← Quay lại trang sách

Lối đi cho ngựa

Đôi mắt tôi dán vào tấm áp-phích in hình cá vây đen biến thành những con thiên nga trắng, bay qua tấm bản đồ Midgard, quanh khung cửa, qua rèm cửa phòng tôi, được ánh mặt trời mùa xuân làm sáng lên màu tím, rồi rơi xuống mặt giếng chói lóa.

Lắng nghe tiếng thở của căn nhà khiến ta như ở trạng thái không trọng lượng.

Nhưng chỉ nằm dài không khoái lắm nếu mọi người đã dậy và đi hết, thế nên tôi nhảy khỏi giường. Rèm đầu cầu thang vẫn kéo ra bởi mẹ và Julia lên đường đi London lúc trời còn tối. Bố thì đi dự một cuộc hội thảo cuối tuần khác ở Newcastle under Lyme hay Newcastle on Tyne. Hôm nay toàn bộ căn nhà thuộc về tôi.

Đầu tiên tôi đi đái, ra khỏi nhà vệ sinh mà vẫn để cửa mở toang. Tiếp theo, tôi vào phòng của Julia, và bật đĩa hát Roxy, bình thường thì Julia sẽ nổi điên lên. Tôi tăng âm lượng đến điếc tai, ba sẽ mất trí nếu đầu bị tra tấn. Tôi nằm ườn ra chiếc ghế sô-pha kẻ sọc của Julia và nghe bài hát Virginia Plain. Dùng ngón chân cái, tôi đập nhẹ vào cái chuông gió làm bằng những cái đĩa nhỏ và mảnh vỏ sò mà Kate Alfrick tặng chị ấy dịp sinh nhật cách đây vài năm. Rồi tôi lục hét các ngăn kéo của chị để tìm cuốn nhật ký bí mật. Nhưng khi tìm thấy một hộp băng vệ sinh, tôi cảm thấy xấu hổ và dừng lại.

Trong văn phòng lạnh cóng của ba, tôi mở cái tủ đựng hồ sơ có ngăn kéo và hít vào bầu không khí có mùi kim loại. (Một bao thuốc miễn thuế Benson&Hedges đã xuất hiện kể từ chuyến thăm lần trước của bác Brian). Rồi tôi xoay tròn trên chiếc ghế như trong Millenium Falcon (Thiên niên kỷ Falcon) của ba, chợt nhớ ra hôm nay là Ngày nói dối[41], nhấc chiếc điện thoại không được phép chạm tới của ba lên và nói “Alô? Craig Salt à? Jason Taylor đây. Nghe này, Salt, anh bị sa thải. Anh muốn nói gì, tại sao? Vì anh là một thằng béo ị, đó là lý do. Nối máy với Ross Wilcox cho tôi ngay! À, Wilcox hả? Jason Taylor đây. Nghe này, bác sĩ thú y sẽ tới để cho mày hết đau khổ. Tạm biệt, đồ của nợ. Thật tởm vì đã biết mày”.

Trong căn phòng màu kem của ba mẹ, tôi ngồi ở bàn trang điểm của mẹ, vuốt tóc bằng loại kem L’Oréal, lấy son kẻ một sọc kiểu Adam Ant[42] ngang mặt và kẹp một chiếc trâm bằng ngọc mắt mèo phía trên một mắt. Tôi nhìn ánh nắng mặt trời qua chiếc trâm này để tìm những màu sắc bí mật mà chưa được ai đặt tên.

Dưới nhà, một tia nắng mỏng manh xuyên tới một chiếc chìa khóa Yale vàng và mấy lời nhắn:

Jason

Đây là chìa khóa cửa trước của con, đừng làm mất. Mẹ đã để một chiếc dự trữ chỗ bác Woolmere phòng khi con làm mất. Số điện thoại của bác Alice trên đệm. Nếu con thấy mệt mỏi, hãy sang nhà bác Woolmere nhé. Con có thể tự làm một chiếc bánh xăng-uých để ăn trưa, nhưng hãy để bánh mì vào thùng kẻo nó thiu. Hãy ăn bát xa-lát hoa quả. 10 giờ tối nay mẹ sẽ về. Tắt hết mọi công tắc khi con ra khỏi nhà. Khóa cửa. Đừng xem tivi quá nhiều.

Yêu con

Mẹ

Ôi. Chiếc chìa khóa của chính tôi. Chắc chắn sáng nay mẹ đã quyết định để nó cho tôi vào phút cuối cùng. Thông thường nhà tôi để một chiếc dự phòng trong đôi ủng ở ga-ra. Tôi nhảy bổ lên gác, chọn một vòng đeo chìa khóa mà có lần bác Brian cho, có hình một con thỏ đeo nơ đỏ. Tôi đeo nó vào thắt lưng và trượt xuống thành cầu thang. Trong bữa sáng, tôi ăn bánh gừng Jamaica hiệu McVitie, uống một cốc thập cẩm gồm sữa, cô-ca và Ovaltine. Không tệ. Ôi, còn tốt hơn “không tệ”! Mỗi giờ của ngày hôm nay sẽ có một thanh sô-cô-la Black Magic đang nằm trong hộp đợi tôi. Tôi vặn đài trong bếp từ kênh 4 sang kênh 1. Bài hát tuyệt vời với tiếng sáo mơ hồ của nhóm Men At Work đang phát. Tôi ăn liên tiếp ba chiếc bánh ngọt Mark & Spencer trong hộp. Những đàn chim đang bay xếp thành hình chữ V ngang trời. Những đám mây hình nàng tiên cá trôi qua khu đất của nhà thờ, trên những cây gà con, trên đồi Malvern. Chúa ơi, tôi muốn bay theo chúng.

Cái gì đang ngăn cản tôi?

Ông Castle đi đôi ủng màu xanh, rửa chiếc xe Vauxhall Viva bằng vòi tưới cây. Cửa trước mở nhưng phòng trước tối om. Có thể bà Castle đang trong chỗ tối đó và theo dõi tôi. Hầu như chẳng bao giờ thấy mặt bà Castle. Mẹ gọi bà ấy là “người phụ nữ tội nghiệp” và bảo bà ấy bị thần kinh. Bệnh thần kinh có lây không? Tôi không muốn nói lắp làm mờ đi ánh nắng buổi sáng, thế nên tôi cố gắng chuồn mà không để ông Castle nhìn thấy.

— Chào buổi sáng, anh bạn trẻ.

— Chúc ông một buổi sáng tốt lành, ông Castle - Tôi trả lời.

— Đi nghỉ ở nơi nào đặc biệt à?

Tôi lắc đầu. Dù gì ông Castle cũng khiến tôi lo lắng. Một lần tôi nghe ba nói với bác Brian rằng ông ấy là thành viên hội Tam Điểm, như thế nghĩa là có liên quan tới ma thuật và những hình ngôi sao - Buổi...buổi sáng (Gà treo cổ chặn từ “nay”) dễ chịu nên...

— Ồ, không chỉ thế. Không chỉ thế đâu!

Những tia nắng mềm mại trải xuống kính chắn gió của chiếc xe.

— Thế cậu bao nhiêu tuổi, Jason? - Ông Castle hỏi như thể mình đã bàn thảo với một nhóm chuyên gia suốt bao ngày.

— Mười ba - tôi nói, cho rằng ông ta nghĩ mình vẫn mười hai.

— Cậu mười ba? Thật đấy à?

— Mười ba.

— Mười ba - Ông Castle nhìn thấu người tôi - Cổ thật.

Cái bậc ở đầu khu Kingfisher Meadows là đầu lối đi dành cho ngựa. Một tấm biểu màu xanh đề lối đi chung dành cho ngựa, với hình con ngựa để chứng tỏ điều ấy. Điểm cuối thực sự của con đường này khuất xa vài dặm. Ông Broadwas bảo nó chạy vào rừng Red Earl rồi biến mất. Pete Redmarley với Nick Yew bảo rằng có lần bọn nó đã đi săn thỏ và chồn hương theo còn đường này, đường bị chắn ngang bởi một khu đất mới ở Malvern Wells. Nhưng nhiều nhất vẫn là tin đồn rằng con đường dành cho ngựa dần tới chân đồi Pinna; từ nơi này, nếu len lỏi qua những bụi có gai to, những bụi thường xuân xanh sẫm và đám ong, muỗi ghê gớm thì ta sẽ thấy cửa một đường hầm cũ. Đi qua đường hầm sẽ tới Herefordshire. Gần cái tháp. Đường hầm bị mất dấu từ xưa nên tin này được đăng ngay trang đầu báo Malvern Gazeeter. Thế hay đấy chứ?

Tôi sẽ theo con đường dành cho ngựa đến tận điểm cuối bí ẩn của nó, dù nó nằm ở đâu.

Đoạn kéo dài đầu tiên của con đường chẳng có gì bí ẩn hết. Mọi đứa trẻ trong làng đều đã đến đó cả trăm lần. Nó chỉ chạy qua vài khu vườn sau nhà tới cánh đồng cằn cỗi. Thật ra nó là một khu đất phía sau hội trường làng, thuộc về bố Gilbert Swinyard. Khi ông Swinyard không thả cừu ở đó, bọn tôi được phép đá bóng. Chúng tôi xếp áo khoác làm gôn và chẳng để ý gì đến việc ném biên. Tỷ số cao như tỷ số bóng bầu dục, còn một trận có thể kéo dài vài giờ, cho đến khi còn đứa cuối cùng. Có lúc bọn ở Welland và Castlemorton đi xe đạp đến và rồi những trận bóng giống những trận chiến hơn trận đấu.

Sáng nay trên cánh đồng cằn cỗi chẳng có một ai, trừ tôi. Lát nữa có thể sẽ diễn ra một trận đấu. Sẽ chẳng cầu thủ nào biết rằng Jason Taylor đã ở đây trước chúng. Khi đó thì tôi đã cách xa chúng nhiều cánh đồng, có thể sâu trong lòng đồi Malvern.

Đám ruồi bóng nhẫy đậu trên những đám phân bò.

Những lá mới đâm ra từ những nhánh cây trên bờ giậu.

Phấn hoa bay đầy không trung, mùi như nước sốt ngọt.

Trong bãi trồng cây lấy củi, lối đi cho ngựa nối với một con đường có từ rất lâu rồi. Phía trên đầu, cây đan vào nhau, nên chỉ thấy bầu trời hình các vòng, các gút. Trời tối và lạnh, tôi nghĩ lẽ ra mình nên mang theo áo khoác. Đi qua một đoạn đường vòng và hõm, tôi gặp một căn nhà lợp rơm, tường làm bằng gỗ cong queo và gạch đen như bồ hóng. Những con nhạn đang bận rộn trong mái hiên. Trên cánh cổng bằng những tấm gỗ ghép, một tấm biển ghi NHÀ RIÊNG treo ở nơi lẽ ra ghi tên chủ nhà. Hoa mới nở trong vườn là hoa cam thảo các loại màu xanh, hồng và vàng. Có thể tôi nghe tiếng kéo, nghe thấy tiếng một ai đứng đang đọc một bài thơ vọng ra từ những khe hở của căn nhà. Thế nên tôi dừng lại nghe, chỉ một phút, như thể một con chim cổ đỏ đói đang lắng nghe tiếng sâu bọ.

Đám chó đâm bổ vào tôi.

Tôi giật lùi ngang sang bên kia đường rồi ngồi bệt xuống.

Cánh cổng rít lên nhưng ơn Chúa, vẫn đóng chặt.

Hai, không phải, ba con chó giống Dobermann xô đẩy nhau, tì vào cổng, đứng trên hai chân sau và sủa như điên. Kẻ cả khi tôi đứng lên chúng cũng cao ngang bằng tôi. Nếu có cơ hội thì tôi đi ngay, nhưng những con chó có răng nanh trông như thời tiền sử, mắt long lên như bị dại, những cái lười thè lè và sợi dây xích quanh cổ. Bộ da của chúng như thể da lộn màu đen được đánh xi nâu, không chỉ bọc lấy cơ thể của những con chó mà cả thứ gì đó khác, thứ gì đó cần phải tiêu diệt.

Tôi sợ nhưng vẫn phải nhìn lũ chó.

Rồi tôi bị một cú chọc mạnh từ phía sau.

— Cậu đang trêu tức đám con trai của tôi đấy!

Tôi quay lại. Môi của người đàn ông vều lên, bộ tóc đen như bồ hóng của ông ta có một vệt trắng như bị cứt chim dính vào. Trong tay là một chiếc gậy chống, đủ dài để xiên một cái sọ người - Cậu đang trêu tức đám con trai của tôi đấy!

Tôi nuốt nước bọt. Luật lệ ở đường dành cho ngựa khác với luật ở đường cái.

— Tôi không thích chuyện đó - Ông ta liếc những con Dobermann - Im ngay!

Bọn chó im ngay và lủi khỏi cổng.

— Chà, phải nói gan cậu to thật - Người đàn ông xem xét thêm một chút - Trêu đám con trai của tôi từ phía này cổng.

— Chúng là...những con vật đẹp.

— Ô, thế sao? Đám con trai của tôi sẽ biến cậu thành thịt xay nếu tôi gật đầu đồng ý. Khi đó cậu vẫn gọi chúng là “những con vật đẹp”?

— Cháu nghĩ là không.

— Tôi cũng nghĩ là không. Cậu muốn làm chúng quên thì phải chuyển tới nhà mới, đúng chứ?

— Tôi gật đầu.

— Biết cái đó rồi. Người dân ở đây tôn trọng đám con trai của tôi hơn một vài thằng dân phố. Các cậu tới đây, đi chơi lăng quăng, để các cổng mở, dựng lên các tòa nhà đồ chơi trên mảnh đất chúng tôi đã trồng cấy bao nhiêu thế hệ. Làm cho tôi phát ớn. Chỉ cần nhìn cậu đã thấy thế rồi.

— Cháu không làm hại gì cả. Nói thật đấy.

Ông ta xoay tít cây gậy - Cậu có thể xéo rồi đấy!

Tôi bắt đầu bước thật nhanh, chỉ ngoái lại một lần.

Người đàn ông vẫn không rời mắt khỏi tôi.

“Nhanh hơn đi”, Thằng em sinh đôi chưa hề ra đời giục. “Chạy đi!”

Tôi sợ cứng người, nhìn người đàn ông mở cánh cổng. Ông ta vẫy tay cứ như thân thiện lắm - tóm lấy thằng chó chết, các con trai!

Ba con Dobermann đen phi thẳng về phía tôi.

Tôi chạy hết sức nhưng thằng bé 13 tuổi chẳng thể nhanh hơn ba con Dobermann đang sủa inh ỏi. Qua một bụi cỏ dày, tôi bỏ chúng lại phía sau, mặt đất hút hết cả hơi từ người tôi, tôi thoáng nhìn thấy sườn của một con chó nhảy bổ lên. Tôi hét như một đứa con gái và cuộn tròn người lại, đợi những chiếc răng nanh cắm ngập vào người, vào mắt cá tôi, dãi nhỏ ra, chờ đợi sự tranh giành, cắn xé, giằng giật, chờ đợi những con vật đang sủa sẽ ra đi với cả tim gan và thận của tôi.

Cạnh đó, một con cúc cu cất tiếng hót. Chắc chắn một phút đã trôi qua?

Tôi mở mắt và ngóc đầu lên.

Không thấy đám chó và chủ của chúng đâu.

Một con bướm vỗ cánh cách chỉ vài inch[43]. Thận trọng, tôi ngồi dậy.

Trên người có vài chỗ bầm tím, mạch vẫn còn đập nhanh và loạn xạ. Nhưng tôi vẫn ổn.

Ổn, nhưng đã bị dính độc. Ông chủ của lũ chó ghét tôi vì tôi không sinh ra ở đây. Ông ta ghét tôi vì sống ở Kingfisher Meadows. Đó là sự căm ghét không thể cãi lại được, không khác gì cãi lại lũ Dobermann điên.

Những mạng nhện dính sương chăng ngang mặt tôi.

Cánh đồng rộng đầy bọn cừu cái và đám cừu mới được đóng dấu. Bọn cừu dồn sát vào nhau, rống lên như những chiếc Fiat Noddy, có vẻ mừng rỡ một cách ngu ngốc khi thấy tôi. Nọc độc của lão chủ và những con Dobermann đã bắt đầu giảm một chút. Vài con cừu mẹ tiến lại gần, chúng không thật tin tưởng tôi. Chỉ bởi với bọn cừu, không thể hiểu tại sao nông dân lại tốt với chúng. (Con người cũng cần cảnh giác với lòng tốt không có lý do. Không bao giờ không có lý do mà lý do lại thường không tốt).

Khi trông thấy vài đứa trẻ trên đường xe lửa cũ, tôi đã đi hết một nửa cánh đồng. Phía trên trạm đo độ sâu, gần chiếc cầu gạch, chúng đã nhìn thấy tôi, và nếu tôi đổi hướng chúng sẽ biết tôi đang tránh mặt. Thế nên tôi đi thẳng về hướng chúng. Tôi nhai một thanh kẹo cao su Juicy Fruit tìm thấy trong túi. Thỉnh thoảng tôi sút tung vài cây kế mọc cao hẳn lên, chỉ để tỏ ra mình trông oai.

Tôi đã gặp may. Ba đứa kia là Grant Burch, thằng hầu Philip Phelps và Ant Little, bọn nó đang chuyền nhau một điếu thuốc. Từ trong trạm Darren Croome, Dean Moran và Squelch bò ra.

Grant Burch gọi - Ổn chứ, Taylor?

Phelps nói - Đến xem đánh nhau à?

Từ chân con đường tôi hỏi vọng lên - Sao lại đánh nhau?

— Tao - Grant Burch bịt một lỗ mũi, lỗ kia xì ra một đống - đánh nhau với Ross Wilcox “Bựa dái” 3.

Hay đấy - Vì sao lại đánh nhau?

— Tối qua tao với Swinyard chơi trò Thiên thạch ở làng Thiên nga đen. Wilcox vào, làm như vua ấy, chẳng nói gì rồi đi và còn ném điếu thuốc vào cốc bia pha nước chanh của tao. Không thể tin nổi! Tao hỏi “Mày cố ý làm thế à?”. Wilcox bảo “Mày nghĩ thế nào?”. Tao bảo “Mày sẽ phải ân hận vì điều đó, thằng cứt đái”.

— Hay quá! - Philip Phelps cười nhăn nhở - Thằng cứt đái.

— Phelps - Grant Burch cau mày - không được chen vào khi tao đang nói chuyện.

— Xin lỗi, anh Grant.

— Thế nên, dù thế nào, tao nói “Mày sẽ phải ân hận vì điều đó, thằng cứt đái”. Wilcox bảo “Chơi tao đi”. Tao bảo “Lát ra ngoài nhé?”. Wilcox bảo “Để tao tìm chỗ nào Isaac Pye tới được và lôi tao ra khỏi mày”. Tao bảo “OK, đồ bựa dái, mày bảo ở đâu?”. Wilcox bảo “Sáng mai. Nhà đo độ sâu. Chín rưỡi”. Tao bảo “Nên gọi xe cứu thương đi, thằng trộm cứt. Tao sẽ tới đó”. Wilcox chỉ bảo “Tốt” và đi ra ngoài.

Ant Little nói - Wilcox điên rồi. Anh sẽ nghiền nó thành kem, Grant.

— Đúng đấy - Darren Croome bảo - Tất nhiên anh sẽ làm thế.

Tuyệt vời. Ross Wilcox đang lập một băng ở trường và nó nói rõ là sẽ bắt tôi gia nhập. Grant Burch là một trong những đứa học năm thứ ba cứng đầu nhất. Wilcox mất mặt trong vụ này sẽ bị gọi là thằng thua, thằng hủi.

— Mấy giờ rồi, Phelps?

Phelps nhìn đồng hồ đeo tay - 10 giờ kém 15, anh Grant.

Ant Little nói - Chuồn rồi, em đoán thế.

Grant Burch xì mũi lần nữa - Bọn ta sẽ đợi đến 10 giờ. Rồi đến vườn Wellington để mời Wilcox ra chơi. Không thằng nào thoát khi láo với tao như vậy.

Phelps nói - Còn bố nó thì sao, anh Grant?

Ông ta không đưa mẹ Wilcox đến bệnh viện à?

— Tao không sợ tay thợ cơ khí còng lưng. Đưa tao điếu thuốc nữa.

Phelps lầm bầm - Chỉ còn thuốc Woodbin, anh Grant, xin lỗi.

— Woodbine?

— Đấy là toàn bộ những thứ mẹ em để trong túi xách. Em xin lỗi.

— Còn loại Number Six của ông già mày?

— Sợ là không còn điếu nào. Em xin lỗi.

— Chúa ơi! Được rồi. Đưa bọn tao Woodbine. Taylor, muốn hút không?

— Bỏ rồi - Ant Little nói vẻ khinh bỉ - Phải không Taylor?

— Em hút lại rồi - Tôi bảo Grant Burch rồi leo lên đường.

Dean Moran giúp tôi leo lên mép đường lấm bùn - Ổn chứ?

Tôi bảo “ổn”.

— Hê...hê...hê... - Squelch cưỡi trạm đo độ sâu như một con ngựa và quất vào mông nó bằng một cái roi mềm - Giữa tuần sau ta sẽ đá đít thằng ranh đó - Chắc chắn Squelch đã học kiểu này trong phim.

Một thằng thuộc hàng trung bình như tôi không nên từ chối lời mời của một thằng hơn tuổi như Grant Burch. Tôi kẹp điếu Woodbine trong tay như ông anh họ đã dạy và giả vờ rít một hơi dài (thực ra tôi giữ khói trong miệng). Ant Little đang hy vọng tôi sẽ ho nôn cả ruột gan ra. Nhưng tôi chỉ nhả khói như đã làm rất nhiều lần, rồi đưa điếu thuốc cho Darren Croome (tại sao một thứ bị cấm như hút thuốc lại tởm thế nhỉ). Tôi liếc xem mình đã tạo ấn tượng thế nào với Grant Burch nhưng nó đang mải ngóng nhìn thằng dở người chậm giờ hẹn đang băng qua nghĩa địa nhà thờ thánh Gabriel - Trông nó lòe loẹt chưa kìa!

Hai đấu thủ gườm nhau ở phía trước nhà đo độ sâu. Grant Burch cao hơn Ross Wilcox một hoặc hai inch, nhưng Ross Wilcox to con hơn. Gary Drake và Wayne Nashend đi hộ vệ nó. Wayne Nashend từng là một thằng du côn của Upton, nhanh chóng trở thành một tay lãng mạn kiểu mới, nhưng bây giờ thì chắc chắn là một tay Mod[44] ở Upton. Hắn là một thằng hoàn toàn ngu dốt nhưng Gary Drake thì không. Nó cùng lớp với tôi, thằng này với Ross Wilcox là anh em họ nên hai đứa luôn quấn lấy nhau.

— Xéo về nhà với mẹ mày - Grant Burch bảo Ross Wilcox - khi mày vẫn có thể. (Thật là một khởi đầu không đẹp. Mọi người đều biết về mẹ của Ross Wilcox).

Ross Wilcox nhổ nước bọt vào chân Grant Burch - Làm tao xéo xem nào!

Grant Burch nhìn bãi nước bọt trên đôi giày thể thao của nó - Mày phải lau sạch nó bằng cái lưỡi chó của mày, thằng cứt đái.

— Bắt tao phải thế đi.

— Không phải làm, mày sẽ phải tự làm.

— Nhớ lấy lời mày đó, Burch.

Thật ghét mùi pháo hoa xịt.

Trong trường, các trận đánh nhau thường cực kỳ vui. Tất cả chúng tôi đều hét “đ...đ...đánh” và đâm bổ vào giữa. Thầy Carver và Whitlock can thiệp, tách khán giả của từng bên ra. Nhưng trận đánh sáng nay ghê sợ hơn. Người tôi tự động giật lùi khi thấy những cú đấm, như thể chân ta tự nhấc bổng lên khi xem một vận động viên nhảy cao trên truyền hình. Grant Burch đấm liên tục vào phần thấp trên người Ross Wilcox.

Ross Wilcox dính một cú đấm không mạnh nhưng phải oằn người sang một bên cho khỏi ngã.

Grant Burch túm lấy họng Ross Wilcox - Thằng khốn kiếp!

Ross Wilcox cùng túm lấy họng Grant Burch - Khốn mày ấy!

Ross Wilcox đấm vào đầu Grant Burch. Cú đó khá đau.

Grant Burch khóa đầu Ross Wilcox. Thế cũng đau.

Ross Wilcox bị quăng sang bên này, quăng sang bên kia nhưng Grant Burch không thể hạ đo ván nên nó đấm vào mặt Ross Wilcox. Ross Wilcox vặn được tay Grant Burch và chọc ngón tay vào mặt nó.

Grant Burch đẩy Ross Wilcox rồi đấm vào mạng sườn.

Rồi ngay sau đó chúng lại đấu đầu vào nhau, như bọn cừu đực.

Chúng xoắn vào nhau, rít lên qua hàm răng nghiến chặt.

Một vệt màu đỏ hiện lên trên mũi Grant Burch. Nó đã va vào mặt Ross Wilcox.

Ross Wilcox cố tìm cách khoèo chân Grant Burch.

Grant Burch ngoéo chân lại Ross Wilcox.

Ross Wilcox lại ngoéo lại cú phản đòn của Grant Burch.

Bây giờ cả hai đã có ba cái chân trên bờ đường.

— Cẩn thận - Gary Drake hét - Các ông ra sát rìa đường rồi.

Vẫn xoắn vào nhau, chúng loạng choạng, bấm chặt lấy nhau và lảo đảo.

Rồi chúng ngã xuống.

Dưới chân đường, Ross Wilcox đã đứng dậy. Grant Burch nửa ngồi, tay trái đang cầm tay phải và mắt lệch đi đầy đau đớn. “Cứt thật” - tôi nghĩ. Máu và đất đóng thành cục trên mặt Grant Burch.

— A - Ross Wilcox chế giễu - bây giờ bọn ta chơi đủ rồi, phải không?

— Cổ tay tao gãy rồi - Grant Burch nhăn nhó - thằng ngu kia!

Ross Wilcox nhổ nước bọt, tỏ ra vẫn bình thường - Hãy nhìn tao như thể mày đã thua, được chưa?

— Tao chưa thua, đồ ngu dần, chỉ là trận hoà khốn kiếp.

Ross Wilcox cười toét với Gary Drake và Wayne Nashend - Grant Burch “Thằng cứt đái” gọi đây là trận hoà! Nào, ta sẽ tiếp tục hiệp hai chứ? Để phân rõ trận hoà này, được chứ?

Hy vọng duy nhất của Grant Burch là biến trận thua của nó thành một tai nạn - Rồi, chắc chắn, Wilcox, với một cổ tay bị gãy, tất nhiên tao sẽ chơi.

Mày muốn tao bẻ gãy nốt cổ tay kia không?

— Ô, thế thì mày dã man lắm! - Grant Burch cố đứng dậy - Phelps! Bọn ta về thôi.

— Ê, ê, mày về đi. Xéo về nhà với mẹ mày!

Grant Burch chẳng dại gì mà nói: “Ít ra tao có một bà mẹ”. Nó lườm thằng hầu đang tái nhợt và sợ cứng cả người - PHELPS! Tao vừa bảo mày đấy, đồ điếc. Bọn ta về thôi!

Philip Phelps như bừng tỉnh rồi ngồi xuống để trượt bằng mông. Nhưng Ross Wilcox chặn đường nó - Mày không mệt với kiểu ra lệnh mất dạy với mày à, Phil? Nó không sở hữu mày. Mày có thể bảo nó xéo đi, nó làm được gì?

Grant Burch hét - PHELPS! Tao sẽ không nói với mày lần nữa đâu!

Phelps nghĩ về chuyện đó một lát, tôi chắc chắn. Nhưng rồi nó vòng qua Ross Wilcox và bỏ đi, theo chủ của nó. Với bàn tay còn lành, Grant Burch làm dấu chữ V qua vai với Ross Wilcox.

— Ôi! - Ross Wilcox nhặt một nắm đất - Quên bữa sáng của mày rồi này, thằng chó kia.

Chắc chắn Grant Burch đã lệnh cho Philip Phelps không ngoái lại.

Cú tấn công bằng bom đất có vẻ hoàn hảo.

Đúng thật, nó nổ trên cổ của Philip Phelps.

Đó là trận đánh mạo hiểm với Ross Wilcox nhưng đã thành công. Thất bại của Grant Burch khiến Ross Wilcox trở thành đứa uy nhất trong bọn học năm thứ hai. Chắc sẽ được mời tham gia Ma quỷ. Nó đã giành được ngai vàng ở trạm đo độ sâu. Ant Little bảo - Tao biết mày sẽ thắng Grant Burch, Ross Wilcox.

— Tao cũng vậy - Darren Croome nói - Bọn tao đã nói thế trên đường tới đây.

Ant Little rút ra một bao Number Six - Mày hút không?

Ross Wilcox giật luôn cả bao.

Ant Little trông có vẻ hài lòng - Mày bấm khuyên tai chỗ nào thế, Ross?

— Tự tao làm, dùng kim và nến để khử trùng. Đau vãi đái ra nhưng chẳng vấn đề chó gì.

Gary Drake quẹt một que diêm Swan Vesta vào vỏ cây để lấy lửa.

— Hai chúng mày - Wayne Nashend liếc nhìn Dean Moran và tôi - đã ở đây cùng Grant Burch, phải không?

— Tao còn chẳng biết về vụ đánh nhau - Dean Moran phản đối - tao đến White Leaved Oak để chơi với bà.

— Đi bộ? - Ant Little liếc - White Leaved Oak phía bên kin Malvern. Thế thì có mà mất cả năm. Sao ông già không chở mày đi?

Moran trông lúng túng - Ông ấy ốm.

— Ông ta lại say sưa ở chỗ khác, phải không?

Moran nhìn xuống.

— Thế thì tại sao mẹ mày không chở mày đi?

— Bà ấy không rời được bố mày à?

— Còn mày - Gary Drake nói vẻ nham hiểm - Chủ tịch Jason Taylor của Hội những kẻ liếm đít Grant Burch. Mày làm gì ở đây?

Không thể trả lời “Tao đi bộ”, bởi đi bộ sẽ bị coi là dở hơi, đồng tính.

— Hê...hê...hê...- Squelch cưỡi trạm đo độ sâu như một con ngựa và quất vào mông nó bằng một cái roi mềm - Giữa tuần sau ta sẽ đá đít thằng ranh đó.

— Mày - Darren Croome nhổ bọt - phải ở Little Malvern Loonybin đấy, Squelch.

— Thế nào, Taylor? - Ross Wilcox không dễ bị đánh lạc hướng.

Tôi nhổ bã kẹo Juicy Fruit, tuyệt vọng tìm đường thoát. Gã treo cổ đang nắm chặt lấy lưỡi tôi và mọi ký tự trong bảng chữ cái đều bị lắp hết.

— Nó cũng đến chỗ bà tao - Dean Moran nói.

— Mày đâu có nói với bọn tao điều ấy, Taylor - Ant Little tố cáo - trước khi Ross đá cho thằng khốn Burch hộc cứt ra.

Tôi cũng cố nói được một câu - Mày có hỏi đâu, Little.

— Tao và Taylor hẹn gặp nhau ở đây - Moran bắt đầu lên đường - Đó là kế hoạch từ lâu rồi, nó cũng đến chỗ bà tao. Nào Jason, bọn mình nên đi thôi.

Khu trồng cây Giáng sinh tối như nhật thực và có mùi thuốc tẩy. Cây nhiều vô số mọc thành hàng. Ruồi nhỏ như cám bay vào mắt, vào mũi bọn tôi. Lẽ ra tôi cần cảm ơn Moran vì nó đã cứu mạng tôi lúc ở trạm đo độ sâu, nhưng làm thế hoá ra thú nhận tôi cần nó cứu tới mức nào. Vậy nên tôi kể cho nó về mấy con Dobermann. Nhưng cái đó chẳng làm Moran ngạc nhiên - Ô, Kit Harris? Tao biết rõ ông ấy. Ly dị một bà tới ba lần, bà này phải đưa cái đầu đẹp đẽ của mình đi kiểm tra thôi. Chỉ có một thứ Harris yêu là lũ chó. Ông ấy là thầy giáo, tin hay không thì tùy.

— Thầy giáo? Nhưng ông ấy tâm thần.

— Ừ. Trong một trại giáo dưỡng ở Pershore. Ông ấy có biệt danh là “Con lửng” vì vệt tóc màu trắng đó. Không đứa nào dám gọi thế trước mặt ông ấy. Có lần một đứa trong trại ném rác vào ca-pô xe của ông ấy. Mày đoán xem ông ấy tìm ra nó thế nào không?

— Thế nào?

— Cắm que tre vào móng tay mọi đứa, lần lượt từng đứa một cho đến khi một thằng khai ra đứa nào đã làm.

— Không tin.

— Thề với Chúa là tao nói thật. Chị Kelly bảo tao thế. Kỷ luật ở trường giáo dưỡng chặt hơn, thế nên chúng mới là trường giáo dưỡng. Ban đầu “Con lửng” định đuổi cổ thằng ném rác. Nhưng ông hiệu trưởng sẽ không làm thế bởi đứa nào bị đuổi khỏi trường giáo dưỡng thì sẽ tự động vào tù. Thế nên vài tuần sau “Con lửng” tổ chức một trận lớn ở đồi Bredon vào ban đêm.

— Trận lớn là gì?

— Giống như trận giả ấy, bọn nó còn chơi trò Trinh sát nữa. Bên này phải giành được cờ của bên kia, đại loại thế. Chẳng biết thế nào mà sáng hôm sau thằng đã ném rác vào xe “Con lửng” biến mất.

— Đi đâu?

— Chính xác là biến mất! Ông hiệu trưởng báo với Interpol[45], rằng thằng bé đã chạy trốn trong lúc diễn ra trận lớn. Chuyện ấy lúc nào cũng có ở các trại giáo dưỡng. Dù sao Kelly cũng biết rõ chuyện ấy. Nhưng mày phải thề trên mộ mày là không được nói với bất kỳ ai.

— Thề.

— Trên chính mộ mày.

— Trên chính mộ tao.

— Kelly đang trong cửa hàng ông Rhydd khi “Con lửng” vào. Khi đó là ba tuần sau khi thằng kia mất tích, hiểu chứ? Chừng đó. “Con lửng” mua bánh mì với mấy thứ. Lúc “Con lửng” chuẩn bị ra thì ông Rhydd hỏi “Thế còn Pedigree Chum cho lũ chó của ông thì thế nào, ông Harris?”. “Con lửng” chỉ bảo “Đám con trai của tôi đang ăn kiêng, ông Rhydd”. Thật độc ác, thế đấy. “Đám con trai của tôi đang ăn kiêng”. Rồi khi lão đã đi, Kelly nghe lỏm ông Rhydd bảo ông già Pete Redmarley là suốt ba tuần đó, “Con lửng” đã không mua hộp Pedigree Chum nào, thứ ông ta vẫn lấy.

— Ừ..., ờ - Tôi vẫn chưa thật hiểu.

— Mày đâu cần là Bộ óc của nước Anh mới hiểu được đám chó Dobermann của “Con lửng” đã ăn gì suốt ba tuần đó, đúng không?

— Cái gì?

— “Con lửng” đem thằng bé mất tích ấy về cho chó ăn.

— Chúa ơi - tôi run rẩy thực sự - Chúa ơi!

— Thế nên nếu tất cả những việc “Con lửng” đã làm là đổ cứt lên người mày - Moran vỗ vai tôi - mày còn may mắn chán.

Một cái rãnh nhỏ nằm ngang con đường nên cả hai đứa phải nhảy qua. Trình độ điền kinh của tôi tốt hơn nên tôi qua được. Moran thì ướt đến mắt cá chân.

— Thế mày đang trên đường đi đâu, Jace?

Gã treo cổ chặn mất “chẳng chỗ nào hết” - Chỉ ra ngoài lang thang thôi.

Đôi giày của Moran kêu bì bọp - Phải đi đến đâu chứ?

— Hừm - tôi thú nhận - tao nghe nói lối đi cho ngựa có thể dẫn tới một đường hầm, xuyên qua đồi Malvern. Tao nghĩ mình có thể đi và ngó xem thế nào.

— Đường hầm? - Moran dừng lại và đập vào tay tôi vẻ không tin? - Đó là nơi tao đang tới.

— Chuyện gì liên quan đến việc thăm bà ở White Leaved Oak?

— Tao sẽ đến đó nhờ việc tìm lại được đường hầm, hiểu chứ? Đường hầm do người La Mã xây dựng để xâm lược Hereford.

— Người La Mã? Đường hầm?

— Họ còn làm thế nào khác để đá đít người Viking[46] nhanh như chớp? Tao đã tìm hiểu rồi, chỉ cần một bó đuốc, một cuộn dây, thế là đủ. Ba đường hầm xuyên qua đồi Malvern. Một đường của Đường sắt vương quốc Anh cho tàu tới Hereford. Đường này bị ám vì một kỹ sư mặc đồ bảo hộ màu cam có sọc đen bị tàu hoả cán chết. Đường hầm thứ hai là đường hầm của Bộ Quốc phòng.

— Cái gì?

— Một đường hầm do Bộ Quốc phòng đào để tránh bom nguyên tử. Lối vào của nó nằm ở trung tâm làm vườn tại Woolworths, Great Malvern. Có thật đấy. Một trong những bức tường của trung tâm làm vườn là tường giả, che một cái cửa cuốn, như trong ngân hàng ấy. Khi bắt đầu phát lệnh báo động kéo dài bốn phút, quân cánh sẽ dùng phà chở nhiều người của Bộ Quốc phòng ở RSRE[47] tới Woolies. Các uỷ viên của Hội đồng Malvern, giám đốc và phó giám đốc Woolsworth cũng được phép vào. Rồi quân cảnh, những người dùng súng ngăn những người mua sắm đang hoảng loạn ở ngoài, cũng được vào. Họ sẽ tóm lấy một hai người bán hàng xinh đẹp nhất để lấy giống. Thế là chị tao không được chọn, đúng không? Rồi cửa đóng lại, Và tất cả bọn mình sẽ lên vương quốc Come[48].

— Kelly không kể hết chuyện này cho mày à?

— Không, người kể là tay mà ba tao gặp để mua phân ngựa ở trung tâm làm vườn, bạn của hắn là người phục vụ quán bar trong RSRE.

— Thế thì chuyện này phải đúng rồi. Chúa ơi!

Trong đám lá thông tôi nhìn thấy một bộ gạc nai, giống như của Heme Thợ săn[49]. Nhưng đó chỉ là một nhánh.

— Tao đoán là bọn mình sẽ gia nhập lực lượng - Tôi nói - tìm kiếm đường hầm thứ ba. Đường hầm đã mất.

— Nhưng - Moran sút trượt một quả thông - ai sẽ đứng ra trả lời phỏng vấn báo Malvern Gazeeter?

Tôi sút quả thông bay lên trên con đường u ám - Cả hai đứa mình.

Chạy với tốc độ thật nhanh qua cánh đồng đầy hoa cúc mà mắt vẫn nhìn xuống đất. Thật tuyệt vời. Những ngôi sao có cánh và sao chổi bồ công anh tạo thành dải trên vũ trụ xanh thẳm. Tôi với Moran đến chuồng bò phía bên kia cánh đồng, chóng mặt vì chuyến đi từ thiên hà nọ sang thiên hà kia. Tôi cười nhiều hơn Moran bởi đôi giày khô của nó dính đầy cứt bò. Những kiện rơm chất thành đống cao tới mái chuồng bò chăng lưới nên tôi với Moran leo lên. Cây gà con nhìn thấy từ phòng tôi bây giờ không còn bò từ trái sang phải mà từ phải sang trái. Cái chuồng bò này là chỗ rất tuyệt để đặt ụ súng máy - tôi nói - khoe kiến thức về quân sự của mình.

Moran lột đôi giày bám cứt bò ra và nằm lăn ra.

Tôi cũng nằm ra, những thanh sắt gỉ ấm nóng như một cơ thể nóng bỏng.

— Cuộc sống là đây - Sau một lúc Moran thở dài.

Tôi biết nó sẽ thế - Thật nguyên sơ.

Bọn cừu đang kêu be be phía sau chúng tôi vài cánh đồng.

Một chiếc máy kéo đang rền rĩ phía trước cánh đồng.

— Ông già mày có bao giờ nổi điên không? - Moran hỏi.

Nếu tôi bảo có thì tôi nói dối, nếu bảo không thì có vẻ dở hơi - Ông ấy có uống một hai ly, khi bác Brian tới thăm.

— Không phải một hai ly. Ý tao là ông ta có say bí tỉ đến mức ông ta...chẳng thể nói được?

— Không.

Câu trả lời “Không” ấy khiến 3 feet[50] giữa tôi và nó giãn thành 3 dặm[51].

— Không - Moran nhắm nghiền hai mắt - Bố mày không phải loại đó.

— Nhưng bố mày cũng không phải loại đó. Ông ấy thật thân thiện và vui tính...

Một chiếc máy bay phản chiếu ánh nắng, sáng màu thủy ngân trên bầu trời xanh sẫm.

Maxine gọi cái đó thế này: “Bố đang tối đi”. Nó nói đúng, ông ấy đang tối đi. Ông ấy bắt đầu...mày biết đấy, một vài lon, to tiếng, rồi kể những câu chuyện đùa phát tởm mà bọn tao vẫn phải cười. Hò hét, hàng xóm gõ lên tường phàn nàn. Bố tao gõ lại, gọi họ bằng đủ mọi thứ trên đời...rồi giam mình trong phòng cùng rượu. Chúng tao nghe tiếng chai vỡ, từng chiếc một. Rồi ông ấy ngủ lăn ra. Sau đó, khi ông ấy xin lỗi, tất cả chỉ là như: “Ôi, ta sẽ không bao giờ chạm vào thứ đó lần nữa...”, nhưng dường như mọi chuyện ngày càng tệ hơn...Nói cho mày biết, bố tao ngày xưa không phải là một người đàn ông bê tha, kinh tởm và lắm nước mắt dù những cuộc nhậu kéo dài chừng nào; nhưng chỉ có tao, mẹ, chị Kelly, Sally và Max biết rằng đó không phải là ông ấy. Cả thế giới không biết điều đó, hiểu chứ? Người ta bảo Frank Moran đang thể hiện đúng bản chất, thế đó. Nhưng không phải thế - Moran vặn đầu về phía tôi - Nhưng thế. Nhưng không phải thế. Nhưng thế. Nhưng không phải thế. Ôi, tao phải hiểu thế nào?

Một phút đau đớn trôi qua.

Màu xanh lá cây tạo từ màu vàng và màu xanh da trời. Nhưng khi ta nhìn màu xanh lá cây, màu vàng và màu xanh da trời đi đâu mất? Điều này có gì đó giống với bố Moran và với mọi người. Nhưng sẽ có quá nhiều thứ sẽ trở nên tồi tệ khi tôi cố nói điều này với Moran.

Moran khịt mũi - Thích một chai Woodpecker mát lạnh không?

— Rượu táo? Mày mua rượu táo rồi à?

— Không, bố tao uống sạch rồi. Nhưng - Moran sờ soạng cặp - tao lấy được một lon Irn Bru.

Trong lon Irn Bru là thứ đặc có bọt trông như kẹo cao su nhưng tôi vẫn bảo “Chắc chắn thích” bởi tôi chẳng mang theo thứ đồ uống nào, uống Irn Bru vẫn hơn là chẳng có gì. Tôi từng tưởng tượng mình sẽ được uống nước ở những con suối trong lành, nhưng thứ nước duy nhất tôi đã uống ở đây là nước ở cái rãnh nhỏ kia.

Lon Im Bru nổ trong tay Moran như một quả lựu đạn - Cứt quá!

— Cảnh giác với cái lon Irn Bru đó. Nó lại bắn hết lên bây giờ.

— Mày đừng có nói vội vàng thế - Moran đưa tôi uống ngụm đầu tiên còn nó liếm tay cho sạch. Đáp lại, tôi đưa cho nó vài chiếc kẹo ca-ra-men Cadbury. Chúng đã chảy cả ra lớp giấy bọc nhưng bọn tôi nhặt từng miếng bám trên lớp vải trong túi, vẫn ngon. Tôi bị cúm mùa hè và hắt hơi tới mười hay hai chục lần vào chiếc khăn tay màu vàng.

Một vệt hơi nước rạch ngang bầu trời.

Nhưng bầu trời tự lành lại. Không hề ồn ào.

Ò...Ò...Ò...Ò

Tôi trượt xuống nửa vòng cung của mái chuồng bò, vẫn còn nửa tỉnh nửa mơ trước khi nhận biết rõ mọi thứ.

Ba con bò cái to như quỷ ngồi thành hàng, đúng chỗ Moran nằm lúc nãy.

Moran thì mất dấu.

Mõm mấy con bò này có hình chữ thập. Mắt ướt như tra dầu của chúng thể hiện ý định độc ác.

Cáu thật!

Chuông nhà thờ thánh Gabriel đổ mười một hay mười hai tiếng, những con bò này quá ầm ĩ nên khó nghe rõ mà đếm được. Những giọt nước nhỏ li ti bắn vào mặt và cổ tôi. Thời tiết đã thay đổi trong lúc tôi đang ngủ. Những quả đồi Malvern đã biến mất sau màn mưa, lùi tận ra cách bao nhiêu cánh đồng. Lũ bò chồm lên rồi lại nằm xuống.

Moran cũng chẳng ở trong chuồng bò. Rõ ràng nó đã quyết định không cùng lên trang bìa báo Malvern Gazeeter với tôi. Đồ phản bội! Nhưng nếu nó cần chơi trò Scott người Nam cực đấu với Amundsen người Na Uy thì tôi cũng chơi. Trong đời, Moran chưa từng thắng tôi cái gì.

Chuồng bò đầy mùi mồ hôi, cỏ khô và nước đái.

Mưa bắt đầu dữ dội, quất những viên đạn nước vào mái và làm bùn đất bắn tung toé quanh chuồng bò. (Đáng đời Moran Kẻ trốn chạy nếu nó ướt sũng và bị viêm phổi). Mưa xoá sạch thế kỷ 20. Mưa biến thế giới thành hai màu đen và trắng.

Trên những người khổng lồ đang ngủ - những quả đồi Malvern, một chiếc cầu vồng kép nối Worcestershire Beacon với British Camp. Chỗ đó người La Mã đã thảm sát những người Anh thời cổ. Mặt trời tan ra, nhỏ xuống những giọt sáng lấp lánh hơi nước. Tôi bắt đầu cuộc hành quân vội vã, nửa đi bộ nửa chạy. Tôi đã quyết rằng nếu vượt qua Moran, tôi sẽ không nói với nó một lời. Cho đáng đời tên phản bội. Đám cỏ ướt dưới giày tôi rít lên. Tôi trèo qua một chiếc cổng long sòng sọc và đi ngang qua bãi giữ ngựa với những chướng ngại vật dành cho ngựa làm từ mũ hình nón của cảnh sát và các trụ sơn hình sọc. Qua bãi giữ ngựa là một sân trại. Hai tháp ủ thức ăn gia súc sáng ánh lên như phi thuyền Victorian Apollo. Hoa kèn trombon leo lên những lưới mắt cáo và một tấm biển bong từng mảnh đề BÁN PHÂN NGỰA. Một con gà trống kiêu căng nhìn lũ gà mái của nó. Những tấm ga đẫm nước mưa và vỏ gối treo trên một dây phơi. Có cả áo lót và quần lót xếp nếp nữa. Một lối đi phủ rêu biến mất ở chỗ cao lên về phía đường chính dẫn tới Malvern. Qua một chuồng ngựa, tôi nhìn vào trong bóng tối nóng và nồng nặc mùi phân.

Tôi thấy ba con ngựa. Một con hất đầu, một con khịt khịt mũi còn một con nhìn tôi chằm chằm. Tôi vội vàng quay đi. Nếu lối đi cho ngựa chạy qua một sân trại thì nó chẳng phải sân riêng, nhưng rõ ràng những sân trại chẳng có vẻ gì là sân của chung cả. Tôi sợ phải nghe thấy câu Kẻ đột nhập! Ta sẽ dành cho ngươi một hình phạt mà ngươi không bao giờ quên được. (Tôi thường nghĩ tới kẻ vi phạm là nghĩ tới thiên đường và địa ngục, lý do là bài cầu nguyện “Cha của chúng con”).

Cũng đã xong, ngoài cánh cổng là cánh đồng rộng mức trung bình. Một chiếc máy cày John Deree đang cày nó thành những luống mảnh. Mòng biển sà xuống những luống cày, dễ dàng bắt những con sâu béo mập. Tôi ẩn mình cho tới khi chiếc máy cày chạy khuất đường dành cho ngựa.

Rồi tôi bắt đầu băng ngang qua, như một nhân viên SAS[52].

— TAYLOR!

Tôi cứng cả người trước khi kịp chạy.

Dawn Madden đang ngồi trong buồng lái của một chiếc máy cày cổ lỗ, chuốt một cái que. Nó mặc cái áo khoác ngắn lưng, cổ tay có chun, đi đôi giày lấm tấm bùn có dây màu đỏ.

Tôi lấy lại hơi thở bình thường “ổn rồi” (Tôi muốn gọi nó là Madden vì nó gọi tôi là Taylor) - Dawn.

— Có cháy nhà - nó lấy dao róc những sợi gỗ lòng thòng - ở đâu vậy?

Dawn Madden nhại lại cái giọng “Hử?” của tôi - Sao mày lại chạy?

Mái tóc đen của nó trông thật bóng, chắc chắn nó đã dùng dầu. Tôi muốn gần gũi hơn với nó - Tao thích chạy. Thỉnh thoảng thế, chỉ vì thích thôi.

— Ô, thế à? Vậy cái gì khiến mày đi vào lối dành cho ngựa thế?

— Chẳng có gì. Tao chỉ ra ngoài. Đi lang thang.

— Thế thì - nó chỉ nắp ca-pô của chiếc máy cày - mày có thể lang thang ở đó.

Tôi rất muốn nghe lời nó - Tại sao? - Tôi thực sự không muốn nghe nó.

Son bôi môi của nó là loại Fruit Gum tươi mọng - Vì tao bảo mày thế.

— Thế - tôi leo lên lốp trước - mày làm gì ở đây?

— Tao sống ở đây, mày biết mà.

Nắp ca-pô của chiếc máy cày làm ướt mông tôi - Căn nhà trong trang trại kia? Phía sau kia?

Dawn Madden cởi cúc chiếc áo khoác của nó - Căn nhà trong trang trại kia. Phía sau đấy - Cây thánh giá của nó đen và ngắn trông như một người Giéc-manh cổ nép sau bộ ngực nhỏ.

— Tao lại nghĩ mày sống trong căn nhà gần quán rượu kia.

— Trước thì thế. Ồn quá, còn lão Isaac Pye thì là loại mặt dày. Ông ấy thì không phải như vậy - Dawn Madden hất đầu về chiếc máy cày đang chạy - ông ấy tốt hơn nhiều.

— Ông ấy là ai?

— Bố dượng chính thức của tao. Căn nhà kia là của ông ấy. Mày chẳng biết gì à, Taylor? Bây giờ tao với mẹ tao sống ở đó. Họ cưới nhau năm ngoái.

Bây giờ thì tôi nhớ ra thật - Ông ấy thế nào?

— Đầu bò - nó nhìn săm soi tôi qua một bức màn vô hình - Không chỉ nói về não đâu mà cả những trò ăn chơi của họ vào một số đêm nữa. Những làn hơi vuốt ve cái cổ màu cà phê sữa của Dawn Madden.

— Mấy con ngựa Pony trong chuồng của mày đấy à?

— Đã chạy ngó quanh rồi à?

Chiếc máy cày của bố dượng nó đang quay trở lại đường này.

— Tao chỉ nhìn vào chuồng bò, nói thật.

Nó quay lại với con dao và cây gậy - Nuôi ngựa tốn kém quá - Vót, vót, rồi lại vót - Ông để cho nhà trường nuôi chúng khi họ xây dựng lại. Mày muốn biết thêm gì nữa không?

Ôi, có mà đầy thứ - Mày đang làm cái gì vậy?

— Một mũi tên.

— Mày cần mũi tên để làm gì?

— Cho nó đi cùng với cái cung.

— Mày cần một mũi tên với cái cung để làm gì?

— Cái gì, làm gì, thứ gì. Cái gì, làm gì, thứ gì. (Trong một thoáng lo sợ, tôi nghĩ nó phát hiện ra tật nói lắp của tôi, nhưng tôi nghĩ nó chỉ nói chung chung). Tất cả câu hỏi của mày chỉ có thế hả, Taylor? Cung và tên của tao để săn bọn con trai và giết chúng. Thế giới sẽ tốt hơn nếu không có chúng. Cặn bã là thứ làm nên những thằng nhãi.

— Hừ, cảm ơn.

— Không có gì.

— Cho tao xem con dao của mày đi!

Dawn Madden phi ngay con dao, thẳng về phía tôi. Thật may là cán dao chứ không phải mũi chạm vào mạng sườn.

— Madden!

Cái nhìn chằm chằm của nó như muốn nói “Cái gì?” Màu của đôi mắt Dawn Madden như một thứ mật sẫm màu.

— Suýt thì nó cắm ngập vào người tao.

Đôi mắt Dawn Madden màu mật thẫm - Ôi, tội nghiệp Taylor.

Chiếc máy cày có tiếng kêu lạch xạch đã chạy tới chỗ chúng tôi và bắt đầu quay chầm chậm. Bố dượng Madden phóng những ánh mắt căm ghét vào tôi. Lớp đất bạc màu tè ra dưới các lưỡi cày.

Dawn Madden hướng về chiếc máy kéo và nói với giọng nhà quê - Dù có mang trong người dòng máu của ta hay không, cô gái trẻ, căn nhà này cần sự tôn trọng nhau nhiều hơn, hoặc cô sẽ ra ngoài ngồi trên cái mông giơ xương và đừng có cho rằng tôi lừa cô, bởi tôi chưa bao giờ lừa ai hết.

Tay cầm con dao của Dawn Madden ấm và dính bởi nó đã cầm vào, lưỡi thì sắc đủ chặt đứt một cành cây to - Con dao đẹp thật!

Dawn Madden hỏi - Đói không?

— Còn tùy!

— Điệu bộ! - Dawn Madden lấy từ túi giấy ra và bóc một cái bánh trộn nhân táo và hạnh nhân phết kem đã bẹp - Nhưng chắc cũng không quay mõm lại với cái này chứ, đúng không? - Con bé hơi hạ giọng và vẫy tôi.

Thái độ lạnh lùng đang bớt dần - Thế thì OK.

— Đây, Taylor! Đây, chó con! Đến đây! Cậu bé ngoan.

Tôi bò cả bằng tứ chi qua nắp ca-pô về phía nó. Không chậm như chó con nhưng cẩn thận, đề phòng nó ném tôi vào bụi tầm ma. Với Dawn Madden thì chẳng bao giờ biết được. Khi nó ngả người về phía tôi, tôi nhìn thấy đầu núm vú nó. Không mặc áo lót. Tay tôi di chuyển về phía nó.

— Bỏ chân xuống! Há miệng ra, chó con!

Nó cho tôi ăn như thế. Mũi tên đưa vào miệng.

Lớp kem phủ có mùi chanh. Bột có vị quế. Nho khô ngọt và đậm.

Dawn Madden cũng ăn, tôi thấy miếng bột trên lưỡi nó. Bây giờ gần nhau hơn, tôi thấy trên cây thánh giá có chúa Giê-su da bọc xương. Giê-su sẽ được cơ thể nó sưởi ấm, ông ta thật may mắn. Chẳng mấy chốc chiếc bánh hết sạch. Rất nhẹ nhàng, nó xiên quả sơ-ri vào đầu mũi tên. Rất nhẹ nhàng, tôi dùng răng lấy quả đó.

Mặt trời đã lên.

— Taylor - Dawn Madden nhìn săm soi đầu mũi tên, giọng nó trở nên giận dữ - mày lấy trộm quả sơ-ri của tao rồi!

Nó mắc ngay ở họng tôi - Mày...đã cho tao mà.

— Mày đã ăn cắp quả sơ-ri chết tiệt ấy và bây giờ mày phải trả giá cho cái đó.

— Dawn, mày...

— Mày được phép gọi tao là Dawn từ khi nào?

Cũng là trò chơi đó, trò chơi khác hay chẳng có trò nào?

Nó chọc đầu mũi tên vào yết hầu của tôi. Dawn Madden nghiêng người gần đến nỗi tôi có thể ngửi thấy mùi đường trong hơi thở của nó - Tao trông có vẻ như đang đùa không, Jason Taylor?

Mũi tên đó thật sắc. Có lẽ tôi có thể gạt nó ra trước khi Dawn Madden làm thủng khí quản tôi. Nhưng không đơn giản như vậy. Vì tôi có một sai lầm ngớ ngẩn to như con Dobermann.

— Mày phải trả giá cho thứ mày đã lấy, đó là luật.

— Tao không có tiền.

— Thế thì nghĩ kỹ đi, Taylor! Mày còn cách gì khác để trả tao?

— Tao... - Một cái lúm đồng tiền. Những sợi tóc ướt xoà trên khía môi nó. Cái mũi của trẻ con, môi có khía, nụ cười mê hồn. Hai hình tôi phản chiếu trong đôi mắt thỏ của nó - Tao...tao có một gói hoa quả Polo trong túi. Nhưng chúng dính thành keo với nhau rồi. Mày phải dùng đá mới đập ra được.

Một phép thần xảy ra. Mũi tên rời khỏi họng tôi.

Dawn Madden leo trở lại chỗ của người lái máy kéo, trông chán nản.

— Gì thế?

Câu trả lời của nó là cái nhìn chằm chằm vẻ ghê tởm như thể tôi đã biến thành một đôi vớ ném trên giá đặt đồ thừa trong chợ Tewkesbury vậy.

Tôi muốn mũi tên trở lại lần nữa, ngay bây giờ - Gì thế?

— Tao đếm đến 20, nếu mày không xéo ra khỏi đất của nhà tao - Dawn Madden bỏ một thanh kẹo cao su bạc hà Wrigley vào cái miệng xinh xắn - tao sẽ bảo bố dượng tao rằng mày sờ soạng tao. Nếu tao đếm đến 30, mày vẫn chưa đi, tao sẽ nói với ông ấy rằng mày - lưỡi nó như liếm lấy cái từ sắp nói ra - khêu gợi để kích thích tao.

— Nhưng tao chưa bao giờ chạm vào mày.

— Bố dượng tao cất một khẩu súng săn bên trên ngăn kéo bếp. Ông ấy có thể nhầm mày với một thằng ốm yếu định hại tao, Taylor. Một...hai...ba...

Lối đi dành cho ngựa dẫn đến nơi một thời là vườn cây ăn quả. Kế giòn và cỏ tơ mọc cao tới khuỷu tay nên tôi lội thì đúng hơn là đi bộ. Tôi vẫn nghĩ về Dawn Madden. Chắc chắn nó phải thích tôi bởi chẳng phải đứa nào cũng được nó cho bánh trộn nhân táo và hạnh nhân phết kem duy nhất. Và tôi cũng chắc như đinh đóng cột là tôi thích Dawn Madden. Nhưng thích con gái thì nguy hiểm. Không nguy hiểm nhưng không đơn giản. Có thể nguy hiểm chứ. Trước tiên bọn ở trường sẽ lôi ta ra làm trò cười. “Ô, thằng bé tập đi kìa”, bọn nó sẽ nói thế khi thấy chúng tôi nắm tay nhau ở hành lang. Những thằng cùng thích đứa con gái này có thể gây sự với tôi để chứng tỏ cho con bé thấy rằng nó đang hẹn hò với một thằng vớ vẩn. Và một khi hai đứa đã là một đôi chính thức như thể Lee Biggs và Michelle Tirley, bọn tôi sẽ phải chịu cảnh bọn bạn đứa con gái ghi chữ viết tắt tên của hai đứa và chữ “4 EVER” (mãi mãi) trong trái tim bị mũi tên xuyên qua trên tất cả những cuốn sách thô nhám của chúng. Các thầy cô cũng hùa vào. Khi thầy Whitlock làm thí nghiệm về sinh sản lưỡng tính ở sâu bọ trong học kỳ trước, thầy ấy gọi là “sâu Lee” và con kia là “sâu Michelle”. Bọn con trai chúng tôi thấy cái đó hơi buồn cười, nhưng bọn con gái hét rồi cười rú lên như những người xem chương trình Những ngày hạnh phúc trên tivi. Chỉ có Michelle Tirley bị biến thành củ cải đường, chỉ biết úp mặt vào hai tay và khóc. Thầy Whitlock cũng lấy chuyện nó khóc làm trò cười.

Có những khoảng cách giữa tôi và Dawn Madden. Kingfisher Meadows là khu đẹp nhất ở làng Thiên nga đen, hầu hết bọn trẻ con đều cho là thế. Căn nhà trong trang trại của bố nó thì ngược lại. Tôi học lớp 2KM - lớp hàng đầu của trường. Nó học lớp 2LP - lớp thứ hai từ dưới lên. Những khoảng cách này chẳng dễ bỏ qua. Có những luật lệ mà!

Rồi đến chuyện ngủ với nhau. Trong sinh học nói ta không được làm chuyện đó cho tới khi học năm thứ ba. Sơ đồ trong sách giáo khoa mô tả một dương vật cương cứng nằm trong âm đạo là một chuyện, thực sự làm việc đó lại là chuyện khác. Cái âm đạo duy nhất tôi từng nhìn thấy xuất hiện trong một tấm ảnh mờ mờ mà Neal Brose đòi bọn tôi năm xu mới cho xem. Đó là một con Kangaroo con trong cái túi đầy lông lá của mẹ nó. Tôi suýt nữa thì nôn ra sô-cô-la Mars Bar và khoai tây Outer Spacers.

Tôi chưa bao giờ hôn ai.

Đôi mắt Dawn Madden là thứ mật sẫm màu.

Một cây dẻ ngựa đâm khỏi mặt đất và chĩa ra hàng triệu tay chân khỏe mạnh. Ai đó đã treo một cái đu bằng lốp xe lên cành cây. Cái đu xoay nhẹ khi bên dưới trái đất cùng xoay. Nước mưa đọng ở bên trong nhưng tôi đổ hết ra ngoài và ngồi vào đu. Bay vòng quanh Alpha Centauri trong tình trạng không trọng lượng là tuyệt nhất, nhưng không trọng lượng trên một cái đu cũng chẳng tệ. Nếu Moran cũng ở đó thì sẽ cười rất ác. Sau một lát, tôi rung sợi dây đã sờn để xem khả năng leo được lên cây thế nào. Một khi đã giỏi thì leo lên được là cái chắc. Tôi còn thấy những vết tích của một ngôi nhà trên cây. Bọn khỉ con đã ra đi từ khi chúng được coi là trưởng thành. Lên cao nữa, tôi leo dọc một cành cây và nhìn ra ngoài vòm lá xanh. Có thể nhìn ra xa vài dặm. Nhìn lại phía làng Thiên nga đen nhưng cái tháp ở trang trại nhà Dawn Madden, một cái thang uốn làm bằng khói, khu trồng cây Giáng sinh, ngọn tháp trong nghĩa địa thánh Gabriel và hai cây huyết mộc cao gần bằng nó.

Tôi lấy con dao nhíp Thụy Sĩ, khắc vào vỏ cây:

Mùi nhựa ở lưỡi dao đầy sức sống. Cô Throckmorton nói với chúng tôi rằng những kẻ khắc lên cây là những kẻ phá hoại xấu xa nhất, bởi chúng không chỉ vẽ bậy mà còn làm tổn thương những sinh vật đang sống. Có thể cô Throckmorton đúng, nhưng cô làm sao biết được một thằng bé 13 tuổi gặp một đứa con gái như Dawn Madden sẽ thế nào. Một ngày, tôi nghĩ, mình sẽ đưa em tới đây cho em thấy cái này. Tôi sẽ dành cho Dawn Madden nụ hôn đầu tiên. Ngay tại đây. Em sẽ chạm vào tôi. Ngay tại đây.

Phía bên kia cây dẻ ngựa, lối đi cho ngựa sẽ dẫn tiếp đến đâu. Một con đường ngoằn ngoèo bò tới Marl Bank và Castlemorton, những cánh đồng, thêm những cánh đồng, thoáng hình một tháp canh vươn lên trên những cây linh sam. Những hàng cột điện cao thế. Bây giờ thì có thể nhìn rõ hơn đồi Malvern. Nắng sáng lóa trên những chiếc xe chạy ở đường Wells. Những người đi bộ nhỏ như kiến đang băng qua đồi Preserverance. Phía bên dưới, ở điểm nào đó, sẽ có đường hầm thứ ba. Tôi ăn hết thanh Wensleydale và mấy cái bánh quy giòn Jacobs đã vỡ, trong lòng ước giá như mình đã mang theo ít nước. Tôi đang chuẩn bị leo trở lại cái đu và tụt xuống thì nghe một giọng đàn ông và một giọng đàn bà.

— Thấy không - Tom Yew, tôi nhận ra ngay - Anh đã bảo em là xa hơn một chút thôi.

— Ừ - giọng đàn bà trả lời - hơn khoảng hai mươi lần.

— Em bảo em cần chỗ nào đó riêng tư.

— Nhưng em không có ý là xa bằng nửa đường tới Wales.

Bây giờ thì tôi nhận ra Debby Crombie. Debby Crombie thì tôi chưa bao giờ nói chuyện, nhưng Tom Yew là anh trai của Nick Yew, lính hải quân hoàng gia đang nghỉ phép. Tôi có thể nói “Xin chào” rồi tụt theo dây xuống, như thế vẫn ổn. Nhưng ẩn mình cũng hay. Tôi theo cành cây lùi lại tới một cái chạc trên thân và đợi cho tới khi họ đi khỏi.

— Chỗ ấy đây! - Tom Yew dừng lại ngay phía dưới cái đu - Cây dẻ ngựa của riêng các cậu bé nhà Yew.

— Chỗ này không có ong, kiến hay thứ gì chứ?

— Nó được gọi là “thiên nhiên”, Debs. Em gặp nó rất nhiều ở vùng nông thôn.

Debby Crombie trải một tắm chăn ở khoảng trống giữa hai rễ cây.

Ngay cả lúc này tôi có thể (và nên) cho họ biết là tôi đang ở đây.

Tôi cố gắng thế. Nhưng trước khi tôi kịp nghĩ ra lý do để nói mà không bị lắp, Tom Yew và Debby Crombie đã nằm xuống và bắt đầu ôm ấp, hôn hít nhau. Ngón tay anh ấy lần lượt mở từng cúc của chiếc vấy màu hoa oải hương, từ đầu gối lên trên chiếc cổ cháy nắng của Debby Crombie.

Bây