Phần XII
31.
Hôm sau, tôi rủ Chuột đến hồ bơi trong khách sạn Yamanote. Vì mùa hè đã sắp trôi qua và thiếu phương tiện di chuyển, nên hồ bơi chỉ có khoảng chục người. Quá nửa là khách Mỹ đang nghỉ lại khách sạn và họ chỉ lo tắm nắng thay vì bơi lội. Khách sạn được trùng tu từ biệt thự cổ của một quý tộc, có sân vườn thoáng đãng được phủ xanh cỏ, và nếu ta đi dọc hàng rào hoa hồng phân tách hồ bơi với gian nhà chính, leo lên ngọn đồi nhỏ, thì sẽ trông thấy rõ mặt biển, bến cảng và cả thành phố.
Tôi và Chuột bơi đua với nhau trong hồ bơi dài hai mươi lăm mét. Sau vài vòng ngược xuôi, chúng tôi ngồi cạnh nhau trên ghế thư giãn và uống coca cola ướp lạnh. Trong lúc tôi cố điều hòa nhịp thở và hút một điếu thuốc, Chuột bâng quơ ngắm một cô bé người Mỹ đang vui vẻ bơi mãi một mình.
Vài chiếc phản lực bay ngang bầu trời rạng rỡ để lại một vệt trắng như đông đặc.
“Hồi nhỏ, cảm giác có nhiều máy bay trên trời hơn nhỉ.”
Chuột nói vậy sau khi ngửa mặt nhìn trời.
“Nhưng hầu như mọi máy bay thời đó đều của quân đội Mỹ cả. Mấy chiếc có cánh quạt ở hai bên cánh ấy. Cậu vẫn nhớ chứ?”
“P38?”
“Không phải. Loại máy bay chuyên chở. To hơn P38 nhiều. Nó từng bay thấp đến độ có thể thấy rõ quân hiệu quân đội Mỹ… Tớ còn nhớ cả loại máy bay DC6, DC7, và cũng đã từng thấy chiếc Saver Jet nữa đấy.”
“Chà, xưa lắm đấy.”
“Ừ. Thời Eisenhower. Khi tàu viễn dương cập cảng, cả thành phố sẽ tràn đầy quân cảnh và lính hải quân, cậu từng thấy quân cảnh chứ?”
“Đã từng.”
“Tất cả mọi thứ đều mất đâu hết cả. Ừ, nhưng không có nghĩa là tớ thích quân đội đâu đấy…”
Tôi gật đầu.
“Saver là chiếc máy bay rất đỉnh. Giá mà nó không được dùng để ném bom napalm. Cậu từng thấy mấy hố bom napalm chưa?”
“Trong phim chiến tranh.”
“Nhân loại quả nghĩ ra lắm điều thật. Hơn nữa, sản phẩm từ suy nghĩ của họ cũng thật sự vĩ đại. Mười năm nữa thôi, bom napalm hẳn cũng chỉ còn là ký ức.”
Tôi cười nắc nẻ và châm điếu thuốc thứ hai. “Cậu thích máy bay à?”
“Hồi trước tớ mơ ước được làm phi công. Nhưng mắt tớ kém dần đến độ phải từ bỏ ước mơ đó.”
“Vậy sao?”
“Tớ thích bầu trời. Bầu trời chẳng bao giờ khiến người ta thấy chán nhìn ngắm bất kể lúc nào, nhưng khi không muốn nhìn thấy, ừ thì không cần nhìn nữa.”
Chuột im lặng suốt năm phút, rồi đột ngột mở miệng.
“Thi thoảng có điều gì đó tớ không thể chịu đựng nổi, dù cố gắng đến mấy. Tớ không chịu được sự thật rằng bản thân mình là người giàu. Đôi lúc tớ chỉ muốn bỏ đi. Cậu hiểu không?”
“Sao vậy?” tôi nói giọng sững sờ. “Nhưng nếu cậu muốn bỏ trốn, ừ thì cứ đi. Nếu quả thật cậu có ý định trốn chạy.”
“… Có lẽ đó là cách tốt nhất. Đi đến một thành phố xa lạ, và bắt đầu lại mọi thứ từ đầu tại nơi đó. Ý tưởng không tồi phải không.”
“Cậu không định quay lại trường sao?”
“Tớ thôi học rồi. Không muốn quay trở lại.”
Qua cặp kính đen của mình, Chuột dõi mắt nhìn theo cô bé vẫn đang bơi lội mải miết.
“Sao lại thôi học?”
“Không biết nữa. Chắc là thấy chán. Cơ mà tớ đã rất nỗ lực theo cách của riêng mình. Đến độ chính tớ còn phải bất ngờ. Tớ đã nghĩ cho người khác nhiều như nghĩ cho chính mình, bởi vậy mới bị cảnh sát đánh đấy thôi. Nhưng đến thời điểm của nó, mọi người cuối cùng rồi sẽ quay về chốn cũ của họ. Chỉ mỗi tớ không có nơi nào để quay về. Giống như trò chơi cướp ghế ấy.”
“Rồi sau này, cậu sẽ làm gì?”
Chuột thoáng nghĩ trong lúc dùng khăn lau chân.
“Tớ sẽ thử viết tiểu thuyết. Cậu nghĩ sao?”
“Ừ, viết đi.”
Chuột gật đầu.
“Mà tiểu thuyết như thế nào?”
“Tiểu thuyết hay. Dĩ nhiên là hay đối với tớ. Tớ chưa từng nghĩ mình có tài cán gì. Nhưng ít ra tớ nghĩ sẽ thật vô nghĩa nếu trí não chúng ta không thoáng mở hơn với mỗi câu chữ viết ra. Phải không?”
“Cũng đúng.”
“Viết cho mỗi riêng mình thôi… hay sẽ viết cho lũ dế.”
“Dế?”
“Ừ.”
Chuột mất một lúc xoay lật con lắc dạng đồng xu có hình gương mặt Kennedy đeo trên tấm ngực trần của mình.
“Vài năm trước, tớ từng đi cùng một cô gái đến Nara. Buổi chiều mùa hạ nóng đổ lửa, chúng tớ đi dọc dốc núi trong khoảng ba tiếng đồng hồ. Suốt đoạn đường, chúng tớ chỉ gặp những loài chim rừng vụt bay để lại tiếng kêu lanh lảnh, hay lũ dế rơi trong con đê cánh đập liên hồi. Chỉ thế thôi. Bởi ngày hôm đó thật sự rất oi bức. Sau chuyến đi, chúng tớ ngồi một lúc bên triền núi mọc đầy những sắc hoa mùa hạ rực rỡ và lau mồ hôi trong lúc thưởng ngoạn làn gió mát trong lành. Xa phía dưới trải dài một đoạn hào rộng, và bên kia triền núi là những ngôi mộ cổ vươn cao tựa những hòn đảo với cây cỏ phủ dầy rậm rạp. Những ngôi mộ đó là lăng tẩm vua chúa ngày trước. Cậu từng thấy chúng chưa?
Tôi gật đầu.
“Lúc đó tớ nghĩ, sao phải xây những lăng tẩm xa hoa đến vậy? … Lẽ dĩ nhiên mỗi ngôi mộ đều mang một ý nghĩa. Là người thì ai rồi cũng đến một lúc nào đó phải chết. Vậy đấy. Nấm mộ gợi chúng ta nghĩ đến điều đó. Nhưng những ngôi mộ kia lại quá lộng lẫy. Đôi lúc, sự xa hoa biến đổi bản chất một điều thành điều khác. Thực tế, lăng tẩm đó trông hoàn toàn không giống những ngôi mộ. Giống những trái núi thì đúng hơn. Mặt hào đầy những ếch và thủy tảo, còn quanh gờ tường giăng đầy mạng nhện. Tớ lặng im ngắm nhìn những nấm mồ đó và lắng nghe tiếng gió lướt trên mặt nước. Cảm xúc lúc đó thật rất khó diễn tả bằng lời. Ừhm, không hẳn là thứ có thể gọi tên cảm xúc. Đó là thứ cảm giác được bao bọc gọn gẽ. Nói cách khác, lũ dế, muỗi, nhện, gió, tất cả hòa thành một và lửng lơ trên bầu trời.”
Sau khi nói vậy, Chuột uống cạn ngụm coca cola cuối cùng đã không còn chút bọt.
“Mỗi lần đặt bút viết, tớ luôn hồi nhớ lại buổi chiều mùa hạ hôm ấy cùng những nấm mồ cây cỏ rậm rạp phủ đầy. Rồi tớ nghĩ thế này. Sẽ tuyệt làm sao nếu mình có thể viết điều gì đó cho lũ dế, ếch, nhện, cùng những bông hoa mùa hạ và gió.”
Nói xong, Chuột choàng hai tay sau cổ rồi im lặng ngắm nhìn bầu trời.
“Vậy rồi… cậu đã thử viết gì chưa?”
“Chưa. Tớ chưa viết một dòng nào cả. Tớ không thể viết được điều gì hết.”
“Sao vậy?”
“Các con là muối đất.[2]”
“Hả?”
“Nếu muối đã lạt, phải ướp muối thêm cho mặn lại.” Chuột nói.
Chiều buông và ánh ngày dần tắt lịm, chúng tôi rời khỏi hồ bơi và vào quầy bar nhỏ trong khách sạn. Một bản dân ca Ý của Mantovani[3] đang hát vang. Chúng tôi uống bia lạnh. Ánh đèn bến cảng trông thấy rõ qua ô cửa rộng.
“Người phụ nữ đó sao rồi?”
Tôi lấy can đảm để hỏi về việc đó.
Chuột lấy mu bàn tay chùi lớp bọt dính trên mép rồi nhìn trời mây như thể đang nghĩ ngợi điều gì.
“Tớ bảo cậu biết, thật ra tớ định chẳng nói gì với cậu về chuyện này. Vấn đề là, việc đó quả thật rất ngu ngốc.”
“Nhưng cậu đã từng định bàn bạc việc đó với tớ, đúng không?”
“Thì có. Nhưng sau một đêm suy nghĩ tớ lại thôi. Tớ hiểu ra trên đời này luôn có những điều mình sẽ chẳng thể nào giải quyết được.”
“Chẳng hạn?”
“Chẳng hạn cái răng sâu. Một ngày kia, cái răng sâu bỗng dưng đau nhói. Ai đó cố an ủi chúng ta, nhưng không có nghĩa cảm giác nhức nhói đó sẽ hết. Nếu đã vậy, chúng ta bắt đầu thấy khó chịu với bản thân mình. Rồi chúng ta cũng bắt đầu thấy bực bội với những người không cảm thấy khó chịu với bản thật họ. Hiểu không?”
“Một ít,” tôi đáp. “Nhưng cậu thử nghĩ tích cực xem. Thân phận mọi người đều như nhau. Giống như chúng ta cùng ngồi trên một chuyến bay gặp nạn. Dĩ nhiên trong máy bay có người may mắn và người xui xẻo. Có người mạnh mẽ, cũng có kẻ yếu đuối; có người giàu, lẫn người nghèo. Chỉ là, không ai mạnh mẽ hơn ai quá nhiều. Mọi người như nhau. Người sở hữu điều gì đó luôn sợ hãi lỡ điều mình đang có lúc này sẽ biến mất, trong khi người không có gì cả luôn lo sợ lỡ mình mãi mãi sẽ là kẻ trắng tay. Mọi người như nhau! Bởi vậy, người sớm hiểu ra điều đó phải cố gắng mạnh mẽ hơn đôi chút. Cũng chỉ đến mức giả vờ như không có việc gì. Đúng không? Đâu cũng vậy, chẳng ai là mạnh mẽ. Chỉ có người giả vờ mạnh mẽ mà thôi.”
“Tớ hỏi cậu một điều được không?”
Tôi gật đầu.
“Cậu có thật sự khẳng định điều đó?”
“Có.”
Chuột thoáng nghĩ ngợi, ngắm nhìn chai bia.
“Cậu có sẵn lòng bảo rằng nãy giờ cậu chỉ toàn nói dối?”
Chuột nói giọng nghiêm túc.
Sau khi đưa Chuột về nhà, tôi ghé vào quán Jay’s Bar một mình.
“Sao rồi? Đã nói chuyện với cậu ta chưa?”
“Rồi.”
“Nếu thế thì tốt quá.”
Sau khi nói vậy, Jay đặt dĩa khoai tây chiên trước mặt tôi.
32.
Mặc dù viết rất nhiều, Derek Heartfield là tác gia rất hiếm khi trực tiếp kể về cuộc sống, mơ mộng, và tình yêu. Trong tác phẩm nhan đề Around a Rainbow in One and a Half Circle (1973) viết theo lối bán tự truyện tương đối nghiêm túc (nghiêm túc ở đây nghĩa là không có mẫu nhân vật người ngoài hành tinh hay hồn ma), Heartfield đã thổ lộ đôi chút nỗi lòng mình qua những câu chữ ngắn gọn, được ngụy trang bằng những lời châm biếm, giễu cợt, mỉa mai, và ngạo ngược.
‘Tôi xin thề trên quyển sách linh thánh nhất trong căn phòng này, tức quyển danh bạ điện thoại được viết theo thứ tự bảng chữ cái, rằng tôi sẽ chỉ nói sự thật và sự thật. Cuộc sống là một sự trống rỗng. Tuy nhiên chắc chắn có sự cứu rỗi. Bởi lẽ thuở ban đầu sống không phải là điều gì thật sự rỗng không. Mà trên thực tế, chính chúng ta đã chất chồng khổ đau lên đau khổ rồi lại nỗ lực mài mòn nỗi bất hạnh ấy từng chút một, đến độ cuộc sống cũng trở nên trống rỗng. Tôi sẽ chẳng kể tỉ mỉ chúng ta đã nỗ lực thế nào, và làm thế nào chúng ta tiêu mòn nó. Bởi việc đó sẽ rất phiền phức. Nếu ai đó thật lòng muốn biết, xin mời đọc tác phẩm Jean Cristophe của Romain Rolland[4]. Tất cả được viết trong đó.’
Heartfield rất thích Jean Cristophe vì tác phẩm đó đã miêu tả một cách hài hòa và rõ ràng duy mỗi một người từ khi sinh ra đến lúc mất đi, và cũng bởi tác phẩm đó thuộc loại tiểu thuyết dài hơi. Ông cho rằng thứ được gọi là tiểu thuyết, miễn có dạng thông tin, phải có thể được thuật lại một cách sống động và theo trình tự thời gian. Theo ông, sự tỉ mỉ nêu trên tương đồng với mặt lượng của tiểu thuyết.
Ông luôn phê phán tác phẩm War and Peace của Tolstoy. Ông nói, “Về mặt lượng quả thật không có vấn đề.” Ông cũng nói rằng trong tác phẩm đó không thấy tồn tại quan điểm nào về vũ trụ. “Bởi vậy, tiểu thuyết đó tạo cho tôi một ấn tượng rất không hài hòa,” ông nói. Khi sử dụng cụm từ ‘quan điểm về vũ trụ’, thường ông muốn nói đến ‘sự trống rỗng’.
Tiểu thuyết ông thích nhất là A Dog of Flanders[5]. Ông từng nói, “Này, tin nổi không con chó có thể chết chỉ vì một bức tranh?”
Trong một buổi phỏng vấn, ký giả một tờ báo đã hỏi Heartfield thế này. “Nhân vật chính trong tiểu thuyết của ông, Wald, đã chết hai lần ở Hỏa tinh và một lần ở Kim tinh. Liệu có mâu thuẫn lắm không?”
Heartfield trả lời như sau, “Anh có biết thời gian chuyển động thế nào trong vũ trụ?”
“Không,” tay ký giả đáp. “Nhưng cũng chẳng một ai biết được điều đó.”
“Vậy chứ viết tiểu thuyết mà nội dung của nó mọi người điều biết cả rồi thì có ý nghĩa gì?”
†
Trong số những tác phẩm của Heartfield, có một truyện ngắn rất khác so với những tác phẩm còn lại, tựa truyện là A Well in Mars. Nội dung truyện ngắn đó như mốc đánh dấu sự xuất hiện của Ray Bradbury[6]. Vì đã đọc truyện đó cách đây rất lâu, tôi cũng không nhớ rõ nội dung cho lắm, song dù gì tôi cũng xin phác thảo lại câu chuyện ấy.
Chuyện kể về một thanh niên đã bước vào một cái giếng không đáy, thứ được đào rất nhiều trên bề mặt sao Hỏa. Người ta đã xác định những cái giếng đó do người sao Hỏa đào hàng chục ngàn năm trước, nhưng lạ kỳ là tất cả những cái giếng được đào một cách tỉ mỉ đó lại không chứa một dòng nước nào. Không ai biết được mục đích họ đào những cái giếng đó. Trên thực tế, người sao Hỏa không để lại bất kỳ thứ gì ngoại trừ những cái giếng. Không ký tự, nhà cửa, bộ đồ ăn, sắt thép, mồ mả, hỏa tiễn, phố thị, máy bán hàng tự động, đến vỏ sò cũng không. Chỉ có giếng. Các nhà khoa học trái đất gặp khó khăn khi phải đánh giá với điều kiện như vậy có thể được gọi là nền văn minh. Dù gì đi nữa, những cái giếng đó đã được đào một cách tỉ mỉ, và sau hàng mấy chục năm một phiến đá cũng chẳng rời ra.
Hiển nhiên cũng đã có vài nhà thám hiểm và nhóm nghiên cứu đi vào trong những cái giếng đó. Những người có buộc dây phải quay ra vì những cái giếng quá sâu và những nhánh rẽ sang bên quá dài. Còn những kẻ không mang theo dây thì chẳng bao giờ trở lại.
Một ngày kia, một thanh niên đang du hành ngoài không gian đi vào trong giếng. Anh đã chán ngán vũ trụ bao la và mong mỏi một cái chết không ai biết đến. Càng đi sâu xuống, cái giếng càng khiến anh cảm thấy thân thuộc, và một nguồn sinh lực lạ kỳ bắt đầu bao bọc nhẹ nhàng khắp cơ thể. Sau khi đã đi xuống khoảng một cây số, anh gặp một nhánh rẽ sang phía bên, và bước vào trong đấy. Anh vô định đi mãi theo những đoạn đường uốn khúc quanh co. Anh không rõ mình đã đi được bao lâu vì đồng hồ đeo tay đã chết. Có thể là hai tiếng, cũng có thể đã hai ngày. Anh không thấy đói khát hay mệt mỏi, và nguồn sinh lực kỳ lạ bao bọc cơ thể anh lúc trước đến giờ vẫn còn cảm thấy.
Đến một lúc đột ngột anh cảm thấy có ánh mặt trời. Nhánh rẽ sang phía bên đó có vẻ đã thông qua một cái giếng khác. Anh leo lên miệng giếng và ló ra lại trên bề mặt sao Hỏa.
Anh ngồi trên miệng giếng, dõi nhìn thảo nguyên bao la không gì che chắn, rồi ngắm mặt trời. Có điều gì thật lạ. Vị gió, mặt trời… Mặc dù treo giữa đỉnh ngày, mặt trời đã hóa thành khoanh tròn lớn màu đỏ rực, chẳng khác gì lúc hoàng hôn.
“Hai trăm năm mươi ngàn năm nữa mặt trời sẽ nổ tung đấy. Bùm… OFF. Hai trăm năm mươi ngàn năm. Không phải là quá dài đúng không.”
Gió thì thầm với anh.
“Ngươi không cần nghĩ ngợi về ta. Ta chỉ là gió. Nếu muốn, ngươi có thể gọi ta là người sao Hỏa. Nghe cũng không tệ lắm. Hơn nữa, với ta ngôn từ chẳng mang ý nghĩa gì.”
“Nhưng ngươi có thể nói.”
“Ta? Chính ngươi là người đang nói. Ta chỉ gợi lời trong tim ngươi thôi.”
“Chuyện gì xảy ra với mặt trời?”
“Mặt trời đã già cỗi. Đã giãy chết. Ngươi hay ta cũng không thể làm gì được nữa.”
“Sao bất ngờ lại…?”
“Ai bảo vậy? Khi ngươi ra khỏi miệng giếng, thời gian đã trôi đi khoảng 1,5 triệu năm. Như thành ngữ thế giới ngươi vẫn nói, thời gian như tên bắn. Cái giếng nơi ngươi bước ra được đào theo nhánh thời gian. Nói cách khác, chúng ta đang trôi lơ lững giữa thời gian. Khoảng thời gian giữa sáng thế và cái chết. Do đó, chúng ta không sống, cũng không chết. Chỉ là gió.”
“Tôi hỏi một câu có được không?”
“Rất sẵn lòng.”
“Ngươi đã học hỏi được điều gì?”
Không khí khẽ rung động, gió cười. Rồi sự tĩnh lặng vĩnh hằng trở lại bao trùm bề mặt sao Hỏa. Người thanh niên rút khẩu súng lục ra khỏi túi, ép nòng súng vào thái dương, rồi chậm rãi bóp cò.
Chú thích:
[2] “Các con là muối đất. Nếu muối đã lạt, người ta biết lấy gì mà ướp cho mặn lại?” (Mathew 5:13–16)
[3] Annunzio Paolo Mantovani, nhạc trưởng người Ý.
(4]Tác gia và kịch gia người Pháp (29 tháng Một 1866 – 30 tháng Mười Hai 1944). Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là loạt truyện Jean Cristophe dài mười chương.
[4] Tác phẩm của Marie Louise de la Ramée viết về một đứa bé tên Nello và con chó tên là Patrasche.
[6] Ray Douglas Bradbury, nhà văn giả tưởng, khoa học viễn tưởng vả kinh dị người Mỹ, sinh ngày 22 tháng Tám 1920.