PHẦN NĂM Trở về
Câu chuyện tôi gặp Omai bắt đầu vào một ngày mưa thứ Ba trong tháng Ba trên con đường lát sỏi nơi bến cảng Plymouth. Tôi ngà ngà say. Tôi luôn chếnh choáng ở Plymouth. Ừm, hoặc là chếnh choáng, hoặc là say khướt. Đó là một nơi ẩm ướt. Mưa, biển, bia. Cảm giác như mọi người đang chìm dần.
Khi tìm thấy thuyền trưởng Samuel Wallis, tôi nhận ra ông từ bức chân dung mà tôi thấy treo ở Tòa Thị Chính. Ông vận áo khoác màu xanh đậm sang trọng và đang đi dọc theo cầu tàu, say sưa trò chuyện với một người đàn ông khác.
Tôi mới đến Plymouth chỉ một tháng trước đó. Khi ấy, hy vọng của tôi dường như trôi ngày càng xa ra biển. Tôi không còn tin vào việc tìm được con gái mà thay vào đó tôi thấy mình cố gắng giải câu đố làm tôi trăn trở: sống để làm gì khi mà chẳng có ai để ta sống vì họ? Tôi vẫn chưa có câu trả lời. Ngẫm lại, tôi nghĩ khi ấy mình đã mắc phải một dạng trầm cảm.
Tôi chạy đến chỗ ông, Wallis, đứng trước lối ông đi, lùi lại khi ông tiến về phía trước.
“Tôi nghe nói ông đang thiếu một người,” tôi nói. “Cho chuyến hải trình. Trên tàu Cá Heo.”
Hai người đàn ông tiếp tục bước. Thuyền trưởng Wallis nhìn tôi. Ông, như quá nhiều nhân vật được lịch sử xây dựng thành hình tượng lớn lao, ngoài đời lại có phần bình thường, đường cắt may tinh xảo thay vì giấu đi thì lại làm nổi bật khuyết điểm cơ thể. Béo lùn, má đỏ. Một người đàn ông phù hợp với những bữa tối hoành tráng hơn là đi biển. Ấy thế mà chỉ hai năm nữa thôi là tên ông sẽ được đặt cho một hòn đảo. Còn trong lúc ấy, đôi mắt nhỏ màu lục của ông nhìn tôi vẻ khinh thị.
“Cậu là ai?” ông hỏi, giọng trầm khìn khịt.
“John Frears.” Đó là lần đầu tiên tôi nói cái tên ấy.
Người đồng hành của thuyền trưởng Wallis chạm nhẹ vào cánh tay ông. Một cử chỉ khẽ khàng nhưng thể hiện rõ mục đích của nó. Người đàn ông này dường như rất khác với ông Wallis. Đôi mắt sắc lẹm nhưng khuôn miệng hiền hòa, khóe môi cong lên thích thú. Ông vận áo khoác màu than đen bất chấp thời tiết. Đây là Tobias Furneaux, người mà tôi sẽ quen thân trong nhiều năm nữa. Cả hai người đàn ông bấy giờ đều dừng lại giữa bến cảng tấp nập, gần những chiếc thùng cá xám lốm đốm mới bị giết mổ, bầu trời ánh màu mây. “Thế tại sao chúng tôi nên nhận anh lên tàu?”
“Tôi có kỹ năng, thưa các quý ngài, mà có thể ở đâu đó đang cần.”
“Chẳng hạn như?” ông Furneaux hỏi.
Tôi thọc sâu vào túi lấy ra một cây sáo ba lỗ bằng gỗ màu đen đặt lên môi. Tôi bắt đầu thổi vài nốt của một giai điệu dân gian, “The Bay of Biscay”.
“Cậu chơi sáo khá đấy,” ông Furneaux nói, cố nén nụ cười.
“Tôi còn biết chơi đàn mandolin nữa.” Tôi không nhắc đến đàn luýt, hiển nhiên rồi. Làm thế giống như ngày nay nói trong một cuộc phỏng vấn xin việc rằng ta có thể sử dụng máy fax vậy. Đơn giản đó là thứ người ta không còn muốn nữa.
Ông Furneaux tỏ ra ấn tượng và nói gì đó hưởng ứng.
“Hừm,” ông Wallis nói, ngân nga một giai điệu mang hàm ý nghi ngại hơn đoạn quay sang người bạn đồng hành của mình. “Ta đâu có định tổ chức hòa nhạc, ông Furneaux.”
Ông Furneaux hít sâu luồng không khí ẩm ướt. “Mạn phép ông, ông Wallis, tôi cho rằng khả năng âm nhạc là kỹ năng vô giá trong những hải trình dài như của chúng ta.”
“Tôi còn có những kỹ năng khác, thưa ngài,” tôi nói, với ông Wallis.
Ông nhìn tôi vẻ hiếu kỳ.
“Tôi có thể móc buồm, tra dầu cho các cột buồm và sửa chữa giàn buồm. Tôi biết đọc cả chữ lẫn bản đồ. Tôi có thể nạp thuốc súng và nhắm bắn tương đối chuẩn. Tôi nói được tiếng Pháp, thưa ngài. Và tiếng Hà Lan, dù không lưu loát bằng. Tôi cẩn trọng khi gác đêm. Tôi có thể liệt kê thêm nữa, thưa ngài.”
Đến đây thì ông Furneaux đang nén cười thành tiếng. Thuyền trưởng Wallis nom không vui vẻ gì hơn so với một phút trước đó. Thực ra, vẻ mặt ông giờ toát lên vẻ chẳng ưa gì tôi. Ông dợm bước đi, chiếc áo nhung lật phật trong gió nhẹ như cánh buồm của một con tàu đang lùi xa.
“Chúng tôi nhổ neo sớm đấy. Sáu giờ sáng mai. Chúng tôi sẽ gặp cậu bên cảng.”
“Vâng, thưa ngài, sáu giờ. Tôi sẽ có mặt. Cảm ơn ngài. Cảm ơn ngài rất nhiều.”