyện đó. Chị ta đến gặp tôi tại London, khi tám năm của tôi sắp kết thúc. Chị ta sống ở Montmartre. Chị ta có cả đống chuyện để kể. Chị ta vẫn vui vẻ.

“Tôi có cảm giác sợ hãi,” tôi tâm sự với chị ta, chân chị ta gác lên bụng tôi, trong khi chúng tôi nằm ườn trên giường hút xì gà trong căn hộ của tôi ở Mayfair. “Tôi cứ gặp ác mộng suốt.”

“Cậu có đọc Freud không?”

“Không.”

“Ừm, thế thì đừng. Sẽ khiến cậu cảm thấy tệ hơn đấy. Dường như chúng ta không nắm quyền kiểm soát chính mình. Chúng ta bị điều khiển bởi những phần vô thức trong tâm trí. Sự thật duy nhất chúng ta có thể hy vọng tìm ra về bản thân mình nằm trong những giấc mơ. Ông ấy nói rằng hầu hết mọi người không muốn được tự do. Bởi tự do liên quan đến trách nhiệm, mà hầu hết mọi người đều sợ trách nhiệm.”

“Tôi nghĩ hiển nhiên Freud chưa bao giờ phải thay đổi danh tính tám năm một lần.”

Rồi chúng tôi lên đường thực hiện cái mà Agnes gọi là một “cuộc phiêu lưu” - một nhiệm vụ mà Hendrich đã đánh điện giao cho chúng tôi. Đó là một nhiệm vụ sẽ được chúng tôi thực hiện cùng nhau. Chúng tôi lái ô tô tới tận Yorkshire. Nơi miền quê hoang vắng trong một nhà thương điên mang kiến trúc Gothic gớm guốc có tên bệnh viện High Royds, một cô gái bị nhốt can tội kể cho người khác nghe sự thật về tình trạng của mình. Chúng tôi bắt cóc cô từ chỗ đó. Agnes úp chiếc khăn tay tẩm thuốc mê lên mặt ba nhân viên bệnh viện, rồi làm tương tự với Flora Brown tội nghiệp đang sợ chết khiếp trước sự xuất hiện của hai kẻ lạ che khăn kín mặt, âu cũng là điều dễ hiểu.

Dù sao thì chúng tôi đã đưa cô ra khỏi đó và tẩu thoát khá trót lọt, và, vì lý do nào đó - nỗi xấu mặt của bệnh viện? Việc không mảy may đoái hoài tới bệnh nhân? sự thất bại của chính quyền địa phương trong việc kiểm tra hồ sơ? - vụ việc này không bao giờ xuất hiện trên mặt báo. Giả mà có thì chúng tôi cũng vẫn an toàn, Hendrich sẽ ra tay xử lý, nhưng thực tế lại không, và chuyện đó luôn khiến tôi cảm thấy buồn vô cùng.

Dù sao thì Flora còn trẻ. Cô mới tám mươi tuổi. Trông cô như mười bảy, mười tám. Khi chúng tôi tìm thấy cô, cô tơi tả, hoang mang sợ hãi, lắp bắp không nên câu, nhưng hội đã cứu vớt cô; thật vậy, như cách nó đã cứu vớt nhiều người khác. Cô đã thực tâm nghĩ mình bị điên, và khi phát hiện ra mình tỉnh táo, cô đã thổn thức vì nhẹ nhõm. Cô đến Australia cùng Agnes và bắt đầu một cuộc sống mới. Rồi cô chuyển tới Mỹ và bắt đầu một cuộc sống khác. Nhưng cái chính là: hội đang làm việc thiện. Cứu người. Flora Brown. Reginald Fisher. Còn nhiều, nhiều nữa. Và có lẽ cả bản thân tôi. Tôi nhận ra Hendrich nói đúng. Tất cả chuyện này đều có ý nghĩa và mục đích. Có lẽ không phải lúc nào tôi cũng tin tưởng ông ta, nhưng - phần lớn thời gian - tôi tin tưởng công việc này.

Tôi không muốn trở lại London. Tôi đánh điện báo với Hendrich rằng tôi đã thu xếp với chủ quán Ciro để làm việc cho nhà hàng cùng hệ thống của họ, trong một khách sạn ở Paris. Thế là, tôi đến sống tại đồi Montmartre, trong chung cư nơi Agnes đã sống. Tôi là “em trai” chị ta. Cuộc đời chúng tôi giao nhau trong một thời gian ngắn. Sở dĩ tôi nhắc đến chuyện này là bởi chúng tôi đã có một cuộc trò chuyện rất thú vị. Chị ta nói với tôi rằng khi già đi, khoảng chừng năm trăm tuổi, các hải âu đều có được một cái nhìn sâu sắc.

“Cái nhìn kiểu nào vậy?”

“Đáng kinh ngạc lắm. Như con mắt thứ ba. Cảm nhận thời gian trở nên sâu sắc đến độ bên trong mỗi một khoảnh khắc ta có thể nhìn thấu mọi thứ. Ta có thể thấy quá khứ và tương lai. Tựa hồ mọi thứ dừng lại và, chỉ trong khoảnh khắc đó thôi, ta biết mọi chuyện sẽ đi tới đâu.”

“Thế là tốt hay không? Nghe đáng sợ thế nào ấy.”

“Không tốt cũng chẳng đáng sợ. Chỉ vậy thôi. Đó chỉ là một thứ cảm nhận mạnh mẽ đáng kinh ngạc, không tốt cũng chẳng xấu, nơi mọi thứ trở nên rành rõ.”

Rất lâu sau khi chị ta rời đi, tôi vẫn nhớ đến cuộc trò chuyện đó. Đôi khi tôi khao khát một sự rành rõ như vậy khi tôi hầu như không hiểu nổi hiện tại của mình, huống hồ là tương lai.

Cuối cùng tôi chuyển tới Montparnasse và viết rất nhiều bài thơ. Tôi từng viết một bài thơ trong một nghĩa địa ở đó, khi dựa vào bia mộ của Baudelaire, và đêm nào tôi cũng chơi piano, kết mối sơ giao hời hợt nhất với những nhà thơ, họa sĩ và nghệ sĩ, chỉ thường kéo dài một đêm.

Tôi neo đậu bản thân trong âm nhạc. Ngoài Ciro, thỉnh thoảng tôi làm việc ở một câu lạc bộ jazz tên là Les Années Folles. Bấy giờ tôi đã chơi piano gần như liên tục suốt ba thập kỷ và nó đã trở nên rất đỗi thân thuộc với tôi. Piano có thể chất chứa nhiều thứ. Nỗi buồn, niềm hạnh phúc, niềm vui khờ dại, sự tiếc nuối, khổ đau. Đôi khi là tất cả cùng một lúc.

Tôi tạo dựng một thói quen. Bắt đầu một ngày với một điếu Gauloise rồi tới quán cà phê Le Dôme trên đại lộ Montparnasse và ăn bánh ngọt (thường khi tôi ra khỏi chung cư thì đã trưa trờ trưa trật). Thi thoảng tôi uống cà phê. Thường xuyên hơn thì là cognac. Đồ uống có cồn đã trở nên không chỉ là đồ uống có cồn. Mà nó có cảm giác giống như tự do. Uống rượu vang và cognac gần như là một nghĩa vụ đạo đức. Và tôi cứ uống, uống nữa, uống mãi, cho đến khi gần như thuyết phục được bản thân rằng mình hạnh phúc.

Nhưng cảm giác có thứ gì đó làm lệch cán cân. Các thời đại dường như trật khớp. Có quá nhiều sự suy đổi. Quá nhiều căng thẳng. Quá nhiều thay đổi. Quá nhiều hạnh phúc song hành cùng quá nhiều khổ đau. Quá nhiều sự giàu có kế bên quá nhiều nghèo khổ. Thế giới đang trở nên vội vã hơn ồn ã hơn, và hệ thống xã hội đang trở nên hỗn loạn và vụn vỡ như tổng phổ nhạc jazz. Thành thử, ở một số nơi, người ta trở nên khao khát sự giản đơn, trật tự, những kẻ giơ đầu chịu báng và những nhà lãnh đạo quyết đoán, mong mỏi các quốc gia trở thành một dạng tôn giáo hoặc giáo phái. Thi thoảng chuyện đó vẫn xảy ra.

Dường như, trong thập niên 1930, cả tiến trình của loài người đã lâm nguy. Như chuyện thường ngày ở huyện ngày nay. Quá nhiều người muốn tìm câu trả lời dễ dàng cho những câu hỏi phức tạp. Đây là thời điểm nguy hiểm để làm người. Để cảm nhận hoặc suy nghĩ hoặc quan tâm. Vì thế, sau khi rời Paris, tôi ngừng chơi piano. Và không chơi lại nữa. Piano đã vắt kiệt tôi. Tôi thường tự hỏi liệu có bao giờ mình chơi lại hay không. Và tôi không biết có bao giờ, có bao giờ tôi từ chối ngồi bên Camille khi cơ hội đến.

[1]

Người lưu vong. (tiếng Pháp)