London, hiện tại
Tôi đang giảng thêm về lịch sử xã hội cho lớp chín thì Camille đi ngang qua cửa sổ, như một giấc mơ giày vò.
“Ở nước Anh thời Elizabeth, không ai mang theo tiền giấy trong túi cả. Tất cả đều là tiền xu cho đến khi thành lập Ngân hàng Anh...”
Tôi giơ tay lên theo bản năng, nhưng Camille không đáp lại, dù cô nhìn thấy. Anton nhìn tay tôi hạ xuống.
Chuyện vẫn như vậy cả tuần nay. Tôi thành người vô hình trong mắt Camille. Cô không bao giờ chạm mắt tôi trong phòng giáo vụ. Cô không bao giờ mở miệng chào khi chúng tôi đi ngang qua nhau bên ngoài. Tôi đã làm tổn thương cô. Tôi biết thế. Vì vậy, tôi không bắt chuyện với cô ngộ nhỡ làm chuyện be bét hơn. Kế hoạch của tôi chỉ đơn giản là chờ cho hết tuần, đến Australia, rồi yêu cầu đi đâu đó cách xa nơi đây.
Tuy nhiên, một lần, lúc băng qua con đường chéo góc ngang hội trường, thấy vẻ mặt đượm buồn của cô, tôi không kìm lòng được mà nói, “Camille à, anh xin lỗi... Anh xin lỗi.” Nhưng cô gật đầu nhẹ đến mức gần như không nhìn ra được, rồi tiếp tục bước đi.
✽ ✽ ✽
Tối đó, trong khi Abraham cố gắng thoát khỏi một con chó sục Malta to bằng một phần tư nó, tôi nhìn đăm đăm ra băng ghế trống và nhớ mình đã quàng tay ôm Camille. Băng ghế toát lên vẻ u buồn, gần như thể nó cũng nhớ vậy.
Thứ Bảy tới là bắt đầu nghỉ giữa kỳ. Hôm sau là tôi phải bay tới Australia và gửi Abraham cho người trông chó, nhưng giờ tôi đang ở trong siêu thị. Tôi vừa quẳng một tuýp kem đánh răng du lịch vào giỏ thì thấy Daphne, mặc áo sáng màu và mắt mở to, đằng sau chiếc xe đẩy.
Tôi không muốn bà biết tôi sắp đi, bèn giấu tuýp kem đánh răng và lọ kem chống nắng dưới tờ New Scientist.
“Này, anh Hazard!” bà gọi, cười vang.
“Chào chị Bello!”
Thật không may, chúng tôi bắt chuyện với nhau. Bà nói mới gặp Camille lúc đi đến chợ hoa đường Columbia.
Daphne hấp háy mắt vẻ tinh quái. “Nếu tôi không phải sếp anh - mà tôi đúng là sếp anh thật - nếu tôi chỉ là hàng xóm kế bên nhà anh - nhưng tôi không phải - thì tôi sẽ nói rằng, chà, cô Guerin, vô duyên vô cớ thế nào, lại có gì đó với thầy giáo lịch sử mới nào đấy.”
Tôi cảm thấy siêu thị sáng trưng đến mức thiếu tự nhiên.
“Nhưng hiển nhiên tôi sẽ không nói vậy, vì tôi là hiệu trưởng mà hiệu trưởng thì không nên nói những điều như thế. Khuyến khích chuyện yêu đương trong nội bộ giáo viên thì thật không chuyên nghiệp chút nào. Chỉ là... tuần rồi cô ấy trầm quá. Anh có để ý không?”
Tôi gượng gạo cười. “Tôi e là tin giả đấy.”
“Tôi chỉ nghĩ có lẽ anh sẽ là người giúp cô ấy phấn chấn lên.”
“Tôi lại nghĩ có lẽ mình là người ít có khả năng làm việc đó nhất.”
Một bầu im lặng khó xử. Ừm, khó xử với tôi. Tôi không nghĩ Daphne thấy khó xử. Tôi để ý thấy một chai rượu rum nằm trong xe đẩy của bà, cạnh một gói mì ống.
“Nhà chị có tiệc à?” tôi hỏi, cố gắng khơi chủ đề mới.
Bà thở dài. “Giá mà vậy. Không, không, chai Bacardi là cho mẹ tôi.”
“Bác ấy không chia cho ai ạ?”
“Ha! Không. Chúa phù hộ bà ấy. Bà ấy uống rượu rum như nước lã ấy. Bà ấy đang ở viện dưỡng lão tại Surbiton - tự bà ấy lựa chọn đấy, bà ấy thích có bè có bạn - và hở ra là bắt tôi tuồn cho một chai rượu ngon. Bà ấy hơi quậy, mẹ tôi ấy. Tôi luôn cảm tưởng mình như kẻ bán rượu lậu hay gì đó, như ở Mỹ trong thời kỳ Cấm Rượu, anh biết đấy...”
Tôi nhớ lại mình đã chơi piano điệu ragtime ở Arizona, kế bên trên sàn nhà bụi bặm là một chai rượu mạnh sản xuất lậu.
“Bà ấy có chút vấn đề về thận và đã bị đột quỵ nên lẽ ra phải bỏ tiệt rượu, nhưng bà ấy luôn bảo rằng sống là để vui chứ không cần lâu, dẫu vậy bà ấy lại sống rất thọ, vì bà ấy đã tám mươi bảy tuổi và đích thị là một bà lão kiên cường. Ha!”
“Bác ấy nghe có vẻ thú vị thật.” Tôi cố hết sức nhập tâm vào cuộc trò chuyện, nhưng hồi hải mã đau đớn, hoạt động quá mức của tôi giờ đang bắt tôi nhớ đến Camille lúc ở trường. Trông cô mới nhợt nhạt làm sao. Cô đã cố tình ngồi tận đầu kia phòng giáo vụ để cách xa tôi thế nào.
Nhưng rồi Daphne nói một điều lôi phắt tôi ra khỏi cái hố tuyệt vọng.
“Phải, bà ấy là gái ngoan, mẹ tôi ấy. Này nhé, trong viện dưỡng lão, bà ấy ở cùng với một nhóm kỳ lạ đủ kiểu người. Có một bà nghĩ là mình già đến mức sinh ra dưới triều William Nhà chinh phạt. Bà ta nên vào viện tâm thần mới đúng, thật đấy.”
Tôi khựng lại. Ý nghĩ đầu tiên của tôi là Marion. Điều này không hợp lý. Nếu Marion còn sống, con bé sẽ không giống người già. Nó trông sẽ trẻ hơn tôi. Vả lại nó sinh ra dưới triều vua James, không phải William Nhà chinh phạt.
“Mary Peters tội nghiệp. Điên điên khùng khùng. Sợ ti vi. Nhưng là một bà già đáng mến.”
Mary Peters.
Tôi lắc đầu với Daphne, đồng thời nhớ tới những đồn thổi xung quanh sự biến mất của cô Mary Peters mà chúng tôi biết ở Hackney. Người quen của Rose ở chợ. Người từng bị Già Adams mắng là cục phân chết tiệt, người “từ trên trời rơi xuống” ấy.
“Ồ. Ồ thật vậy ư? Bà già tội nghiệp.”
Daphne đi rồi, tôi bèn bỏ lại xe đẩy của mình ở lối đi và phăm phăm rời khỏi siêu thị. Tôi lấy điện thoại ra tra cứu giờ tàu đến Surbiton.
Viện dưỡng lão nằm ở cuối đường. Cây cối um tùm khắp mặt tiền. Tôi đứng ngoài vỉa hè, tự hỏi nên làm gì. Có một người đưa thư bên kia đường, ngoài ra chẳng còn ai. Tôi hít vào. Cuộc sống có một nhịp điệu kỳ lạ. Phải mất một thời gian mới nhận thức rõ được điều đó. Hàng thập kỷ. Thậm chí nhiều thế kỷ. Nó không phải nhịp điệu giản đơn. Nhưng nhịp điệu hiện diện ở đó. Những thay đổi nhịp độ và các dao động; có cấu trúc trong cấu trúc, mô hình trong mô hình. Thật rối rắm. Như lần đầu ta nghe John Coltrane trên saxophone. Nhưng nếu nghe nhiều sẽ thấy quen dần. Nhịp điệu hiện tại tăng dần. Tôi đang tiến đến một đoạn crescendo [1] . Tất cả mọi thứ xảy ra cùng lúc. Đó là một trong những mô hình: khi không có gì xảy ra thì chẳng có gì tiếp tục xảy ra nữa, nhưng sau một thời gian, khoảng lắng trở nên quá nhiều và tiếng trống cần nổi lên. Điều gì đó phải xảy ra. Thường thì nhu cầu đó xuất phát từ chính ta. Ta gọi một cuộc điện thoại. Ta nói, “Tôi không thể sống cuộc sống này thêm nữa, tôi cần phải thay đổi.” Và một điều xảy ra trong tầm kiểm soát của ta. Rồi một điều khác xảy đến mà ta chẳng thể làm gì. Định luật 3 Newton. Hành động tạo ra phản ứng. Khi một hành động bắt đầu xảy ra, những hành động khác cũng bắt đầu xảy ra. Nhưng đôi khi tuồng như không có lời giải thích cho việc tại sao mọi thứ lại xảy ra - tại sao tất cả các chuyến xe buýt đều chạy cùng một lúc - tại sao những khoảnh khắc may mắn và đớn đau trong cuộc sống lại đến cùng một thời điểm. Tất cả những gì chúng ta có thể làm là quan sát mô hình, nhịp điệu, và sống mà thôi.
Tôi hít một hơi thật sâu, hít lấy không khí.
Viện dưỡng lão Nội trú Ash Grange. Logo là một chiếc lá rơi. Một chiếc lá chung chung. Biển hiệu có màu vàng nhạt và xanh lam. Đó là một trong những thứ gây nản lòng nhất mà tôi từng thấy. Bản thân tòa nhà cũng thảm gần như vậy. Chắc chỉ mới hai mươi năm. Gạch màu cam nhạt, cửa sổ kính màu, đường nét nhạt nhòa. Toàn bộ nơi này giống như một uyển ngữ lịch sự cho cái chết.
Tôi vào trong.
“Chào cô,” tôi mở lời với người phụ nữ trong văn phòng sau khi cô đẩy cửa sổ nhựa trượt mở ra để nghe tôi nói. “Tôi đến gặp Mary Peters.”
Cô nhìn tôi và nở nụ cười theo kiểu nhanh nhẹn được việc. Một nụ cười chuyên nghiệp hiện đại. Kiểu cười chưa từng xuất hiện trước khi, nói như thế nào nhỉ, điện thoại ra đời.
“Ồ vâng, anh vừa gọi điện phải không?”
“Vâng. Là tôi. Tom Hazard. Tôi quen bà ấy hồi bà ấy còn trẻ, ở Hackney.”
Cô chăm chú nhìn màn hình máy tính và nhấp chuột. “Ồ vâng. Bà ấy muốn gặp anh. Mời qua đó.”
“Ồ tốt quá,” tôi nói, và khi bước trên lớp thảm trải sàn, tôi gần như có cảm tưởng mình đang ngược dòng thời gian.
Mary Peters nhìn tôi với đôi mắt đỏ già yếu vì thời gian. Mái tóc bạc của bà thưa mỏng như hạt bồ công anh còn đường gân dưới da giống như các tuyến đường trên một bản đồ bí mật, nhưng có thể nhận ra bà là người phụ nữ tôi đã gặp ở Hackney, cách đây bốn thế kỷ.
“Tôi nhớ cậu,” bà nói. “Ngày cậu bước vào chợ. Trận ẩu đả với tên khốn thớ lợ đó.”
“Ông Willow,” tôi nói, nhớ đến cảnh ông ta bị bao phủ trong đám bụi gia vị.
“Phải rồi.”
Hơi thở của bà khò khè. Kiểu âm thanh xào xạo mỗi lần hít vào. Bà hơi nhăn mặt, những ngón tay cong queo yếu ớt vuốt lông mày.
“Tôi bị đau đầu. Chuyện là vậy đấy.”
“Tôi cũng bắt đầu bị rồi.”
“Bị rồi hết. Gần đây tôi bị đau lại.”
Bà làm tôi ngạc nhiên. Làm sao bà vẫn còn có hứng nói chuyện vậy. Bà hẳn đã thành bà lão hai trăm năm rồi.
“Tôi không còn nhiều thời gian nữa,” bà nói, như thể đọc được suy nghĩ của tôi. “Đó là lý do tôi đến đây. Không có rủi ro nào cho tôi cả.”
“Không có rủi ro nào?”
“Tôi chỉ còn khoảng hai năm nữa thôi.”
“Bà không biết đó thôi. Bà có thể thọ thêm năm mươi năm nữa chưa biết chừng.”
Bà lắc đầu. “Tôi hy vọng là không.”
“Bà thấy trong người thế nào?”
Bà cười như thể tôi vừa nói đùa.
“Đèn dầu sắp cạn. Thấy không, tôi mắc đủ loại bệnh. Khi bác sĩ nói với tôi rằng tôi chỉ còn vài tuần nữa thôi, tôi nhận ra mình... mình chỉ còn hai năm nữa. Nhiều nhất là ba. Thế nên, tôi biết đến đây là an toàn, cậu biết đấy. An toàn hơn...”
Nghe không hợp lý. Nếu vẫn bận tâm về an toàn, cớ sao bà lại nói chuyện cởi mở với những người ở đây về tuổi của mình?
Trong phòng có những người khác. Phần đông ngồi trên ghế, đắm chìm trong trò chơi ô chữ hoặc kỷ niệm.
“Cậu là tình yêu của đời Rose. Cô ấy chỉ nói về mình cậu. Tôi từng có một sạp hoa kế bên chỗ hai chị em cô ấy bán hoa quả. Tom này. Tom nọ. Tom đủ mọi thứ. Cô ấy đã vui vẻ biết bao sau khi gặp cậu. Cô ấy thành một người khác hẳn.”
“Tôi yêu cô ấy nhiều lắm,” tôi nói với bà. “Cô ấy rất mạnh mẽ. Cô ấy là người vĩ đại nhất mà tôi từng biết.”
Bà mỉm cười với sự đồng cảm mơ hồ. “Hồi đó tôi là một kẻ già nua buồn bã. Chịu đựng nỗi khổ tâm của riêng mình.”
Bà đảo mắt quanh phòng. Ai đó bật ti vi. Phần danh đề mở đầu của một chương trình mang tên Cuộc sống mới dưới ánh mặt trời bắt đầu phát. Rồi đến những hình ảnh một cặp đôi bên trong nhà hàng Tây Ban Nha của họ, Blue Marlin, trông có vẻ căng thẳng khi rửa vẹm trong chậu.
Khi Mary quay mặt lại nhìn tôi, bà trầm ngâm, cơ hồ run rẩy vì suy nghĩ. Và rồi bà bảo tôi: “Tôi đã gặp con gái cậu.”
Câu nói vô thưởng vô phạt đến nỗi tôi không thực sự hiểu bà vừa nói gì.
“Bà nói sao?”
“Con cậu, Marion.”
“Marion ư?”
“Mới đây thôi. Chúng tôi ở cùng bệnh viện.”
Tâm trí tôi quay cuồng cố hiểu cho thấu. Đời thường như vậy đấy. Ta bỏ ra biết bao thời gian chờ đợi một điều gì đó - một người, một cảm giác, một mẩu thông tin - đến mức ta không thể tin nổi khi nó hiện hữu trước mặt ta. Cái hố đã quá quen với việc là cái hố đến nỗi nó không biết cách khép miệng lại nữa.
“Gì cơ?”
“Bệnh viện tâm thần ở Southall. Tôi là bệnh nhân ban ngày, chỉ là một mụ già điên khùng ngồi khóc lóc trên ghế. Con bé thì ở đó suốt. Tôi dần làm quen với nó. Khi tôi bỏ đi thì nó đã sinh ra rồi, phải không?”
“Sao bà biết đó là con gái tôi?”
Bà nhìn tôi như thể đó là một câu hỏi ngớ ngẩn. “Con bé kể cho tôi. Nó kể cho tất cả mọi người. Ngay từ đầu, đó là một trong những lý do khiến nó phải vào đó. Tất nhiên không ai tin nó cả. Con bé bị điên. Người ta nghĩ vậy đấy... Đôi khi nó nói tiếng Pháp, và hay hát.”
“Con bé hát gì?”
“Mấy bài hát xưa. Mấy bài xưa, xưa lắm rồi. Nó còn vừa hát vừa khóc.”
“Con bé vẫn còn ở đó chứ?”
Bà lắc đầu. “Nó đi rồi. Lạ lắm, cái cách chuyện xảy ra...”
“Lạ? Ý bà là gì?”
“Một đêm nó cứ thế rời đi thôi. Những người ở đó nói rằng khi ấy om sòm, náo động lắm... Thế rồi hôm sau tôi đến thì nó đã đi rồi.”
“Đi đâu? Đi đâu ?”
Mary thở dài. Bà phải mất một lúc. Nét mặt bà đượm buồn và bối rối khi nghĩ về chuyện đó. “Chẳng ai hay. Không ai hé lời. Họ chỉ bảo chúng tôi là con bé đã được xuất viện. Nhưng chúng tôi không bao giờ biết chắc chắn. Nghe có vẻ lạ, nhưng chúng tôi có bao giờ biết chuyện gì đang xảy ra đâu. Bản chất nơi đó là vậy mà.”
Tôi không thể bỏ qua được. Tôi đã chờ đợi hy vọng biết bao lâu, rồi thì hy vọng đã đến trong mười giây chỉ để vụt tắt một lần nữa. “Con bé đi đâu chứ? Nó có bao giờ cho bà biết bất kỳ manh mối nào như là nơi nó có thể đến không? Chắc hẳn phải có chứ.”
“Tôi không biết. Thành thật mà nói, tôi không biết.”
“Nó có nhắc đến nơi nào không?”
“Con bé từng đi đây đi đó. Nó có nói về những nơi đã đến. Nó từng đến Canada.”
“Canada? Ở đâu? Toronto à? Tôi từng ở Toronto.”
“Tôi không biết. Tôi không nghĩ vậy. Hình như nó cũng đã dành nhiều thời gian ở Scotland. Giọng nó đặc Scotland. Dù vậy, tôi nghĩ nó đã đi khắp mọi nơi. Khắp châu Âu.”
“Bà có nghĩ nó đang ở London không?”
“Thực lòng tôi không biết.”
Tôi ngồi lại. Ráng suy nghĩ. Lòng tôi vừa nhẹ nhõm khi Marion còn sống - hoặc gần đây vẫn còn sống - lại vừa lo lắng bởi bất cứ khổ đau nào mà con bé phải gánh chịu.
Tôi tự hỏi không biết hội đã bắt kịp con bé chưa. Tôi tự hỏi liệu có kẻ nào tìm cách bịt miệng nó không. Tôi tự hỏi liệu có phải Hendrich đã biết chuyện mà không nói với tôi. Tôi tự hỏi liệu có phải ai đó đã bắt nó. Viện nghiên cứu ở Berlin. Hay kẻ nào đó khác.
“Nghe này, Mary,” tôi nói, trước khi rời đi, “tôi nghĩ bà nhất thiết đừng nói về quá khứ nữa. Việc đó có thể gây nguy hiểm cho Marion, và nguy hiểm cho cả bà nữa. Bà nghĩ trong đầu thôi thì được. Nhưng nói chuyện tuổi tác thì nguy hiểm lắm.”
Bà nhăn mặt vì một cơn đau vô hình nào đó khi dịch người trên ghế, cố gắng cẩn thận từng chút một. Một phút trôi qua. Bà nghiền ngẫm những lời tôi nói, và rồi gạt phắt đi.
“Tôi từng yêu một lần trong đời. Một người phụ nữ. Tôi yêu cô ấy điên cuồng. Cậu có hiểu không? Chúng tôi đã bí mật bên nhau gần hai mươi năm. Và người ta bảo chúng tôi không được nói về tình yêu đó... vì nguy hiểm. Thật nguy hiểm khi yêu.”
Tôi gật đầu. Tôi hiểu chứ.
“Sẽ đến lúc cách duy nhất để bắt đầu cuộc sống là nói sự thật. Hãy là chính mình, dẫu cho đó là việc nguy hiểm.”
Tôi nắm tay Mary. “Bà đã giúp tôi nhiều hơn bà nghĩ đấy.”
Một y tá đến hỏi tôi có muốn dùng trà không nhưng tôi từ chối.
Và rồi tôi hạ giọng hỏi Mary, “Bà đã bao giờ nghe nói đến Hải âu Hội chưa?”
“Chưa. Chưa từng nghe.”
“Ừm, cẩn trọng một chút. Làm ơn, bà biết đấy, đừng nói về, bà biết đấy...”
Tôi nhìn đồng hồ treo tường. Bây giờ là ba giờ kém mười lăm. Ba tiếng nữa là tôi phải đáp máy bay đi Dubai, lên đường tới Sydney.
“Bảo trọng nhé,” tôi nói với Mary.
Bà lắc đầu. Nhắm mắt lại. Tiếng thở dài của bà nghe giống tiếng mèo kêu hơn. “Tôi đã quá già chẳng thể sợ hãi thêm được nữa. Tôi đã quá già chẳng thể nói dối được.” Bà ngả người ra trước và bấu chặt vào cây gậy chống cho đến khi các đốt ngón tay trắng bệch. “Cả cậu cũng vậy.”
Tôi ra ngoài gọi cho Hendrich.
“Tom? Sao rồi?”
“Ông có biết con bé còn sống không?”
“Ai?”
“Marion. Marion. Ông đã tìm thấy con bé chưa? Ông có biết không?”
“Tom, bình tĩnh đã. Chưa, Tom à. Cậu có manh mối gì à?”
“Con bé còn sống. Nó từng ở một bệnh viện tại Southall. Rồi sau đó nó biến mất.”
“Biến mất? Kiểu như, bị bắt cóc ư?”
“Tôi không biết. Có thể nó đã bỏ trốn.”
“Khỏi bệnh viện?”
“Đó là bệnh viện tâm thần.”
Một người đưa thư lê bước trên vỉa hè. “Tôi không biết nó đang ở đâu,” tôi thì thầm vào điện thoại. “Nhưng tôi không thể đến Australia. Tôi cần tìm con bé.”
“Nếu con bé bị bắt cóc...”
“Tôi không biết.”
“Nếu con bé bị bắt cóc, một mình cậu không tìm được nó đâu. Nghe này, nghe này. Tôi sẽ cử Agnes nghe ngóng ở Berlin. Sau vụ Australia, chúng ta sẽ tập trung vào vụ này. Chúng ta sẽ tìm thấy con bé. Nếu bị bắt cóc, có thể nó đang ở Berlin, hoặc Bắc Kinh hoặc thung lũng Silicon. Một mình cậu không tìm được nó đâu. Ý tôi là cậu ở London bấy lâu mà có tìm được nó đâu.”
“Tôi đã không tìm kiếm. Ý tôi là, tôi đã đi trệch đường.”
“Phải, Tom. Đúng. Rốt cuộc cậu cũng nhìn ra vấn đề. Cậu đã đi trệch đường. Chính xác là thế. Giờ chúng ta sẽ giải quyết chuyện này. Nhưng cậu phải bắt chuyến bay.”
“Tôi không thể. Tôi không thể.”
“Nếu muốn tìm Marion, cậu cần chuyên tâm trở lại, Tom. Cậu cần phải đi đưa bạn cậu vào cuộc. Ai biết được chứ? Biết đâu chính cậu ta lại có thông tin cho chúng ta. Cậu biết nó như thế nào mà. Muốn tìm hiểu thông tin về hải âu thì cứ hỏi các hải âu khác. Cậu cần trở lại đúng hướng, Tom à. Sự thật là: cậu nào biết Marion đang ở đâu. Nhưng chúng ta biết bạn cậu ở đâu. Và Berlin cũng vậy. Marion đã sống sót hơn bốn trăm năm rồi. Thêm một tuần nữa thì nó vẫn sống thôi. Cứ làm vụ Australia đi và tôi thề - tôi thề - là chúng ta sẽ chung tay tìm ra con bé. Cậu có đầu mối mà, phải không?”
Tôi không thể kể cho ông ta nghe về Mary Peters. Tôi không muốn gây liên lụy cho một người phụ nữ rõ ràng sẽ không bao giờ đồng ý làm thành viên của hội. “Tôi, chỉ là, tôi cần tìm con bé.”
“Chúng ta sẽ tìm, Tom à,” ông ta nói, và tôi thấy ghét ông ta gần như cũng ngang với tin ông ta. Tôi đã nhiều lần nghi ngờ ông ta, nhưng sự thật là tôi cũng cảm thấy như vậy. Tôi thấm từng từ khi ông ta nói. “Tôi có thể linh căm được nó. Tôi đã trải qua nhiều quá khứ đến mức có thể linh cảm được tương lai. Tôi biết. Tôi biết. Chúng ta sắp làm được rồi, Tom à. Cậu sẽ gặp lại con bé. Nhưng trước tiên, nếu muốn cứu bạn mình, cậu thực sự cần ra sân bay đấy. Omai cần cậu.”
Cuộc trò chuyện kết thúc và như mọi khi, tôi làm những gì Hendrich muốn tôi làm. Vì ông ta là niềm hy vọng khả dĩ nhất mà tôi có được.
[1]
Thuật ngữ âm nhạc, chỉ cường độ mạnh dần.