London, hiện tại
Chúng tôi đang ở trong một quán bar kiêm nhà hàng sang trọng trong nhà hát Globe mới.
Tôi thấy bồn chồn. Không phải do địa điểm. Mà là chính Camille. Bí ẩn thật kinh hoàng. Làm thế nào mà cô biết về quán Ciro? Làm sao cô có thể? Tôi sợ tất cả những câu trả lời mình nghĩ ra, lẫn những câu mình chưa biết. Tôi sợ cho cô. Tôi sợ cho mình. Tôi giật mình thon thót nhìn quanh như một con chim báo điềm gở trên bậu cửa sổ. Nhưng còn có một lý do khác khiến tôi sợ hãi. Tôi sợ bởi đến tận bây giờ tôi vẫn sống sót.
Ý tôi là đã lâu tôi không còn hăng hái muốn kết liễu đời mình nữa. Chính xác thì lần cuối cùng là trong một boong ke gần Tarragona trong nội chiến Tây Ban Nha, khi tôi nhét một khẩu súng lục vào miệng và chuẩn bị thổi bay đầu mình. Chỉ dựa vào cách buộc mình không được rời mắt khỏi đồng xu may mắn của Marion, tôi mới giữ được não mình ở yên trong sọ. Nhưng đó là năm 1937. Đã lâu lắm rồi tôi không còn hăng hái tìm đến cái chết nữa.
Gần đây, tôi nghĩ mình muốn thoát khỏi Hendrich nhưng có lẽ, thực sự, đó là sai lầm. Phải, tôi thuộc “sở hữu” của Hendrich nhưng vẫn thoải mái. Ý chí tự do phải chăng đã bị đánh giá quá tầm.
“Âu lo,” Kierkegaard đã viết, vào giữa thế kỷ mười chín, “là cơn chếnh choáng của tự do.”
Tôi đã đau đớn vì cái chết của Rose suốt nhiều thế kỷ, và nỗi đau đó đã phai nhòa thành sự tồn tại đơn điệu trung tính, rồi lại tiếp tục trước khi tôi kịp thu thập bất cứ lớp rêu phong cảm xúc nào. Tôi đã thưởng thức được nào âm nhạc nào đồ ăn nào thi ca nào rượu vang đỏ cùng những khoái cảm mỹ học của thế giới và, giờ tôi nhận ra, chuyện ấy hoàn toàn ổn.
Đúng, có một khoảng trống bên trong tôi, nhưng những khoảng trống đã bị coi nhẹ. Những khoảng trống không chỉ thiếu vắng yêu thương mà còn cả nỗi đau. Sự trống rỗng không phải là không có ưu điểm. Ta có thể đi lại loanh quanh trong sự trống rỗng.
Tôi cố gắng dặn mình chỉ gặp cô vì những gì cô sắp tiết lộ, và tôi không cần phải cho cô biết bất cứ điều gì để đổi lại. Nhưng thật kỳ lạ khi ở đây. Nhất là lại ở đây.
Tôi đã không đến chốn này kể từ cái ngày tôi nhảy xuống sân khấu từ khu ghế nhạc công. Cái ngày tôi hạ cánh xuống lưng Will Kemp và gặp lại Manning. Đó là ngày của một lời thú tội khác, tất nhiên, với Rose. Và lúc này tôi có thể cảm thấy tiếng vọng yếu ớt của ngày hôm đó, giữa những tiếng trò chuyện lịch sự của tầng lớp trung lưu trong nhà hát và tiếng dao nĩa lách cách xung quanh.
Hình ảnh nổi tiếng của Shakespeare nhìn tôi chằm chằm từ mặt trước thực đơn. Tôi từng nghĩ trông nó chẳng giống ông gì cả - chỉ thấy mỗi trán và bộ tóc xấu xí và hàm râu mỏng cùng biểu cảm đờ đẫn - nhưng giờ đôi mắt dường như là mắt của ông . Dõi theo tôi, nhăn nhó, khi tôi tiếp tục băng qua cuộc sống. Như thể việc đó làm ông thích thú, nhìn kẻ mà ông đã ra tay giúp trốn thoát ngày hôm đó tiếp tục tấn bi hài kịch sống mãi không hồi kết.
Người phục vụ đã đến và Camille mỉm cười với anh ta.
Cô mặc áo sơ mi màu xanh lam đậm. Nom cô nhợt nhạt, hơi mệt mỏi, nhưng vẫn xinh đẹp.
“Cho tôi vi cá đuối,” cô nói với người phục vụ, đẩy gọng kính cao lên sống mũi một chút.
“Rất tuyệt,” người phục vụ nói, đoạn quay sang tôi.
“Cho tôi gnocchi với xốt pesto cải xoăn.”
Anh ta đón lấy hai cuốn thực đơn, cùng những bức chân dung ông chủ cũ của tôi, và tôi quay lại nhìn Camille, cố thả lỏng.
“Tôi xin lỗi,” tôi nói. “Vì đôi khi đã tỏ ra hơi kỳ quặc, ở trường.”
Camille lắc đầu. “Thật tình anh phải thôi nói thế đi. Luôn miệng xin lỗi không bao giờ là đặc điểm hấp dẫn cả.”
“Cô nói phải. Vấn đề là, tôi thực sự cư xử khá tệ, cô biết đấy, với con người .”
“À, họ. Con người. Vâng, khó thật đấy.”
“Và đôi khi có quá nhiều thứ xuất hiện trong đầu óc tôi.”
“Gia nhập câu lạc bộ đồng cảnh ngộ đi.”
“Có câu lạc bộ à?”
“Không. Có quá nhiều người cùng cảnh ngộ. Nhưng không sao. Cứ là chính anh thôi.”
“Tôi không phải là người quá cởi mở. Tôi buộc phải cẩn thận.” Tôi chắc chắn, khi nhìn cô, là mình chưa từng quen cô. Trong cái cuộc đời đầy những kiểu mẫu và con người quen thuộc này, cô có đặc điểm hiếm có tuyệt vời là không gợi tôi nhớ đến bất kỳ ai. Nhưng tôi phải hỏi. “Chúng ta chưa gặp nhau bao giờ phải không? Ý tôi là trước khi tôi gặp cô trong công viên hôm ấy. Tôi đã thấy cô một lần, từ cửa sổ phòng Daphne, nhưng trước đó ta chưa từng gặp nhau phải không?”
“Còn tùy anh hiểu gặp là sao nữa. Nhưng, không, theo nghĩa thông thường thì không.”
“Được rồi.”
“Vâng.”
Có một dạng bế tắc. Cả hai chúng tôi đều có nhiều câu hỏi hơn thế nhưng đều để chúng trong bao súng, chờ người kia nhả đạn trước. Chỉ một câu nói thôi cũng có thể biến một trong hai chúng tôi thành kẻ mất trí.
Chúng tôi nhấm nháp bánh mì lúa mạch đen và xiên quả ô liu bằng que cocktail.
“Cô thấy sao rồi?” tôi hỏi. Lời thăm hỏi vô vị nhất, nhưng chân thành.
Cô xé một ít bánh mì và nhìn chằm chằm vào nó một lúc, như thể bí mật nằm trong đó, được chứa đựng như mọi yếu tố trong vũ trụ, bên trong lớp bột men.
“Khá hơn nhiều rồi,” cô đáp. “Tôi mắc chứng động kinh lâu rồi. Từng tệ hơn nhiều nữa kia.”
Lâu rồi.
“Tức là trước đây cô từng bị động kinh nhiều lần rồi?”
“Vâng,” cô đáp.
Người phục vụ rót thêm rượu cho chúng tôi. Tôi nhấp một ngụm. Rồi ngụm nữa.
Camille nhìn tôi với ánh mắt mạnh mẽ. “Giờ đến lượt anh. Anh hứa rồi mà. Tôi cần nghe chuyện của anh.”
“Tôi muốn kể cho cô nghe về bản thân tôi chứ,” tôi nói với cô, vẫn không chắc cuối cùng sẽ hé lộ bao phần sự thật. “Nhưng có một số chuyện mà nếu không biết thì sẽ tốt hơn cho cô, cho bất kỳ ai.”
“Chuyện dính dáng đến phạm tội à?” Tôi cảm thấy như cô đang trêu chọc tôi.
“Không. Ý tôi là, ừ thì cũng có một vài trong số đó. Không. Tôi chỉ nói là nếu cô biết về tôi thì rất có khả năng cô nghĩ rằng tôi mất trí.”
“Philip K. Dick đã viết rằng đôi khi phát điên là phản ứng thích hợp với thực tế.”
“Nhà văn khoa học viễn tưởng à?”
“Vâng. Tôi là mọt đấy. Tôi mê khoa học viễn tưởng lắm.”
“Hay đấy,” tôi nói.
“Anh cũng thích à?”
Không , tôi là nó , tôi nhủ thầm.
“Một số. Frankenstein. Hoa trên mộ Algernon. ”
“Tôi muốn anh kể cho tôi về bản thân anh,” cô nói. “Ít nhất, hãy cho tôi biết anh định nói gì với tôi. Hãy cho tôi biết liệu tôi có điên hay không.”
Ngay lúc đó, tôi quả thực thiết tha được đặt dấu chấm hết bằng cách nói rằng cô có điên đấy . Nhưng thay vào đó, tôi lại nói, “Trước khi tôi kể cho cô nghe về tôi, cô phải kể cho tôi nghe về cô đã.” Giọng tôi nghe có vẻ cứng rắn hơn tôi muốn.
Đôi mắt mở to. “Tôi?”
Tôi hít vào thật sâu. Đến lúc rồi đây. “Tôi cần biết làm thế nào cô nhận ra tôi. Tôi cần biết tại sao cô lại nhắc đến quán Ciro. Quán Ciro đã đóng cửa cách đây tám chục năm rồi.”
“Tôi không già đến thế đâu.”
“Chính xác. Tôi đâu có nghĩ vậy.”
Một bài hát được bật lên. Cô nghiêng đầu. “A, tôi thích bài này. Nghe đi.”
Tôi lắng nghe. Một giai điệu tình cảm, ấm áp mà tôi thấy quen. “Coming Around Again” của Carly Simon.
“Trước đây mẹ tôi mê Carly Simon lắm.”
“Cả Michael Jackson nữa à?”
“Đấy là tôi chứ.”
Cô mỉm cười, và có một thoáng lúng túng khi cô nhận ra đến lượt mình phải giải thích về bản thân. Và trong khoảnh khắc đó tôi tưởng tượng cảnh mình ở bên cô. Như lúc trong quán rượu. Tôi tưởng tượng mình hôn cô. Lòng tôi thôi thúc muốn chạy trốn và nhờ Hendrich đặt vé máy bay cho tôi biến đến một nơi khác, một nơi nào đó tôi sẽ không bao giờ gặp lại cô. Nhưng đã quá muộn.
Cô đã sẵn sàng.
“Được rồi,” cô nói. “ Je vais m’expliquer [1] .”
Và cô nói.
Cô kể rằng cô bắt đầu mắc chứng động kinh năm bảy tuổi. Cha mẹ cô đã bố trí lại vật dụng trong nhà để bảo vệ cô. Thảm mềm. Góc bàn bọc khăn để giảm bớt độ sắc nhọn. Mất khá nhiều thời gian mới tìm được đúng phương thuốc. Và dần dà cô đâm ra sợ không gian rộng. “Hồi ấy, về cơ bản, tôi sợ cuộc sống.”
Năm mười chín tuổi, cô đính hôn với một nhà thiết kế web bảnh trai, hài hước tên là Erik - “kết thúc bằng chữ K”, mẹ anh ta là người Thụy Điển. Đó là Erik mà tôi đã thấy trên mạng. Facebook Erik. Anh ta mất năm 2011 trong khi leo núi.
“Tôi đã ở đó. Nhưng không leo núi, hiển nhiên rồi. Người bị động kinh thì không nên leo núi. Nhưng tôi đã ở đó. Với mấy người bạn của chúng tôi. Máu be bét. Suốt nhiều tháng, mỗi khi nhắm mắt tôi chỉ toàn thấy máu. Và giờ khi anh ấy mất rồi, tôi đã nghĩ, ừm... mẹ kiếp.”
Cô hít vài hơi. Nói về những kỷ niệm là làm chúng sống lại một chút.
“Tôi đã luôn lo lắng mình có thể chết bất cứ lúc nào. Tôi đã muốn được giống như anh ấy, khỏe mạnh, nhưng rồi - bùm - hóa ra anh ấy cũng có thể chết. Và nó vượt quá sức chịu đựng. Tôi phải thoát khỏi đó. Tôi phải ra ngoài, vì thế tôi đi du lịch. Tôi biết mình không thể tiếp tục sống theo kiểu bị tình trạng của mình biến thành tù nhân. Anh có hiểu không?”
Tất nhiên là tôi hiểu. “Sau đó thì sao? Mọi chuyện biến chuyển như nào?”
“Tôi đã đi du lịch vòng quanh Nam Mỹ trong sáu tháng. Brazil, Argentina, Bolivia, Colombia. Chile. Tôi yêu Chile. Một đất nước tuyệt vời. Nhưng rồi sau cùng hết sạch tiền nên tôi trở về Pháp mà không thể quay lại Grenoble - chỉ là chốn kỷ niệm thôi, anh biết đấy - thế nên tôi đến Paris. Tôi đã đi khắp các khách sạn và nhà hàng đẳng cấp và tìm được việc ở Plaza Athénée. Một trong những đại khách sạn hoa lệ. Công việc ấy có gì đó có tính chất xoa dịu. Ta nói chuyện với mọi người mọi lúc, cả ngày, làm thủ tục nhận phòng, trả phòng, nhưng không bao giờ có bất kỳ điều gì sâu sắc và ý nghĩa cả, anh biết chứ? Không bao giờ có bất kỳ câu hỏi nào về chuyện đời, vì thế nó như được đo ni đóng giày cho tôi vậy.”
Đây rồi. Tôi cảm nhận được nó. Nỗi lo lắng siết chặt lồng ngực tôi khi cô tiếp lời.
“Dù sao thì, họ trưng trong sảnh một số bức ảnh, về Paris thời Hoàng kim, tất thảy đều từ thập niên hai mươi. Rất nhiều trong số đó là ảnh các câu lạc bộ nhạc jazz, đại lộ, đồi Montmartre, và một tấm của ca sĩ nhạc jazz, vũ công... tên là gì ấy nhỉ, bên con báo đốm...”
“Josephine Baker?”
Khi nói ra cái tên đó, tôi nhớ đã ngắm nhìn cô qua làn khói thuốc đang nhảy điệu Charleston tại câu lạc bộ Thế Kỷ ở Paris.
Cô nhanh chóng gật đầu, tay khua tròn như thể sắp đi đến kết luận. Tôi gồng mình chuẩn bị tinh thần.
“Đúng rồi. Josephine Baker. Mà thôi, bức đối diện với tôi, bức ảnh tôi nhìn ngày này qua ngày khác, là to nhất: chụp nghệ sĩ piano trong một nhà hàng. Nhà hàng đó tên là Ciro. Trong ảnh ghi là Ciro. Ánh đen trắng thôi nhưng xét về mặt thời gian thì chất lượng đúng là quá tốt, và người đàn ông thì ngây ngất đắm chìm trong bản nhạc đang chơi, nhìn về phía trước qua cây đàn piano, không màng đến bao nhiêu người trong nhà hàng đang nhìn mình, và tôi đã bị cuốn hút bởi khoảnh khắc này, khoảnh khắc ngưng đọng này... Bởi ở nó có nét vượt thời gian. Một vẻ bất hủ. Mà người đàn ông cũng điển trai nữa. Anh ta có đôi tay đẹp. Khuôn mặt trăn trở suy tư. Anh ta vận chiếc áo sơ mi trắng tinh khôi, nhưng tay áo xắn lên, vẻ bất chấp, trên cánh tay có sẹo. Vết sẹo cong cong đó. Và tôi nghĩ cho dù có phải lòng người đàn ông này thì cũng chẳng sao vì anh ta đã chết rồi. Chỉ có điều anh ta chưa chết, nhỉ? Vì anh ta chính là anh.”
Tôi ngần ngừ. Đột nhiên tôi không biết phải xử trí ra sao. Tôi nhớ cô đã nhìn chằm chằm vào vết sẹo trên cánh tay tôi trong quán rượu và giờ tôi đã biết nguyên do. Mọi chuyện đều trở nên hợp lý.
Thật nực cười, vì tôi đưa cô đến đây để cho cô biết sự thật, nhưng giờ tôi lại sợ làm vậy. Bản năng của tôi là nói dối. Rốt cuộc tôi là một kẻ nói dối thành thần. Trôi chảy và tự nhiên. Tôi nên cười và ra vẻ chưng hửng, nói rằng thật ngại quá, bởi trong một thoáng tôi tưởng cô đã thực sự nhận ra mình, và rằng giờ tôi biết cô đang nói đùa. Những bức ảnh có thể nói dối. Nhất là ảnh từ thập niên 1920.
Nhưng tôi không làm thế. Tôi cho rằng một phần là do tôi thực lòng không muốn cô phải sượng sùng. Một phần khác trong tôi, tôi nghĩ, muốn cô biết sự thật. Cần cô biết sự thật.
“Vậy,” cô nói, cắt ngang sự lặng thinh của tôi.
Rồi cô phác một cử chỉ rất khó nắm bắt. Cô hếch cằm ra một chút, khẽ hất đầu rồi nhắm mắt lại và vén tóc ra sau tai. Đó là một cử chỉ thách thức ôn hòa. Tôi không biết cô đang thách thức điều gì. Cuộc đời? Hiện thực? Chứng động kinh? Hành động vỏn vẹn hai giây nhưng tôi nghĩ đây là thời khắc mà tôi phải thừa nhận với bản thân rằng lần đầu tiên sau bốn thế kỷ, tôi đã yêu.
Nghe có vẻ kỳ lạ, yêu một người qua một cử chi, nhưng đôi khi ta có thể đọc vị cả một con người chỉ trong một khoảnh khắc. Như cách ta nghiên cứu một hạt cát và hiểu thấu vũ trụ. Tình yêu sét đánh có thể tồn tại hoặc không, nhưng tình yêu trong một khoảnh khắc thì có.
“Vậy,” tôi ướm lời, thử kiểm tra mức độ tin tưởng của cô so với những gì cô nghĩ là mình tin. “Cô không chỉ thích khoa học viễn tưởng, cô còn nghĩ tôi có thể là khoa học viễn tưởng. Cô nghĩ tôi có thể là nhà du hành thời gian hay gì đó.”
Cô nhún vai. “Hay gì đó. Tôi không biết. Tôi không biết nữa. Ý tôi là, bất cứ sự thật nào mà người ta chưa sẵn sàng tin thì đều nghe như khoa học viễn tưởng. Trái đất quay quanh mặt trời. Điện từ học. Sự tiến hóa. Tia X-quang. Máy bay. ADN. Tế bào gốc. Biến đổi khí hậu. Nước trên Hỏa Tinh. Tất cả chỉ là khoa học viễn tưởng cho đến khi chúng ta chứng kiến nó xảy ra.”
Tôi nóng lòng được ra khỏi đây, ra khỏi nhà hàng này. Nó gần mạnh mẽ bằng nỗi thôi thúc muốn chuyện trò cùng cô mãi mãi. Nhưng không hẳn vậy.
Tôi nhắm nghiền mắt lại, như thể đang gí thanh sắt rèn nóng rực lên da mình.
“Anh có thể tâm sự với tôi mà. Anh có thể kể cho tôi nghe sự thật.”
“Tôi không thể.”
“Tôi biết anh chính là người trong bức ảnh đó.”
“Nó đã được dàn dựng. Bức ảnh đã được dàn dựng. Không phải từ thập niên hai mươi đâu.”
“Anh nói dối. Đừng nói dối tôi.”
Tôi đứng lên. “Tôi phải đi đây.”
“Không, anh đừng đi. Xin anh. Xin anh. Tôi quý anh. Anh không thể chạy trốn mọi thứ được.”
“Cô nhầm rồi. Có thể đấy. Cô có thể chạy, chạy miết, chạy mãi. Cô có thể chạy suốt đời. Cô có thể chạy, thay đổi, rồi lại tiếp tục chạy.”
Mọi người ngừng nhai để nhìn tôi. Tôi đang gây náo loạn. Một lần nữa, ở Southwark này. Tôi bèn ngồi lại xuống ghế.
“Tôi có ảnh đây,” cô nói. “Trong điện thoại của tôi có. Ảnh chụp lại ảnh thôi. Nhưng rõ nét. Tôi biết chuyện này nghe có vẻ kỳ dị. Nhưng nếu anh không nói, nghi vấn này sẽ ghim trong đầu tôi mãi mãi và tôi sẽ cố tìm cách khác để giải đáp nó.”
“Làm thế là thiếu khôn ngoan lắm đấy.”
“Nghe giống hệt tôi đấy. Tôi tin rằng mọi sự thật đều nên được biết đến. Anh có hiểu không? Vì tôi đã sống chung với chứng động kinh và nó là một bí ẩn. Người ta thiếu hiểu biết về nó quá thể đáng. Có một sự thật mà lại không được người ta biết đến. Chúng ta nên biết tất cả sự thật. Nhất là trong thời buổi này. Mà anh đã hứa rồi còn gì. Anh đã hứa nếu tôi đến đây anh sẽ cho tôi biết. Nếu anh không nói với tôi, tôi sẽ hỏi riết đấy.”
“Thế nếu tôi cho cô biết sự thật và bảo cô không được hé môi một lời với bất cứ ai, thậm chí chỉ chút chút thôi? Thì sao?”
“Thì tôi sẽ không nói gì cả.”
Tôi nhìn sắc mặt cô. Chỉ nhìn mặt thôi thì ta không thể biết gì nhiều. Nhưng tôi tin cô. Tôi đã được huấn luyện, đặc biệt trong khoảng một thế kỷ qua, để không tin tưởng bất cứ ai ngoại trừ Hendrich, ấy thế mà tôi lại tin cô. Có lẽ là do rượu. Hoặc có lẽ tôi đang phát triển năng lực.
Trong một khoảnh khắc hoang mang, đáng sợ, tôi hiểu thấu cô. Tôi hiểu cô như thể đã dành cả đời bên cô vậy.
“Đúng, là tôi. Chính là tôi đấy.”
Cô chằm chằm nhìn tôi một lúc, như thể nhìn một thứ gì đó đang dần xuất hiện từ làn sương mù. Như thể lúc trước cô không thực sự quá chắc chắn, như thể cô đã muốn được nghe rằng tất cả chỉ là một ảo ảnh phức tạp. Tôi thích vẻ mặt này. Tôi thích cô biết.
Sau này tôi sẽ lo lắng về những gì mình vừa thú nhận. Sự thật đã được nói ra giữa chúng tôi. Nhưng lúc này, nó chỉ là một sự giải thoát mà thôi.
Đồ ăn của chúng tôi được mang đến.
Tôi nhìn người phục vụ biến mất trong tiếng ồn ào của nhà hàng.
Và rồi tôi nhìn cô và kể cô nghe mọi chuyện.
Hai tiếng sau, chúng tôi đi dạo bên sông Thames.
“Tôi sợ không dám tin vào điều này. Tôi biết đó là anh. Tôi biết thế. Nhưng có sự khác nhau giữa biết gì đó và thực sự biết gì đó. Tôi cảm tưởng như mình điên rồi.”
“Cô không điên.”
Có một cậu trai trẻ, ở gần nơi từng là Mũ Hồng Y, điều khiển con xe BMX nhảy tưng tưng trước sự thích thú của đám đông.
Tôi nhìn Camille, nhìn sự nghiêm túc tột độ của cô đặt bên cạnh những du khách vui vẻ xung quanh, và tôi cảm thấy áy náy, như thể không phải tôi vừa cho cô biết một bí mật, mà đã truyền cho cô gánh nặng cảm xúc của chính mình.
Tôi đã kể cô nghe về Marion. Và giờ tôi lấy chiếc túi ni lông đựng đồng xu của con bé ra trước ánh sáng.
“Tôi nhớ ngày con bé được cho đồng xu này. Tôi nhớ về những lúc ở bên con bé còn rõ rệt hơn nhớ về những chuyện đã xảy ra một năm trước.”
“Và anh nghĩ cô ấy vẫn còn sống sao?”
“Tôi không biết. Làm một người đàn ông và sống bốn trăm năm đã đủ khó khăn lắm rồi. Và không ai từng nghĩ chúng tôi là phù thủy hoặc lo lắng tại sao chúng tôi không có con. Nhưng tôi đã luôn cảm nhận được điều đó. Con bé là đứa thông minh. Nó biết đọc. Chín tuổi nó đã biết trích dẫn Montaigne. Điều tôi lo lắng là tâm tư nó. Nó luôn là đứa trẻ vô cùng nhạy cảm. Trầm tính. Nó để ý mọi thứ. Dễ phiền lòng. Hay suy tư. Đắm chìm trong thế giới riêng. Hay gặp ác mộng.”
“Cô gái tội nghiệp,” Camille nói, nhưng tôi có thể thấy cô hơi choáng váng vì mớ thông tin này.
Còn một điều tôi chưa nói với cô là chuyện về Hải âu Hội. Tôi cảm thấy chỉ nói về nó thôi cũng có thể gây nguy hiểm cho cô bằng cách nào đó. Vì thế khi cô hỏi liệu tôi có biết ai khác như tôi không, ngoại trừ Marion, tôi không đả động đến Agnes hay Hendrich. Nhưng tôi có kể cô nghe về Omai, người bạn cũ của tôi từ Tahiti.
“Tôi đã không gặp anh ấy kể từ khi anh ấy rời London. Anh ấy đã tham gia hải trình thứ ba của Cook. Cook muốn anh ấy làm phiên dịch. Tôi chưa bao giờ gặp lại anh ấy. Nhưng anh ấy đã không trở lại Anh.”
“Thuyền trưởng Cook ư?”
“Phải.”
Những chuyện này đã đủ làm cô điên đầu rồi nên tôi không kể thêm chuyện về Shakespeare và Fitzgerald nữa. Chưa đến lúc.
Chúng tôi nói chuyện thêm.
Cô đòi xem lại vết sẹo. Cô lần ngón tay theo nó, như để làm cho toàn bộ chuyện này chân thực hơn. Tôi nhìn ra sông, nơi bác sĩ Hutchinson được tìm thấy, từ xa xưa, và tôi nhận ra mình cần nói với cô một việc.
“Nghe này,” tôi bảo cô, “cô không được kể chuyện này với ai. Lẽ ra tôi không nên cho cô biết. Chỉ là cô hỏi nhiều quá. Cô nghĩ rằng cô biết tôi. Và suy nghĩ đó, sự tò mò đó, có thể nguy hiểm hơn cả việc biết được sự thật. Giờ thì cô biết rồi, cô phải giữ im lặng đấy.”
“Nguy hiểm ư? Đây đâu phải thời đại của phù thủy. Chắc chắn anh có thể công khai chuyện này. Xét nghiệm ADN. Kiểm chứng. Làm thế có thể giúp đỡ mọi người. Giúp đỡ, anh biết mà, khoa học. Chống lại bệnh tật. Anh chẳng nói là hệ miễn dịch của anh...”
“Đã có tiền lệ người biết chuyện gặp phải rủi ro rồi. Các bác sĩ chuẩn bị công bố bằng chứng, vân vân. Họ có thói quen biến mất.”
“Biến mất? Ai khiến họ biến mất?”
Sự thật đi kèm với những lời nói dối của chính nó. “Tôi không biết. Nó là một thế giới đầy bóng tối.”
Chúng tôi nói chuyện thêm và tiếp tục dạo bước. Chúng tôi đi qua cầu Thiên Niên Kỷ và hướng về phía Đông qua thành phố. Chúng tôi đi bộ về nhà, trong bầu không khí thân mật. Cuộc trò chuyện đang đưa chúng tôi đến đó.
Đi bộ mất một tiếng đồng hồ, nhưng thời tiết dễ chịu và cả hai đều không thích tàu điện ngầm. Chúng tôi đi ngang qua nhà thờ St Paul và tôi kể cô nghe nơi đây từng náo nhiệt hơn ngày nay thế nào, và sân nhà thờ từng là trung tâm mua bán sách của London ra sao. Rồi chúng tôi men theo một con đường tên là Người Bán Đồ Sắt, cô hỏi tôi về nó và tôi kể rằng mình đã men theo Người Bán Đồ Sắt trên đường đến Southwark, và nó đã từng tồn tại như đúng tên gọi của nó, với cả con đường ồn ào và nóng rẫy do nghề đúc kim loại.
Cô sống xa hơn tôi về phía Đông. Khi tôi ngỏ ý có lẽ tôi sẽ đưa Abraham đi dạo và rất hoan nghênh cô tham gia, cô đã chấp nhận lời mời.
Chúng tôi ngồi cùng nhau trên ghế băng nơi tôi nhìn thấy cô lần đầu tiên. Một chiếc túi trống không lơ lửng đằng xa trên đầu chúng tôi như bóng ma trong phim hoạt hình.
“Những điểm khác biệt chính là gì, theo thời gian ấy?”
“Mọi thứ ta thấy. Mọi thứ ta thấy đều khác. Không có gì y nguyên như cũ cả.” Tôi chỉ vào cái con vật đang lao lên một cái cây. “Đó từng là một con sóc lông đỏ, không phải xám. Và không có mấy cái túi ni lông bay phất phơ thế kia. Tiếng xe cộ nghe lọc cọc hơn. Mọi người xem đồng hồ bỏ túi chứ không phải điện thoại. Và mùi, lại là một điều khác nữa. Giờ không bốc mùi như xưa. Hồi ấy đâu đâu cũng bốc mùi xú uế. Nước cống chưa qua xử lý rồi thì tất cả chất thải từ các nhà máy đều đổ ra sông Thames.”
“Hay thật.”
“Tình trạng này từng rất nghiêm trọng. Khi ấy nó được gọi là dòng sông Thối Vĩ Đại. Khoảng năm 1850 thì phải, quanh thời gian đó. Một mùa hè nóng nực. Cả thành phố bốc mùi nồng nặc.”
“Giờ vẫn hơi mùi mà.”
“So thế nào được. Sống trong cái hôi thối mãi người ta cũng đâm quen rồi. Người ta chẳng tắm bao giờ. Họ từng cho rằng tắm rửa có hại cho mình.”
Cô ngửi nách mình. “Thế thì như tôi là ổn rồi phải không?”
Tôi ghé lại ngửi người cô. “Quá sạch. Mọi người sẽ nghi ngờ lắm đấy. Cô gần như là sạch-theo-chuẩn-thế-kỷ-hai-mươi rồi.”
Cô phá lên cười. Tôi nhận ra, niềm vui đơn giản, thuần khiết nhất trên trái đất là làm người mình quan tâm cười.
Trời bắt đầu tối dần.
“Vậy là, em đã thực sự phải lòng anh hả?”
Cô lại cười. “Xem ra anh chưa thực sự trưởng thành lắm nhỉ, so với một người bốn trăm tuổi mà nói.”
“E hèm, bốn trăm ba mươi chín tuổi.”
“Xin lỗi, một người bốn trăm ba mươi chín tuổi.”
“Anh hỏi thế thì cứ như mới năm tuổi vậy.”
“Anh cảm thấy mình năm tuổi thật mà. Bình thường anh cảm thấy đúng tuổi nhưng giờ có cảm giác như mới năm tuổi.”
“Phải, nếu đó là những gì anh muốn nghe...”
“Anh muốn nghe sự thật.”
Cô thở dài. Vẻ kịch tính giả vờ. Trong lúc ngước lên nhìn trời. Tôi nhìn nét mặt nghiêng nghiêng của cô, bị hớp hồn. “Phải, em đã phải lòng anh.”
Tôi cũng thở dài. Tiếng thở của tôi cũng nhuốm vẻ kịch tính vờ vịt. “Thì quá khứ chưa bao giờ nghe buồn đến thế.”
“Được rồi. Được rồi. Phải. Phải. Em phải lòng anh.”
“Anh cũng vậy. Ý anh là phải lòng em. Anh thấy em thật quyến rũ.”
Tôi hoàn toàn chân thành, thế mà cô lại cười. “Quyến rũ á? Em xin kiếu nhé.”
Tiếng cười của cô nhạt dần. Tôi muốn hôn cô. Tôi không biết xoay xở thế nào. Tôi đã độc thân trong bốn thế kỷ và không hề biết phải hành xử ra sao. Nhưng tôi cảm thấy thơ thới, hạnh phúc. Thực ra, với tôi thế này cũng không sao. Khoảnh khắc “Thi khúc chiếc bình Hy Lạp [2] ” này. Với một nụ hôn mãi mãi bỏ ngỏ. Với cô nhìn tôi và tôi nhìn cô.
Tôi nhận ra mình cũng muốn vén màn bí ẩn về cô chẳng kém gì cô muốn vén màn bí ẩn về tôi vậy, và cô hơi nép mình vào tôi còn tôi choàng tay qua người cô. Ngay ở đó. Trên ghế băng công viên. Có lẽ đó là những gì cần làm để yêu một ai đó. Tìm một bí ẩn hạnh phúc mà ta mãi mãi muốn làm sáng tỏ.
Chúng tôi ngồi im lặng một lúc, như một cặp tình nhân, nhìn Abraham tung tẩy chạy quanh với một con chó giống Springer spaniel. Và tôi tận hưởng sức nặng hạnh phúc của mái đầu cô ngả trên vai tôi, trong đôi ba phút. Rồi hai điều nối nhau xảy ra nhanh chóng. Tôi cảm thấy nhói lên cảm giác tội lỗi, khi nghĩ về Rose. Về mái đầu nàng tựa vào ngực tôi khi chúng tôi nằm trên chiếc giường hẹp ở Hackney. Tất nhiên, Camille sẽ không biết đây là những gì tôi đang nghĩ, mà cùng lắm là để ý thấy cơ thể tôi có lẽ hơi căng lên.
Và rồi điện thoại của tôi đổ chuông.
“Kệ đi.”
Tôi kệ thật. Nhưng sau đó nó lại đổ chuông và lần này cô nói, “Tốt hơn là anh nên xem ai gọi đi,” vậy là tôi bèn nhìn điện thoại và thấy độc một chữ cái trên màn hình. H. Tôi nhận ra mình phải nghe thôi. Tôi phải làm chính xác những gì tôi sẽ làm nếu không ở bên Camille. Thế nên tôi bắt máy. Và khoảnh khắc đó, khoảnh khắc yên vui ngắn ngủi đó, trôi đi như một chiếc túi cuốn theo chiều gió.
Tôi đứng dậy khỏi ghế băng, điện thoại áp vào tai.
“Không tiện à?” Hendrich hỏi.
“Không. Không đâu, Hendrich. Tiện mà.”
“Cậu đang ở đâu đấy?”
“Tôi đang dắt chó đi dạo.”
“Có ở một mình không?”
“Có. Tôi đang ở một mình. Có mỗi Abraham thôi.” Tôi hy vọng mình nói điều này đủ nhỏ để Camille không nghe thấy, và đủ lớn để Hendrich khỏi sinh nghi. Tôi nghĩ cả hai đều không thành công.
Một khoảng ngừng.
“Tốt, ừm, nghe này... chúng tôi đã tìm thấy một người.”
“Marion à?”
“Trời ạ, không. Chúng tôi đã tìm thấy bạn cậu.”
Từ “bạn” làm tôi bối rối. Tôi nhìn Camille, vẫn ngồi trên ghế băng, lúc này đang cau mày nhìn tôi.
“Ai cơ?”
“Chiến hữu của cậu ấy.”
Tôi thực tình chẳng hiểu đầu cua tai nheo gì. “Chiến hữu nào?”
“Anh chàng người Polynesia của cậu ấy. Omai. Cậu ta còn sống. Và cậu ta là một kẻ ngốc.”
“Omai ư?”
Ngay cả khi không có Camille bên cạnh, tin này cũng chẳng khiến tôi vui. Không phải vì tôi không quan tâm đến người bạn cũ của mình, mà bởi tôi cảm thấy việc Hendrich phát hiện ra anh ấy chẳng tốt đẹp gì cho cam. Rất ít khả năng anh muốn được tìm thấy. Hạnh phúc mới chỉ một phút trước thôi giờ dường như đã hoàn toàn nằm ngoài tầm tay.
“Anh ấy ở đâu?” tôi hỏi. “Chuyện của anh ấy là thế nào?”
“Có một vận động viên lướt sóng ở Australia trông giống hệt bức chân dung ba trăm tuổi mà Joshua Reynolds vẽ. Cậu ta tự xưng là Sol Davis. Cậu ta đã trở thành một người khá nổi tiếng trong cộng đồng lướt sóng. Cái gã điển trai nom như mới ba mươi mà thực ra đã ba trăm năm mươi tuổi này ấy. Và người ta xì xào rằng cậu ta không già đi. Họ bàn tán về chuyện đó. Bình phẩm trên mạng, mẹ kiếp. Có người nói, ‘Ồ, đó là gã bất tử sống gần tôi mà từ thập niên chín mươi đến giờ chẳng thay đổi gì sất.’ Cậu ta đang gặp nguy hiểm. Thiên hạ đang nảy sinh nghi ngờ. Mà có vẻ chưa hết đâu. Nguồn tin của Agnes ở Berlin nói rằng họ biết cậu ta. Cái viện nghiên cứu đó. Cậu ta có thể gặp rắc rối thực sự đấy.”
Trời nổi gió. Camille xoa vai, ra hiệu rằng cô lạnh. Tôi gật đầu mấp máy môi, “Anh đến đây.” Nhưng đồng thời tôi biết mình phải ra vẻ không có ý giục giã Hendrich.
“Thật là...”
“Sắp tới cậu được nghỉ phải không? Nghỉ giữa kỳ?”
Những lời này dường như có mùi chẳng lành. “Vâng.”
“Tôi có thể thu xếp cho cậu bay đến Sydney. Bay thẳng. Chỉ dừng hai tiếng ở Dubai thôi. Mua sắm ở sân bay một chút. Rồi thì, Australia. Tuần lễ nắng ấm.”
Tuần lễ nắng ấm. Ông ta cũng đã nói như vậy trước vụ Sri Lanka.
“Tôi tưởng ông đã bảo xong chuyện rồi cơ mà,” tôi nói. “Tôi tưởng ông đã bảo tôi có thể sống cuộc sống này trọn vẹn tám năm. Không có gì xen ngang.”
“Cậu nói cứ như một người có mỏ neo giữ lại ấy nhỉ. Cậu đâu có mỏ neo.”
“Không. Không phải mỏ neo. Mà là một con chó. Tôi có một con chó. Abraham. Nó già rồi. Nó không sống được tám năm nữa đâu. Nhưng tôi không thể bỏ nó lại được.”
“Cậu cứ bỏ nó lại đi. Thời nay có người trông giữ chó mà.”
“Nó là một con chó rất nhạy cảm. Nó hay gặp ác mộng và bất an khi xa chủ.”
“Cậu nói năng cứ như đang xỉn vậy.”
Tôi biết mình không thể gây nguy hiểm cho Camille.
“Nãy tôi có uống chút rượu. Tận hưởng những thú vui trong cuộc sống. Đó mới là điều quan trọng mà, phải không? Chẳng phải ông đã nói với tôi như vậy sao?”
“Một mình à?”
“Một mình.”
Giờ Camille đã đứng dậy. Cô cầm sợi dây dắt chó. Cô định làm gì vậy? Nhưng đã quá muộn. Cô đã làm mất rồi.
“Lại đây nào nhóc!”
Không.
“Abraham!”
Con chó chạy đến chỗ cô.
Giọng Hendrich trở nên đanh thép. “Đó có phải cái mỏ neo của cậu không?”
“Gì cơ?”
“Người phụ nữ gọi Abraham ấy. Tên con chó của cậu, đúng chứ?”
Hendrich có cả ngàn triệu chứng của tuổi già. Tôi thầm chửi thề khi chứng nghễnh ngãng không nằm trong số đó.
Camille tròng dây vào cổ Abraham, rồi lại nhìn tôi. Cô chuẩn bị đi.
“Phụ nữ à?”
Giờ Camille đang nghe tôi nói.
“Ai đấy?”
“Không ai cả,” tôi nói. “Cô ấy chẳng là ai cả.”
Khuôn miệng mà tôi vừa mơ ước được hôn giờ há hốc ngỡ ngàng.
“Cô ấy?” cô thì thầm, nhưng đó là lời thì thầm nghe giống một tiếng thét vô thanh hơn.
Anh không có ý đó, tôi ra hiệu.
“Chỉ là người tôi gặp trong công viên thôi. Chó của chúng tôi biết nhau.”
Camille nổi đóa.
Hendrich thở dài. Tôi không biết liệu ông ta có tin tôi hay không, nhưng ông ta đã quay lại chủ đề chính. “Nếu không phải là cậu, vẫn sẽ có ai đó đến gặp bạn cũ của cậu thôi. Một người lạ. Gần đây tôi đã chiêu mộ được kha khá người. Việc này cho tôi niềm tin rằng tôi sẽ tìm thấy Marion. Vấn đề là: tôi không thiếu người để cử đi, nhưng nhỡ đâu họ không thuyết phục được cậu ta, và rồi...” Giọng ông ta nhỏ dần. “Vậy nên, tùy cậu thôi. Hoàn toàn tùy thuộc vào cậu.”
Huyền thoại lựa chọn. Trò tủ của Hendrich. Hoặc là tôi đi nói chuyện với Omai, hoặc Omai chết. Đó thực chất là những gì ông ta đang nói. Không phải là người từ Berlin đến bắt anh ấy thì sẽ là kẻ khác. Và, thậm chí khủng khiếp hơn nữa, tôi biết ông ta nói đúng. Hendrich có thể là kẻ chuyên thao túng, nhưng ông thường nói lên sự thật.
Camille đưa tôi sợi dây dắt chó và toan rời khỏi công viên.
“Tôi sẽ gọi cho ông sau. Tôi cần phải suy nghĩ đã.”
“Cậu có một tiếng.”
“Một tiếng. Được.”
Vừa tắt máy, tôi liền gọi Camille. “Camille, đợi đã. Em đi đâu đấy?”
“Về nhà.”
“Camille?”
“Ai gọi đấy?”
“Anh không nói với em được.”
“Cũng như anh không thể nói cho cô ta biết em là ai.”
“Không phải cô nào cả.”
“Em chịu thôi, Tom.”
“Camille, thôi mà.”
“Cút đi.”
“Camille?”
“Em dốc hết lòng mình với anh, gần gũi với anh và tưởng tượng rằng giữa chúng ta có gì đó để rồi anh chối bay chối biến là mình biết nhau. Khốn thật. Chưa biết chừng có khi em sẽ còn lên giường với anh nữa! Có lẽ đó là điều anh làm. Dắt mũi người khác. Có lẽ em cũng chỉ giống một con chó khác để anh huấn luyện thôi.”
“Abraham không được huấn luyện. Camille, xin em, đợi đã...”
“ Fils de pute [3] ! ”
Cô rời khỏi công viên. Nhẽ ra tôi có thể đi theo cô. Mọi nguyên tử trong tôi đều muốn đi theo cô. Tôi có thể nói chuyện với cô và giải thích về Hendrich. Tôi hoàn toàn có thể xử lý mọi chuyện ổn thỏa. Nhưng tôi đứng trơ ra đó, trên bãi cỏ, dưới bầu trời tím, ngày tàn bao quanh. Tôi suy tính rằng chọc giận cô thì tốt hơn là gây nguy hiểm cho cô. Đó là một câu đố thực sự hóc búa. Cách duy nhất bảo vệ cô là càng ít liên quan đến cô càng tốt.
Tôi biết mình đã gây ra quá nhiều thiệt hại. Hendrich đã nghe thấy giọng cô. Ông ta có thể đã phát hiện ra một giọng Pháp.
Chết tiệt. Cứ rượu vào là thành ra thế đấy. Và khi ta cố gắng gần gũi ai đó. Ta bị mắc bẫy. Nhưng đó cũng chính là cái bẫy mà tôi mắc phải hồi năm 1891. Như mọi khi, đó là cái bẫy của Hendrich. Tôi cảm thấy bất động theo đúng nghĩa đen. Tôi sẽ không bao giờ có được cuộc sống đúng nghĩa. Và giờ tôi đã làm buồn lòng người mới đầu tiên mà tôi thực sự quan tâm trong dòng thời gian tuồng như vĩnh cửu. Chết tiệt. Chết tiệt. Chết tiệt.
“Chết tiệt.” Tôi cũng nói thế với Abraham.
Abraham ngước lên, thở hồng hộc tỏ vẻ khó hiểu.
Trong suốt hàng thế kỷ, tôi đã nghĩ rằng tất cả niềm tuyệt vọng của mình là nỗi đau buồn. Nhưng người ta vượt qua được nỗi đau buồn. Chỉ cần có đủ thời gian, người ta sẽ vượt qua được ngay cả nỗi đau buồn lớn nhất. Nếu không vượt qua được thì chí ít cũng sống bên nó. Và họ làm vậy bằng cách đầu tư vào người khác, thông qua tình bạn, thông qua gia đình, thông qua việc giảng dạy, thông qua tình yêu. Tôi đã nhận ra điều này từ lâu.
Nhưng tất cả chỉ là trò hề. Tôi sẽ không thể tạo ra sự khác biệt với bất kỳ ai khác. Tôi nên nghỉ dạy. Tôi nên dùng mọi nỗ lực trò chuyện. Tôi không nên dây dưa gì với bất kỳ ai. Tôi nên sống cô lập hoàn toàn. Tôi nên quay lại Iceland, không làm gì ngoài những nhiệm vụ mà Hendrich giao cho.
Dường như tôi không thể tồn tại mà không gây ra đau khổ - cho tôi, hoặc cho người khác.
Abraham rên ư ử bên cạnh tôi, như thể cảm nhận được nỗi đau của chủ.
“Không sao đâu, nhóc. Về nhà thôi.”
Tôi lấy ít bánh quy cho Abraham, còn mình thì uống chút vodka và nghêu ngao bài “Coming Around Again” của Carly Simon, lặp lại tên bài hát cho đến khi tôi nghĩ rằng mình sắp mất trí.
Thấy còn mười phút nữa là phải gọi cho Hendrich, tôi vào YouTube và gõ “Sol Davis”. Tôi thấy cảnh sóng biển và một người đàn ông mặc bộ đồ thể thao dưới nước đang ở trên ván, rẽ sóng lướt đi.
Chuyển sang cảnh vẫn người đàn ông đó ngoi lên mặt nước và bước đi trên cát, hướng về ống kính, với nụ cười mà cũng là cái cau mày, lắc đầu.
“Này, anh bạn, quay để đấy thôi nhé,” anh nói. Anh nói giọng Australia, đầu cạo nhẵn và trông anh, theo chuẩn thông thường, như mới già thêm hai mươi tuổi, nhưng không nghi ngờ gì nữa: đó là Omai. Tôi dừng khung hình lại. Mắt anh nhìn thẳng vào tôi, trán lấm tấm nước biển.
Tôi cầm điện thoại lên, giữ chắc trong tay, vào phần “Gần đây” và ấn ngón cái vào chữ “H”.
Hendrich nghe máy.
“Được rồi, Hendrich. Tôi sẽ làm.”
[1]
Tôi sẽ nói rõ về bản thân. (tiếng Pháp)
[2]
“Ode on a Grecian Urn” - bài thơ của nhà thơ người Anh John Keats viết năm 1819.
[3]
Đồ khốn. (tiếng Pháp)