Maggot
— Jason Taylor - hơi thở của Ross Wilcox có mùi như giăm-bông - đi xem phim cùng mẹ! - Lúc trước Mark Badbury còn nói chuyện với tôi về cách làm thế nào để thắng khi chơi trò Pacman. Bây giờ thì đã tới chuyện này. Tôi đã lỡ mất bất kỳ cơ hội nào bác bỏ điều đó - Bọn tao nhìn thấy mày, ở Cheltenham! xếp hàng cùng mẹ mày!
Hoạt động và thời gian trong hành lang như chậm lại.
Một cách ngu ngốc, tôi cố gắng làm nhẹ bớt cuộc tấn công của nó bằng một nụ cười.
— Mày cười cái gì, thằng nịnh bợ Maggot chết tiệt? Ngồi ở hàng ghế cuối ôm mẹ mày, phải không? - Wilcox giật cái nơ cổ của tôi một cái ác hiểm, chỉ vì thích thế - Đút lưỡi mày vào, phải không? - nó bóp mũi tôi, chỉ vì muốn thế.
— Taylor - Gary Drake cùng lao vào cuộc săn với anh họ nó - như thế thật tởm lợm.
Neal Brose nhìn tôi bằng cái nhìn đối với một con chó bị đưa đến bác sĩ thú y để xử lý. Thật đáng tiếc nhưng cũng đáng khinh bỉ khi con chó đó tự cho phép mình yếu đuối.
— Mày hôn mẹ mày theo kiểu Pháp, đúng không? - Ant Little bây giờ đã là tay sai mới của Ross Wilcox.
Wayne Nashend nhiều tuổi hơn - Mày thò ngón tay vào, đúng không?
Bọn đứng xem bình chọn bằng những tiếng cười nhăn nhở.
— Nào, hãy trả lời bọn tao - Wilcox có thói quen đặt lưỡi của nó giữa hai hàm răng. (Cái lưỡi đó đã nếm mọi ngóc ngách của Dawn Madden). H...h...hay m...mày kh...kh...không th...th...thể m...m...mửa r...r...ra t...t...từ n...n...nào, đ...đ...đồ chó n...n...nói 1...l...lắp?
Điều ấy đẩy cuộc tấn công lên một mức mới. Nơi lẽ ra xuất hiện câu trả lời của tôi xuất hiện một cái hố.
— Ross! - Darren Croome suỵt - Flanagan đang đến kìa.
Wilcox giậm chân lên giày tôi như thể nó đang di một điếu thuốc cho tắt - Thằng Maggot cứt đái nói lắp ngủ với mẹ.
Thầy hiệu phó Flanagan lướt đến, dồn đám học sinh lớp 3GL vào phòng học địa lý. Ross Wilcox, Ant Little và Wayne Nashend đã đi khỏi nhưng danh dự của tôi vẫn còn lại và đang chết trong những cơn co giật cuối cùng. Mark Bradbury đang trao đổi bài tập về nhà với Colin Pole. Tôi không lại gần bất kỳ đứa nào bởi tôi biết chúng sẽ không nói chuyện với tôi. Tất cả những gì tôi có thể làm là nhìn chăm chăm ra ngoài cửa sổ cho tới lúc thầy Inkberrow tới.
Sương mù làm những chiếc lá vàng xỉn đi, những chiếc màu đỏ biến sang nâu.
Tiết toán kéo dài 90 phút là thời gian buồn chán nhất trong ngày, hôm nay lại là ngày tồi tệ nhất trong những ngày tồi tệ nhất. Ước gì tôi đã đừng nài nỉ mẹ cho đi xem phim Chuyến xe khói lửa. Ước gì tôi đã đi một mình và tự trả tiền.
Nhưng nếu có như thế thì Wilcox vẫn kiếm cớ gây chuyện, vì nó ghét tôi. Chó chẳng ưa gì cáo, phát-xít căm ghét người Do Thái. Căm ghét không cần biết tại sao, ai hay cái gì cũng thừa. Đó là điều tôi đang nghĩ khi thầy Inkberrow lấy thước kẻ gõ xuống bàn tôi. Tôi giật mình, đầu gối va vào bàn đau điếng. Rõ ràng một lần nữa tôi lại không để ý đến bài học.
— Cần tập trung một chút chứ, Taylor?
— Ừm...em không biết, thưa thầy.
— Đấu trực tiếp sẽ khiến đầu óc cậu sắc sảo hơn, Taylor. Cậu đấu với Pike.
Tôi thầm rên lên. Đấu trực tiếp là học sinh A làm một bài toán ở góc trái bảng, học sinh B làm cùng bài đó bên góc phải, như một cuộc đua. Clive Pike là siêu sao toán ở lớp 3KM nên tôi chẳng có cơ hội nào, đó là một phần của trò vui. Thậm chí lúc chúng tôi viết phương trình do thầy đọc, phấn của tôi còn bị gãy.
Một nửa lớp cười khúc khích, trong đó có mấy đứa con gái.
Leon Cutler lầm bầm - Thằng thua cuộc mới tởm làm sao.
Bị Ross Wilcox bêu rếu trước thiên hạ là một chuyện vì kỳ này nó đang làm như thế với cả một lũ. Nhưng bị một thằng tầm thường như Leon Cutler phỉ báng mà chẳng thèm quan tâm xem ta nghe thấy gì đồng nghĩa với việc danh tiếng của ta đã sụp đổ hoàn toàn.
— Sẵn sàng - thầy Inkberrow từ phía sau hô - Bắt...đầu!
Viên phấn của Clive Pike lướt nhẹ nhàng.
Tôi sẽ không giải phương trình này và nó biết điều đó. Tôi còn chẳng biết phương trình dùng để làm gì.
— Thưa thầy! - Gary Drake nói to - Taylor đang xem trộm bài của Pike. Thế là không đẹp, đúng không ạ?
— Tớ ch...(Gã treo cổ chen vào, lần này ngăn từ “chẳng”). Nói không đúng, thưa thầy.
Thầy Inkberrow chỉ dùng một chiếc khăn tay lau kính.
Tasmin Murrell dám cười – Taylor! hư, hư... - Tasmin Murrell, đồ con gái ghê gớm.
— Với tinh thần thẳng thắn, công bằng như vậy, Gary Drake - thầy Inkberrow nhận xét - em nên xem xét chọn nghề thực thi pháp luật?
— Cảm ơn thầy. Có lẽ em sẽ làm thế.
Tôi mới chỉ miễn cưỡng vạch vài đường phấn thì Clive Pike đã rời bảng.
Thầy Inkberrow để yên một lát - Rất giỏi, Pike, mời em ngồi.
Bài giải của tôi đứt ở dòng thứ hai gồm những chữ x, y và những khung đóng ô vuông.
Những tiếng khúc khích bắt đầu rộ lên.
— Trật tự, 3KM! Tôi chẳng thấy có gì buồn cười về việc mất một tuần trong sự nghiệp của mình dạy phương trình bậc hai cho bất kỳ kẻ nào đó mà kết quả lại thế này...một bữa ăn cho chó. Mọi người, mở sách trang 18. Ngồi xuống, Taylor. Chúng ta hãy xem những người còn lại trong lớp có chia sẻ sự dốt nát đáng tiếc của cậu không.
— Thằng ngu - Gary Drake suỵt khi tôi bước qua chân nó thò ra để ngáng tôi.
Khi tôi quay lại bàn, Carl Norrest không nói lời nào. Nó biết chuyện này như thế nào. Nhưng tôi biết đó mới chỉ là khởi đầu. Tôi đã ghi nhớ thời khóa biểu mới của năm thứ ba và biết điều gì sắp xảy ra trong tiết thứ ba và thứ tư.
Thầy Carver dạy thể dục đã đưa đội bóng bầu dục của năm thứ năm tới trường cao đẳng nam Malvern, nên thầy giáo thực tập McNamara dạy thay. Đây là tin mừng bởi nếu thầy Carver đánh hơi thấy ta không được ưa lắm, thầy sẽ nhảy vào. Sau khi kết thúc những buổi trao thưởng giải bóng đá mùa đông, thầy Carver ngồi trên lưng ngựa trong khu tập thể dục và gọi: “Biến cùng đống phân của cậu đi, Floyd Chaceley, hay để chúng ta bị dị dạng?” và “Quay trở lại tường ngồi đi, các bạn trẻ, Nicholas Briar sắp đi xuyên tường!”. Và hầu hết bọn tôi đều cười như thể đó là điều buồn cười nhất trái đất.
Tin buồn là lớp tôi (3KM) và lớp của Ross Wilcox (3GL) học cùng môn thể dục, trong khi thầy McNamara không thể làm chủ một lớp toàn con trai để tự cứu mình. Hay cứu tôi cũng vậy.
Phòng thay đồ toàn mùi đất và mồ hôi nách, được phân làm các khu. Khu của những đứa hàng cao nhất cách xa cửa nhất. Khu của những bọn bị ghẻ lạnh nằm gần của nhất. Khu của bọn còn lại nằm ở giữa hai khu trên. Thông thường đó là khu của tôi, nhưng hôm nay tất cả mắc treo đồ đều không còn. Bọn vốn bị ghẻ lạnh như Carl Norrest, Floyd Chaceley và Nicholas Briar hành động như thể tôi cùng nhóm chúng và để dành chỗ cho tôi. Gary Drake, Neal Brose và Wilcox đang mải quất vào mông nhau nên tôi thay đồ nhanh và vội vàng lao ra ngoài trời lạnh lẽo. Trước khi bắt đầu các vòng chạy, thầy McNamara cho chúng tôi tập khởi động. Tôi chạy với tốc độ được tính toán cẩn thận để Ross Wilcox luôn cách xa mình.
Mùa thu đang trở nên tội nghiệp, thối rữa và đầy sương mù. Cánh đồng cạnh sân thể thao của chúng tôi bị đốt thành màu nâu phấn. Cánh đồng tiếp theo như được vẽ bằng màu nước. Mùa thu như giết chết những quả đồi ở Malvern. Gilbert Swinyard bảo trường tôi và nhà tù Maze cùng được một kiến trúc sư xây. Nhà tù Maze ở phía Bắc Ireland, nơi năm ngoái Bobby Sands và những người của IRA chết vì tuyệt thực.
Trong những ngày như hôm nay, tôi tin lời Gilbert Swinyard.
— Thế các cậu nghĩ phải làm gì để trở thành một trung phong cho Liverpool? Cho Man U? cho đội tuyển Anh? - thầy McNamara chạy tới chạy lui trong bộ đồ thể thao màu cam và đen của đội Wolverhampton Wanderer - Thế các cậu nghĩ mình đã có quyết tâm? Có khả năng chiu đựng? - mái tóc bồng kiểu Kevin Keegan[116] của thầy bật lên - Chẳng có gì cho thấy điều đó! Hãy nhìn các cậu đi! Muốn biết đại học Loughborough dạy tôi điều gì về mồ hôi và thành công không? Hừm, dù sao tôi cũng sẽ nói cho các cậu biết! Thành công trong thể thao và trong đời các chàng trai trẻ, hừm, trong đời, ngang với mồ hồi. Mồ hôi và thành công (Darren Croome thả ra một quả rắm), mồ hôi với thành công ngang bằng nhau! Thế nên khi đã ra đường pít hôm nay, các chàng trai, hãy cho tôi thấy một chút mồ hôi! Tôi muốn thấy mồ hôi ba trăm phần trăm. Hôm nay chúng ta không chọn đội theo kiểu nửa đàn ông nửa đàn bà! Sẽ là lớp 3KM với 3GL, trí óc đấu với cơ bắp. Những người đàn ông thực sự có thể lên tuyến trước, bọn ẻo lả tuyến giữa, lũ què cụt phòng thủ, đám tâm thần giữ khung thành. Đùa thôi, tôi không nghĩ thế đâu! Chạy đi! - thầy thổi còi - Tiếp tục đi các chàng trai, hãy duy trì hoạt động!
Tôi không biết sự phá hoại đã được sắp đặt trước hay chỉ đơn giản diễn ra. Một khi đã là kẻ hèn yếu thì ta không được tham gia mọi hoạt động, song tôi sớm nhận thấy rằng bọn 3GL và 3KM cứ chuyển đội bừa bãi. Paul White (lớp 3GL) làm một cú sút xa vào thẳng gôn của bên nó. Thủ môn Gavin Coley lao một cú đầy ấn tượng nhưng lệch hướng. Khi Ross Wilcox phạm lỗi với Oswald Wyre (cùng đội nó) trong vòng cấm địa thì Neal Brose (đội của tôi) đá phạt và ghi bàn. Hẳn thầy McNamara đã đoán được đang có trò phá hoại. Có lẽ thầy không muốn biến bài giảng độc thoại đầu tiên của mình thành một buổi toàn những lời mắng mỏ.
Rồi những pha phạm lỗi bắt đầu.
Wayne Nashend và Christopher Twyford mỗi thằng tì một bên vai Carl Norrest, Carl Norrest hét lên vì oằn người dưới sức nặng của chúng - Thưa thầy! - Wayne Nashend nhảy bật lên trước - Norrest đốn chân em từ bên dưới! Thẻ đỏ, thưa thầy!
Thầy McNamara nhìn Carl Norrest bị dẫm, người đầy đất - Tiếp tục đi.
Tôi tham gia trận đấu sao cho mình đủ gần trái bóng để không bị mắng vì tội giả vờ chơi, nhưng cũng đủ xa để khỏi chạm vào nó. Tôi nghe tiếng bước chân huỳnh huỵch trước khi kịp quay lại, một cú lao chặn kiểu chơi bóng bầu dục hạ tôi ngay. Mặt tôi cắm xuống đất.
— Ăn bao nhiêu tùy thích, Taylor! - Ross Wilcox, chắc chắn là nó.
— Maggot thích thứ này! - Gary Drake, chắc chắn là nó.
Tôi cố gắng lăn người nhưng không được, bọn chúng đã ngồi trên lưng.
— Ôi! - tiếng còi của thầy McNamara rít lên - Các cậu!
Bọn chúng rời khỏi tôi. Tôi đứng dậy, người run lên vì trở thành nạn nhân.
— Cả hai cậu! - thầy McNamara chạy vội tới. (Tất cả bọn khác đã bỏ trận bóng để xem trận đấu mới này) - Các cậu nghĩ mình đang chơi trò quái quỷ gì thế?
— Chặn đối phương hơi muộn - Gary Drake cười - em thừa nhận.
— Bóng đã ở đằng kia sân rồi!
— Nói thật, thưa thầy - Ross Wilcox nói - em nghĩ cậu ấy còn giữ bóng. Khi không đeo kính, em mù tịt luôn.
(Khi đó Ross Wilcox không đeo kính).
— Thế các cậu đốn bạn này lăn ra sân bằng một cú chặn kiểu bóng bầu dục?
— Em nghĩ chúng em đang chơi bóng bầu dục, thưa thầy.
(Bọn đứng xem cười khúc khích).
— Ồ, chúng ta đang biểu diễn trò hề hả?
— Không, thưa thầy! Bây giờ thì em nhớ lại đây là bóng đá. Nhưng lúc em chặn cậu ấy, em nghĩ mình chơi bóng bầu dục.
— Em cũng thế - Gary Drake chạy tại chỗ như Sport Billy[117] - tinh thần chiến đấu quá cao khiến bọn em quên hết, thưa thầy. Mồ hôi ngang với thành công.
— Được! Cả hai cậu hãy chạy tới cây cầu để trí nhớ các cậu hồi phục lại!
— Cậu ấy buộc bọn em làm thế, thưa thầy! - Ross Wilcox chỉ Darren Croome - Nếu thầy không phạt cả bạn ấy là thầy để đứa cầm đầu thoát tội.
Thằng to xương Darren Croome phản ứng lúng túng.
— Cả ba cậu - sự thiếu kinh nghiệm của thầy McNamara lại bộc lộ - chạy tới cầu rồi quay lại! Chạy! Ai bảo các cậu còn lại là trận đấu đã kết thúc? Tiếp tục đi!
Đó là cây cầu dành cho người đi bộ, một đầu nằm ở sân trường còn đầu kia là con đường nông thôn dẫn tới Upton upon Severn. “Chạy đến cầu!” là một hình phạt thầy Carver thường áp dụng. Chỗ này quang nên thầy có thể nhìn thấy chúng hoàn thành chặng đường. Thầy McNamara quay lại làm trọng tài cho trận đấu nên không nhìn thấy Gary Drake, Ross Wilcox và Darren Croome đã tới cầu. Nên thay vì quay lại, chúng biết mất sau cây cầu.
Tuyệt. Trốn một tiết là vi phạm nghiêm trọng đủ để bị giải tới thầy Nixon. Nếu thầy Nixon dính vào, bọn nó sẽ quên mất tôi trong thời gian còn lại của ngày hôm nay.
Khi không có Gary Drake và Ross Wilcox đạo diễn việc phá hoại, trận bóng trở lại bình thường. Lớp 3GL ghi được sáu bàn, 3KM được bốn.
Chỉ đến lúc bọn tôi đập đất bám ở giày chỗ mấy căn lều chứa dụng cụ thể thao thì thầy McNamara mới nhớ tới ba đứa con trai mà thầy bắt chạy tới cầu trước đó 40 phút - Ba thằng hề ấy biến đi quái đâu nhỉ?
Tôi im re.
— Ba thằng hề các cậu biến đi quái đâu nhỉ?
Drake, Wilcox và Croome đã trở lại, sặc mùi thuốc lá và kẹo bạc hà Polo. Bọn nó nhìn thầy McNamara rồi nhìn nhau, vờ không hiểu. Gary Drake trả lời - Đến chỗ cây cầu, thưa thầy, như thầy đã bảo chúng em.
— Các cậu đã bỏ đi ba phần tư tiếng đồng hồ!
— Tới đó mất 20 phút, thưa thầy - Ross Wilcox nói - và quay lại hết 20 phút nữa.
— Các cậu nghĩ tôi là một thằng đần à?
— Tất nhiên là không, thưa thầy! - Ross Wilcox trông có vẻ đau khổ - Thầy là giáo viên thể dục.
— Và thầy học ở đại học Loughborough - Gary Drake chêm vào - học viện thể thao số một của nước Anh.
— Các cậu không biết tí gì về rắc rối mình đang gặp phải - cơn giận làm mắt thầy McNamara quắc lên, còn gương mặt tối sầm lại - các cậu không thể chỉ vì ý thích nhất thời của mình mà rời khỏi khu vực trường khi không được phép!
— Nhưng thưa thầy - Gary Drake nói vẻ bối rối - thầy bảo chúng em làm thế.
— Tôi không làm vậy!
— Thầy bảo bọn em chạy tới cầu và quay lại nên bọn em chạy tới cầu bắc qua sông Severn, ở Upton. Thầy đã nói thế.
— Upton? Các cậu chạy tới sông? Ở Upton? (Thầy McNamara đang đọc trang bìa của tờ Malvern Gazeeter có hàng tít Thầy giáo thực tập làm ba học sinh nam chết đuối). Tôi muốn nói cây cầu cho người đi bộ mà, mấy thằng ngu! Cạnh mấy sân tennis kia! Tại sao tôi lại bắt các cậu chạy tới Upton khi không có người giám sát?
Ross Wilcox vẫn giữ gương mặt nghiêm túc - Mồ hôi ngang với thành công, thưa thầy.
Cuối cùng thầy Mc Namara quyết định hoà - Đám học sinh nam các cậu có rất nhiều vấn đề, vấn đề lớn nhất chính là tôi! - Sau khi thầy đã về chỗ nghỉ ấm cúng của thầy Carver, Gary Drake và Ross Wilcox bận bịu thì thầm với những đứa hàng trên và bọn hàng trung bình. Một phút sau Wilcox hô: “Một, hai, một, hai, ba, bốn”, rồi tất cả trừ những đứa yếu đuối chúng tôi bắt đầu hát nhại theo điệu của bài John Brown’s Body:
Ông McNamara thích được “chơi” vào đít
Ông McNamara thích được “chơi” vào đít
Ông McNamara thích được “chơi” vào đít
Và ông ấy muốn “chơi” vào mông mày nữa - nữa - nữa...!
Hay quá, hay quá, McNamara!
Ông ấy chọc “chim” vào ông Carver!
Ông ấy còn chọc “chim” vào ch...cha ông ấy!
>
Đến lần thứ ba thì bài hát ngày càng to hơn. Có khi bọn trong lớp nghĩ Nếu mình không tham gia vụ này, mình sẽ là thằng Jason Taylor tiếp theo. Hoặc có khi sự đoàn kết của số đông có tinh thần mạnh đến mức chẳng đứa nào dám chống lại. Có lẽ sự đoàn kết có từ khi con người còn ăn lông ở lỗ, sự đoàn kết lấy máu làm xăng để chạy.
Cửa phòng thay đồ bật mở.
Bài hát ngay lập tức chấm dứt, như nó chưa từng tồn tại. Cánh cửa bật vào miếng cao su ngăn nó khỏi va vào tường, rồi đập vào mặt thầy McNamara.
Bốn-mươi-cộng-một thằng con trai cố nén cười vẫn khá ồn ào.
— Tao sẽ gọi bọn mày là một lũ lợn - thầy McNamara hét lên - nhưng nói như thế là xúc phạm lợn.
Tiếng “uuuuu” ở tường dội ra.
Một vài cơn nóng giận thật đáng sợ, một vài cơn thật buồn cười.
Tôi thấy thương cho thầy McNamara. Thầy ấy chính là tôi, ở góc độ nào đó.
— Trong số chúng mày - thầy McNamara kịp giữ lại những lời có thể khiến thầy mất việc - đứa giẻ rách nào có gan sỉ nhục tao trước mặt? Ngay bây giờ?
Sự yên lặng kéo dài như nhạo báng.
— Tiếp nữa đi! Hát đi! Tiếp nữa đi! Hát đi! - tiếng hét này phải làm họng thầy rách mất. Chắc chắn trong đó có sự tức giận, nhưng tôi nhận thấy cả sự tuyệt vọng nữa, hơn 40 năm sau còn thấy. Thầy McNamara trừng trừng nhìn quanh những đứa quấy rầy mình, tìm xem có cách thức nào mới - Cậu!
Tôi bàng hoàng. “Cậu!” chính là tôi.
Thầy McNamara chắc chắn đã nhận ra tôi là thằng bị quật xuống đất. Thầy đoán tôi là thằng có nhiều khả năng khai nhất - Nói tên chúng.
Tôi rúm người lại khi Quỷ chĩa tám mươi mắt vào mình.
Có luật sắt thế này. Nội dung của nó là Ta không được làm cho người khác gặp rắc rối bằng cách nêu tên họ ngay cả khi họ đáng bị như vậy. Các thầy cô giáo đâu hiểu luật này.
Thầy McNamara khoanh tay - Tôi đang đợi.
Giọng tôi như thầm thì - Em không nhìn thấy, thưa thầy.
— Tôi bảo nói tên của chúng! - những ngón tay của thầy McNamara nắm lại thành nắm đấm, cánh tay giật giật. Thầy ấy chuẩn bị cho tôi một cú đến nơi. Nhưng rồi tất cả ánh sáng từ trong phòng đổ ra, như thể có nhật thực vậy.
Thầy Nixon, hiệu trưởng của chúng tôi xuất hiện ở cửa.
— Thầy McNamara, cậu học sinh này là nhân vật chính xúc phạm thầy hay kẻ bị thầy nghi ngờ nhiều nhất, hay là một tay chỉ điểm ngoan cố?
(Trong mười giây nữa tôi sẽ biến thành đồ phết bánh xăng-uých hoặc sẽ tương đối tự do).
— Cậu ta - thầy McNamara nuốt nước bọt vẻ khó khăn, không chắc liệu sự nghiệp của mình còn mấy phút nữa thì bị “phăng teo” - nói rằng cậu ta “không nhìn thấy”, thưa thầy hiệu trưởng.
— Không có kẻ nào mù như thế, thầy McNamara - thầy Nixon tiến về phía trước vài bước, hai tay chắp sau lưng. Bọn con trai rúm người trên mấy cái ghế băng - Cách đây một phút tôi đang nói chuyện điện thoại với một đồng nghiệp ở Droiwitch, đột ngột tôi phải xin lỗi và bỏ dở cuộc nói chuyện. Còn bây giờ, ai có thể đoán lý do tại sao? (Mọi đứa trong phòng đều dán cả mắt xuống mặt sàn bẩn thỉu, kể cả thầy McNamara. Nếu gặp phải cái nhìn chằm chằm thì ta chỉ có bốc hơi ngay). Tôi dừng cuộc nói chuyện vì những tiếng be be như trẻ sơ sinh phát ra từ phòng này. Nói thật, tôi nghĩ mình không thể nghe thêm được chút nào. Còn bây giờ, tôi không bận tâm đến danh tính của kẻ cầm đầu. Tôi không quan tâm kẻ nào hết, kẻ nào ậm ừ, kẻ nào im lặng. Điều tôi quan tâm là thầy McNamara, một người khách trong trường của chúng ta, sẽ nói lại với những người ngang hàng mình, vì lý do chính đáng, rằng tôi là hiệu trưởng của một vườn thú của bọn côn đồ. Vì điều đó sỉ nhục danh tiếng của tôi, tôi sẽ phạt tất cả các cậu - thầy Nixon hất cằm lên một phần tư inch. Bọn tôi do dự - “Làm ơn, thưa thầy Nixon! Em không tham gia! Thật không công bằng nếu thầy phạt em!” - thầy thách thức bất kỳ đứa nào trong chúng tôi đồng ý, nhưng chẳng đứa nào ngu ngốc đến mức làm điều đó - Ồ, nhưng tôi không nhận mức lương thật cao để công bằng. Tôi được trả mức lương thật cao để duy trì các tiêu chuẩn. Các tiêu chuẩn mà các cậu - thầy đan các ngón tay vào nhau và bẻ bão phát sợ - vừa mới vùi xuống đất. Trong một thời đại văn minh hơn, một trận đòn hợp lý sẽ dạy cho các cậu sự đúng mực. Nhưng vì những lãnh đạo của chúng tôi ở điện Westminster[118] tước mất của chúng tôi công cụ này, phải tìm những kỹ thuật khó khăn hơn - thầy Nixon ra đến cửa - Phòng thể dục cũ, lúc 12 giờ 15. Ai đến muộn sẽ bị giam một tuần. Kẻ nào vắng mặt sẽ bị đuổi. Thế thôi.
Từ tháng 9 này, phòng ăn của trường đã bị thay bằng một quán ăn tự phục vụ. Phía trên cửa phòng treo tấm biển QUÁN ĂN TỰ PHỤC VỤ RITZ DO KWALITY KWISINE ĐIỀU HÀNH, nhưng mùi dấm và đồ rán nồng nặc bay ra tận cửa phòng thay đồ. Phía dưới tấm biển là một con lợn đội mũ bếp trưởng đang cười, tay cầm một đĩa phẳng chứa nước sốt. Thực đơn có khoai tây rán, đậu, bánh ham-bơ-gơ, nước sốt, trứng rán. Bánh pút-đinh là kem trộn với lê hoặc đào đóng hộp. Đồ uống thì có nước ngọt không ga Pepsi, nước cam chán chết hoặc nước ấm. Tuần trước Clive Pike tìm thấy một nửa con cuốn chiếu đang uốn éo trong bánh ham-bơ-gơ của nó. Tệ hơn, nó chẳng bao giờ thấy nửa con còn lại.
Khi tôi xếp hàng, bọn học sinh cứ liếc tôi, vài đứa năm thứ nhất còn chẳng cố nén cười. Tất cả đều nghe nói rằng hôm đó là Ngày cho Taylor. Ngay cả những bà bán đồ sau chiếc quầy bóng loáng cũng cười tôi. Có điều gì đó đang diễn ra. Tôi chẳng biết gì đến tận lúc mang đĩa đồ ăn đến ngồi cạnh Dean Moran ở bàn của những thằng yếu đuối.
— Ui...đứa nào đó đã gắn miếng dính lên lưng mày, Jace.
Khi tôi cởi chiếc áo cộc tay ra, một trận cười nổ ra làm rung chuyển quán ăn tự phục vụ Ritz. Lưng áo tôi bị dán tới mười miếng dính, mỗi miếng có một chữ MAGGOT, nét chữ và bút viết trên từng miếng đều khác nhau. Tôi phải kìm chế để không bỏ chạy ra ngoài, bởi làm thế sẽ chỉ làm chiến thắng của bọn khốn thêm trọn vẹn. Khi trận cười dịu bớt, tôi gỡ những miếng dán và đưa xuống gầm bàn xé thành từng mảnh vụn.
— Lờ bọn ngu đi - Dean Moran bảo tôi. Một miếng khoai tây rán to bay thẳng vào má nó - Buồn cười lắm đấy! - Nó hét về phía xuất phát của miếng khoai.
— Ừ - Ant Little từ bàn Wilcox hét lên - Bọn tao nghĩ thế đấy. Thêm ba bốn miếng khoai bay vèo. Cô Ronkswood bước vào phòng, khiến trận đấu súng bằng khoai tây rán chấm dứt.
— Này... - khác với tôi, Dean Moran có khả năng phớt lờ chuyện xảy ra - Mày có nghe chuyện gì không?
Vẫn đau khổ, tôi dùng nĩa lấy một miếng đồ ăn khô - Cái gì?
— Debby Crombie.
— Cái gì về Debby Crombie?
— Chị ấy vẫn còn trinh, đúng không?
— Chơi bóng rổ[119]?
— Trinh ấy! - Dean suỵt - Có thai!
— Có thai? Debby Crombie à? Có trẻ con?
— Bé cái mồm thôi! Như thế này. Tracy Swinyard là bạn thân nhất của người làm thư ký cho các bác sĩ ở Upton. Hai đêm trước bọn họ đi uống rượu. Sau khi uống một vài chầu, bà ấy bảo Tracy Swinyard phải thề rồi kể với bà ấy. Tracy Swinyard nói với chị gái tao. Lúc ăn sáng hôm nay Kelly bảo tao. Bà ấy bắt tao phải thề trên mộ bà đấy.
(Mộ bà của Moran phủ đầy những lời thề bị xé nát).
— Bố đứa bé là ai?
— Đừng có làm Sherlock Holmes. Kể từ khi Tom Yew đi, Debby Crombie không chơi bời với ai, đúng không?
— Nhưng Tom Yew chết từ hồi tháng 6.
— Ừ, nhưng hồi tháng tư anh ấy về làng Thiên nga đen, đúng không? Về nghỉ phép. Chắc chắn hồi đó anh ấy phóng những con nòng nọc vào lưng chị ấy.
— Thế là cha của đứa con Debby Crombie đã chết trước khi nó ra đời?
— Xấu hổ hay cái gì? Isaac Pye bảo nếu là Crombie thì lão sẽ phá thai, nhưng mẹ Dawn Madden bảo phá thai là giết người. Debby Crombie bảo bác sĩ là chị ấy sẽ sinh đứa bé, dù thế nào. Nhà Yew sẽ giúp nuôi đứa bé, Kelly nghĩ thế. Tao nghĩ đó chính là làm Tom hồi sinh theo một cách nào đó.
Quả là những trò đùa của cuộc đời, chẳng có gì buồn cười cả.
“Tao chẳng thấy gì là buồn cười hết”, Thằng em sinh đôi chưa hề ra đời nói.
Hầu hết các khu trong trường tôi xây trong vòng 30 năm qua, nhưng một phần là trường trung học phổ thông xây từ thời Victoria, phòng thể dục cũ nằm ở đó. Phòng này ít được dùng, ngói bị thổi bay trong những ngày bão gió. Hồi tháng giêng, một viên bay sượt qua Lucy Sneads chỉ vài inch, nhưng từ trước tới nay chưa có đứa nào chết vì thứ đó. Nhưng đã có một đứa năm thứ nhất chết trong phòng thể dục cũ. Vì bị bắt nạt nhiều quá, nó dùng cà-vạt để treo cổ, chỗ những sợi dây của phòng thể dục thõng xuống. Pete Redmarley thề là nó đã nhìn thấy thằng bé treo lủng lẳng ở đó trong một buổi chiều bão gió cách đây ba năm, khi thằng bé còn chưa chết hẳn. Đầu nó ngật về sau vì cổ gãy còn chân co giật, cách mặt đất hai mươi foot. Người nó trắng bợt, trừ vệt da màu đỏ chỗ cái cà-vạt thắt vào. Nhưng khi đó đôi mắt nó vẫn theo dõi Pete Redmarley, nên từ đó Pete Redmarley không bao giờ đặt chân vào phòng thể dục cũ lần nào nữa.
Dù có chuyện gì xảy ra, bây giờ lớp tôi và lớp 3GL cũng đang chờ đợi ở sân trong. Tôi tự bám sát bọn Christopher Twyford, Neal Brose, David Ockeridge và nói chuyện về bộ phim Harry bẩn thỉu chiếu trên tivi hôm thứ bảy. Trong phim có cảnh Clint Eastwood không biết trong ổ đạn của mình còn viên đạn nào để có thể giết một kẻ xấu không.
— Ừ - tôi nói xen vào - đoạn đó thật tuyệt.
Cái nhìn soi mói của Christopher Twyford và David Ockeridge như nói >- Chẳng có ai - Neal Brose bảo tôi - nói “tuyệt vời” nữa, Taylor. Thầy Nixon, thầy Kempsey và cô Glynch bước qua sân. Chuẩn bị có một trận mắng té tát. Bên trong sân, các hàng ghế được sắp theo hàng như khi thi. Lớp 3KM ngồi bên trái, 3GL ngồi bên phải. “Có ai”, thầy Nixon bắt đầu, “tin rằng mình không nên có mặt tại đây?”. Thực ra ý thầy muốn nói: “Có ai muốn bắn vào đầu gối mình không?” Chẳng có đứa nào bị lừa hết. Cô Glynch chủ yếu nói với lớp 3GL: “Các em đã làm cho các thầy cô thất vọng, các em đã làm cho cả trường thất vọng, các em đã làm cho chính mình thất vọng...”. Sau đó thầy Kempsey nói với chúng tôi: “Tôi chưa hề có cảm giác tệ hại thế này trong 26 năm qua. Các em đã hành động như một lũ côn đồ...”. Chuyện này diễn ra đến tận 12 giờ 30. Những cửa sổ cáu bẩn chia bầu trời xám xịt đầy sương thành những ô chữ nhật. Màu hoàn toàn hợp với sự chán chường. — Các cậu sẽ phải ngồi đây cho tới khi có chuông báo 1 giờ. Các cậu không được phép cử động, không được nói chuyện - “Nhưng thưa thầy! Nếu em cần đi vệ sinh thì sao?” - Làm mất mặt mình, như các cậu đã tìm cách làm mất mặt một trong số giáo viên của tôi. Sau tiếng chuông các cậu sẽ nhăn nhó. Hình phạt giam sẽ lặp lại sau mỗi bữa trưa của tuần này. (Không đứa nào dám rên rỉ) - “Nhưng thưa thầy! Phạt bằng cách bắt ngồi im thế này nhằm mục đích gì?” - Mục đích là để trường ta không có chỗ cho việc số nhiều biến số ít, thậm chí một người, thành nạn nhân. Rồi thầy hiệu trưởng đi khỏi. Thầy Kempsey và cô Glynch viết vào sách. Chỉ có tiếng bút, tiếng dạ dày của bọn học sinh, tiếng ruồi bay đập vào các ống đèn tuýp, tiếng hò hét của bọn trẻ phía xa xen vào bầu không khí im lặng. Kim giây của chiếc đồng hồ giật, rung, rung lên. Có lẽ cái đồng hồ đó là thứ cuối cùng trên thế giới mà thằng bé treo cổ nhìn thấy. Nhờ có những buổi phạt giam này, vài bữa trưa tới Ross Wilcox sẽ không chọc phá tôi nữa. Bất kỳ đứa bình thường nào cũng thấy lo lắng nếu thấy hai lớp toàn con trai bị phạt giam. Sao thầy Nixon không dựa vào chúng tôi để để phạt bọn cầm đầu nhỉ? Tôi liếc trộm Ross Wilcox. Chắc chắn Ross Wilcox đang nhìn tôi chằm chằm. Nó ra dấu chữ V ý nói Tiên sư mày còn miệng thì mấp máy >- Tôi lấy con ốc xà cừ...và Jack trở nên hung tợn. Mày câm mồm đi! - Cứt thật, từ “sang” lại sắp xuất hiện - Piggy rũ người xuống. Ralp giật lấy con ốc xà cừ từ tay nó rồi nhìn... - Tuyệt vọng, tôi dùng Phương pháp nói nhầm để nhảy thẳng sang nguyên âm để bật từ đó ra, vẫn nói được từ bị lắp - S...sang đám con trai. - Người đẫm mồ hôi, tôi liếc thầy Monk, thầy giáo thực tập dạy môn tiếng Anh. Cô Lippetts chẳng bao giờ bắt tôi đọc to nhưng cô ấy đã lên phòng hội đồng. Rõ ràng là cô ấy đã không bảo thầy Monk về thỏa thuận giữa hai chúng tôi. — Tốt - sự kiên nhẫn giữ cho giọng thầy Monk dịu bớt - tiếp đi. — Chúng tôi đã có những người đặc biệt để trông nom đống lửa. (Những từ có âm đầu bằng “s” lại dễ hơn những từ “s” nằm giữa[120], tôi chẳng hiểu tại sao). Bất kỳ ngày nào ở đó, tôi nuốt nước bọt, có thể có một con ngoài kia - ông vẫy tay chỉ về phía đường chân trời - và nếu chúng ta nảy sinh tín hiệu nào chứng tỏ muốn ra đi, họ sẽ đến và đón chúng ta. (Gã treo cổ để cho tôi nói “sinh” như thể một võ sĩ đấu bốc đang áp đảo để yên cho kẻ thua trận đấm mình một hai phát để mua vui). Còn một việc khác. Chúng ta phải có thêm các quy định. Chỗ nào có con ốc xà cừ, chỗ đó là nơi gặp. Ssssang bên này hay xuống kia cũng thế. Họ đã có... - Ôi, chết tiệt, chết tiệt, tôi không thể nói rằng họ bày tỏ “sự đồng ý”. Bình thường những từ bắt đầu với chữ “s” không quá khó. Ơ... — Sự đồng ý - thầy Monk nói, ngạc nhiên vì một đứa học năm cuối cấp lại không thể đọc một từ đơn giản. Tôi không đến nỗi ngu ngốc để lặp lại từ này - điều thầy Monk trông đợi. Piggy mở miệng nói s...s...song bắt gặp ánh mắt của Jack nên lại ngậm miệng - Bây giờ tôi chẳng còn cách nào giấu tật nói lắp. Gã treo cổ biết hắn sắp có được chiến thắng quan trọng. Một lần nữa tôi chỉ biết viện đến Phương pháp bật để nói từ “song”. Dùng sức mạnh để bật từ này ra là giải pháp cuối cùng bởi như thế mặt ta trông thộn ra. Nếu Gã treo cổ cố gắng mạnh hơn, từ sẽ bị tắc lại và tôi sẽ đúng là thằng thiểu năng trí tuệ nói cà lăm - Jack đưa tay ra đón con ốc xà cừ và... - như bị trùm túi bóng cho ngạt thở, tôi tiếp - s...s...sửa s...s...soạn đứng dậy, cẩn thận cầm cái vật mảnh mai... - hai lỗ tai tôi lùng bùng - trong hai bàn tay đen s...s...sạm. Tôi đồng ý với Ralph. Chúng ta đã có những quy định này và tuân thủ chúng. Rốt cuộc chúng ta không, chúng ta không phải... Xin lỗi thầy! - tôi không còn lựa chọn nào khác - Từ gì đây ạ? — Sát nhân. — Cám ơn thầy. (Ước gì tôi có đủ lòng dũng cảm để cắm hai chiếc bút Pentel vào mắt rồi đập vào bàn, hoặc dùng bất cứ cách gì để thoát khỏi tình trạng này). Chúng ta là người Anh, và người Anh cái gì cũng giỏi nhất. Chúng ta..., ơ..., s...s... >Cô Lippetts bước vào và nhìn thấy chuyện vừa diễn ra - Cảm ơn, Jason. Không có câu hỏi “Tại sao nó thoát nạn nhẹ nhàng thế?” gợn lên trong lớp. — Thưa cô - Gary Drake giơ tay lên. — Gary? — Đoạn này thật hay, em không ngồi yên được. Em đọc đoạn này có được không? — Cô rất vui khi em thích đoạn này, Gary. Đọc tiếp đi. Gary Drake hắng giọng - Ralph, tôi sẽ phân chia đội của tôi, tức là chia các thợ săn thành các nhóm, trách nhiệm giữ cho lửa cháy... - Gary Drake đọc với giọng điệu quá mức, chỉ nhằm để tạo sự khác biệt với kiểu nó sắp đọc tiếp theo - S...s...sự hào phóng này tạo ra s...s...sự (Nó đã bắn trúng tôi, bọn con trai cười thầm còn đám con gái ngoái nhìn tôi) ...hào hứng từ các chàng trai, thế s...s...sẽ... — Gary Drake! Nó hoàn toàn ngây thơ - Thưa cô sao ạ? Bọn trong lớp ngoái nhìn Gary chằm chằm, rồi nhìn tôi. Thằng nói lắp Taylor sắp khóc à? Tôi đã bị dán một miếng dính mà không bao giờ có thể gỡ ra. — Em nghĩ em đang vui lắm đấy hả, Gary Drake? — Xin lỗi cô - Gary Drake cười mà không hề cười - chắc chắn em vừa bị lây tật nói cà lăm ở đâu đó. Người Christopher Twyford và Leon Cutler rung bần bật vì cười trộm. — Cả hai cậu có thể câm miệng đi! - Chúng im thật. Cô Lippets đâu phải người khờ, bắt Gary Drake lên gặp thầy Nixon chỉ làm cho trò đùa của nó thành chuyện được chú ý nhất trong ngày hôm nay (nếu như hiện tại nó chưa thế) - Em hèn yếu một cách ti tiện, đần độn và ngu ngốc, Gary Drake. - Những từ còn lại trong trang 41 của cuốn Chúa Ruồi lan đầy ra trang giấy, rồi gương mặt của tôi như bị chúng bu kín hết. Tiết mười bảy và mười tám là môn âm nhạc của thầy chủ nhiệm Kempsey. Alastair Nurton đã chiếm mất chỗ tôi vẫn ngồi nên không nói một lời, tôi ngồi xuống cạnh Carl Norrest - Chúa của bọn hèn yếu. Nicholas Briar và Floyd Chaceley đã là những kẻ hèn yếu từ lâu nên bọn nó cặp kè như một đôi. Thầy Kempsey vẫn cáu với chúng tôi vì chuyện thầy McNamara. Khi chúng tôi đồng thanh: “Chúc thầy Kempsey một buổi chiều tốt lành!”, thầy chỉ vẫy những cuốn bài tập của bọn tôi như thể đang chơi trò ném vòng vào cổ chai - Tôi thực sự không thể thấy “tốt lành” trong buổi chiều hôm nay, khi các cô cậu phá vỡ nguyên tắc nền tảng của trường học. Cụ thể thứ được coi là kem được tinh chế từ kem lại tự biến chất thành loại sữa có phẩm chất kém hơn. - Avril Bredon, phát sách cho cả lớp, chương ba. Đến lượt Ludwig van Beethoven bị treo cổ, xé xác phanh thây. (Trong những giờ âm nhạc chúng tôi không sáng tác nhạc. Tất cả những gì bọn tôi học trong kỳ này là những đoạn trong cuốn Cuộc đời của các nhà soạn nhạc vĩ đại. Khi làm bài, thầy Kempsey mở máy chạy đĩa và cho vào một đĩa hát dung lượng lớn của nhà soạn nhạc được dạy trong tuần đó. Một giọng điệu nhất thế giới sẽ giới thiệu các tác phẩm nổi tiếng nhất của soạn giả đó) - Hãy nhớ - thầy Kempsey cảnh báo - viết tiểu sử của tác giả bằng chính từ ngữ của các em - tôi ghét cái đó. Những người viết đã dùng câu chữ thật cô đọng rồi, đó là nghề của họ. Tại sao lại bắt bọn tôi gỡ ra để rồi lắp lại làm nó tệ hơn? Làm thế nào nói được capelmeister khi ta không thể nói capelmeister[121]? Trong giờ của thầy Kempsey vốn chẳng có đứa nào dám quậy nhiều, nhưng hôm nay không khí như thể vừa có người chết. Chỉ có một chút khiến lớp phân tán là con bé Holly Deblin mới vào lớp xin phép thầy lên bệnh xá một lúc. Thầy Kempsey chỉ tay ra cửa và bảo “Đi”. Sang năm thứ ba, bọn con gái xin phép đi bệnh xá hay ra nhà vệ sinh dễ hơn bọn con trai. Duncan Priest bảo chuyện đó liên quan đến kinh nguyệt. Kinh nguyệt là thứ cực kỳ bí ẩn, khi có mặt bọn con trai, đám con gái chẳng bao giờ nói tới. Bọn con trai thì cũng chẳng dám đùa về chuyện này, đề phòng để lộ ra là mình biết quá ít về nó. Beethoven bị điếc là điểm nổi bật của chương viết về ông ấy trong cuốn Cuộc đời của các nhà soạn nhạc vĩ đại. (Các nhà soạn nhạc mất đến nửa đời đi lại khắp nước Đức làm việc cho các tổng giám mục, các hoàng tử. Nửa đời còn lại của họ chắc chắn dành cho các nhà thờ. Nhiều kẻ trong ca đoàn của Bach dùng những bản thảo nhạc của ông để gói bánh xăng-uých suốt nhiều năm sau khi ông chết. Đó là hai điều tôi học được về âm nhạc trong kỳ này). Tôi viết xong về Beethoven chỉ trong 40 phút, xong trước cả lớp khá lâu. Sô-nát ánh trăng, giọng điệu nhất thế giới nói với chúng tôi, là một trong những bản được yêu thích nhất trong vốn tiết mục của một nghệ sĩ piano. Bản sô-nát sáng tác năm 1782, gợi hình ảnh mặt trăng trên mặt nước yên bình, hiền hoà sau một cơn bão. Một bài thơ xuất hiện trong đầu tôi khi bản sô-nát nổi lên, tên bài thơ là Quà lưu niệm. Tôi ước mình có thể viết những dòng ấy ra cuốn nháp, nhưng tôi không dám làm điều đó trong lớp, trong một ngày như hôm nay. (Bây giờ thì chúng đã tan biến đi trừ câu “ánh nắng chiếu trên các gợn sóng, những vệt như kim tuyến lấp lánh”. Không viết ra, ta sẽ chịu số phận bi đát). — Jason Taylor - thầy Kempsey đã nhận ra tôi không còn chú ý tới cuốn sách - có việc nhỏ cho cậu đây. Trong giờ học, những hành lang trong trường đầy vẻ nguy hiểm, những nơi thường ồn ào nhất thì bây giờ yên lặng nhất. Cứ như thể một quả bom nơ-trôn đã khiến toàn bộ sự sống bốc hơi trừ các tòa nhà. Những âm thanh chìm nghỉm không phát ra từ các lớp học mà từ ranh giới phân chia giữa sự sống và cái chết. Đường ngắn nhất tới phòng hội đồng đi qua sân trong nhưng tôi lại chọn lối đi dài hơn, qua phòng thể dục cũ. Các thầy cô giáo thường làm những việc vặt vào thời gian nghỉ giữa giờ, khi không có ai quấy rầy (như việc đậu xe trong khu độc quyền vậy). Tôi muốn làm cho không gian khu này rộng ra. Bước chân tôi lộp cộp trên những tấm ván cũ mòn mà những cậu học sinh đã nhào lộn trước khi tham gia Thế chiến thứ hai rồi bị giết bằng khí độc. Những chiếc ghế xếp đống choán lấy bức tường của phòng thể dục cũ, nhưng ở phía tường còn lại có một khung gỗ có thể leo lên. Vì lý do nào đó, tôi muốn nhòm qua ô cửa sổ ở trên đỉnh. Đó là một mạo hiểm nho nhỏ, nếu nghe thấy tiếng bước chân tôi sẽ nhảy xuống. Một khi trên đó, ta sẽ thấy nó cao hơn vẻ ngoài. Những lớp bụi tụ lại sau nhiều năm đã khiến lớp kính chuyển thành màu xám. Bầu trời về chiều chuyển sang màu xám sẫm. Bản Sô-nát ánh trăng di chuyển quanh hành tinh thứ mười. Tiếng quạ rúc trong một ống nước, vừa kêu vừa nhìn chiếc xe buýt tiến vào khoảng sân trước rộng rãi. Bướng bỉnh, kín đáo và buồn chán, đám quạ này giống như đám Punk ở Upton lượn lờ quanh đài tưởng niệm chiến tranh. “Một khi đã là Maggot”, Thằng em sinh đôi chưa hề ra đời chế nhạo, “thì luôn là Maggot”. Đáy mắt tôi như muốn nổ tung vì khao khát trời đổ mưa. Thứ sáu đã tới rồi, chắc chắn. Nhưng khi tôi về nhà thì kỳ nghỉ cuối tuần bắt đầu chết và thứ hai bò tới gần hơn, từng phút, từng phút. Rồi sẽ trở lại năm ngày giống như hôm nay, thậm chí tệ hơn nhiều so với hôm nay. Tự treo cổ đi. — May cho cậu - một giọng con gái cất lên làm tôi suýt rơi từ độ cao 15 foot xuống thành một đống xương vụ - tôi không phải giáo viên đi kiểm tra, Taylor. Tôi nhìn xuống thì thấy Holly Deblin đang nhìn lên - Tớ cũng đoán thế. — Cậu ra ngoài làm gì thế? — Thầy Kempsey sai tớ đi lấy cái còi - Tôi leo xuống. Holly Deblin là con gái nhưng nó cao bằng tôi. Nó có thể phóng lao xa hơn bất kỳ đứa nào - Hôm nay thầy ấy điều khiển xếp hàng lên xe buýt. Cậu thấy khỏe hơn chưa? — Chỉ cần nằm một chút thôi. Còn cậu thế nào? Bọn nó đang gây khổ sở cho cậu à? Wilcox, Drake, Brose và bọn nó. Phủ nhận chẳng được gì, thừa nhận lại làm nó thực hơn. — Bọn nó là loại tồi tệ, Taylor. Bóng tối trong phòng thể dục cũ làm những góc cạnh trên người của Holly Deblin nhằn đi. — Ừ, bọn nó là bọn tồi tệ, nhưng điều đó giúp gì được cho tớ? Có phải khi đó tôi bắt đầu nghe tiếng mưa rơi? — Cậu không phải Maggot. Đừng để bọn tồi tệ quyết định cậu là ai. Đi qua chiếc đồng hồ nơi những đứa học sinh hư bị phạt đứng, qua phòng thư ký mà các đội trưởng thường lấy bản đăng ký thi đấu, qua nhà kho, một hành lang dài dẫn tới phòng hội đồng. Khi càng đến gần, bước chân tôi càng chậm lại. Ngày hôm nay cánh cửa thép mở một nửa, tôi nhìn thấy những chiếc ghế thấp, đôi ủng không thấm nước của thầy Whitlock. Khói thuốc bốc ra như sương mù ở thành phố London của Jack - Kẻ sát nhân[122]. Nhưng ở ngay mé cửa có một dãy khá kín đáo đặt bàn riêng của các thầy cô có vị trí quan trọng. — Gì thế? - thầy Dunwoody nháy mắt với tôi như một con rồng. Một cành hoa cúc đang chuyển sang màu nâu ngả trên vai thầy. Cuốn sách nghệ thuật màu đỏ tươi của thầy có tên Câu chuyện về con mắt của Georges Bataille - Như tựa sách gợi lên - thầy nhận thấy cuốn sách đã thu hút sự chú ý của tôi - nó nói về lịch sử những nhà nhãn khoa. Em có việc gì thế? — Thưa thầy, thầy Kempsey bảo em đi lấy cái còi cho thầy ấy. — Theo kiểu “Thổi còi là ta sẽ đến với cậu, cậu bé? — Em đoán thế, thưa thầy. Thầy ấy bảo em rằng còi để trên bàn, trên một tờ giấy ghi những điều cần lưu ý. — Hoặc có lẽ - thầy Dunwoody đưa ống thuốc xịt mùi Vick lên cái mũi to và đỏ của thầy và hít một hơi - thầy Kempsey sẽ nghỉ dạy khi đồng hồ vẫn chưa chuẩn. Đi Snowdonia chăn cừu? Với Shep, con chó côli của thầy ấy? “Ồ, cho tôi một cái võng ở vùng đất của các dãy núi?”. Đây có thể là lý do khiến thầy Kempsey cử cậu đi lấy còi? — Em nghĩ thầy ấy chỉ lấy để điều khiển xếp hàng lên xe buýt thôi, thưa thầy. — Chia thành hàng - dưới cái nhìn dịu dàng của một kẻ bất lương, thầy Dunwoody quay trở lại với cuốn Câu chuyện về con mắt mà không nói thêm lời nào. Tôi bước vào dãy bàn riêng không có người. Chủ nào bàn đấy, giống như chó giống chủ vậy. Bàn của thầy Inkberrow là những chồng sách gọn gàng. Bàn của thầy Whitlock thì bẩn thỉu vì những khay đựng hạt cùng những bản phô-tô cuốn Cuộc sống thể thao. Góc của thầy Kempsey có một cái ghế da, một chiếc đèn chụp cân các góc giống đèn của ba, một bức tranh chúa Giê-su cầm một chiếc đèn lồng đứng cạnh cửa làm bằng ngà voi. Trên bàn thầy là cuốn sách Những lời cầu nguyện đơn giản cho một thế giới rối ren, Roget’s Thesaurus - Từ điển đồng nghĩa và đối nghĩa của Roget (Dean Moran gọi nó là Khủng long khổng lồ ăn cây của Roger), Delius: Delius như tôi biết. Cái còi của thầy Kempsey nằm đúng nơi thầy đã báo tôi. Dưới chiếc còi là một tập mỏng Kỹ thuật sao chụp không dùng mực ướt của các máy Xerox. Tôi gập tờ trên cùng và nhét vào túi áo ngắn tay, làm thế chỉ vì phải thế. Những kẻ bắt nạt có hình dáng và cỡ người khác nhau. Quan sát ta và thu thập tin tức. Tránh xa một trận chiến vô vọng không phải hành động hèn nhát. Điều gì tệ hơn? Sự khinh bỉ do làm chỉ điểm hay sự đau khổ mà nạn nhân phải chịu? Kẻ hung bạo có thể hình thành tự sự hung bạo mà ta chẳng thể chống chọi. Để cho sự xảo trá làm đồng minh của bạn. Sự chính trực không thể mất đi nếu không có sự đồng ý của bạn. Đừng cười vì những điều ta thấy không buồn cười. Đừng ủng hộ quan điểm ta không theo. Người độc lập làm bạn với những người độc lập. Thời thanh niên chết ở năm thứ tư. Ta sống để được lên tám mươi tuổi. > — Tìm kim đáy bể hả? - đầu thầy Dunwoody thò vào ngăn của mình - Như cách nói của người châu Á ấy? Không phải tìm kim trong đống cỏ khô[123]? Tôi nghĩ thầy ấy đã nhìn thấy tôi thó tờ giấy - Thưa thầy? — Đàn gảy tai trâu? Hay một chiếc còi trên bàn? Tôi lắc chiếc còi, hướng về thầy: Em vừa tìm thấy nó, thưa thầy... — Hà cớ gì lại đùa cậu chứ? Bằng tốc độ của con khỉ có cánh, hãy đưa ngay cho chủ của nó. Nhanh lên! Bọn năm thứ nhất đang chơi trò chọi sâu hạt trong khi chờ xe buýt về làng Thiên nga đen. Khi còn học lớp cô Throckmorton, tôi chơi chọi sâu hạt rất giỏi. Nhưng bọn năm thứ ba chúng tôi không thể chơi trò này, vì quá yếu ớt. Bọn tôi chỉ chơi trò bóng ma hoặc chẳng chơi gì hết. Nhưng ít ra cũng có thể xem chọi sâu hạt. Wilcox đã khiến bọn ở trường thấy rằng ngay cả nói chuyện với Jason Maggot, Thằng nói cà lăm của trường cũng là điều mạo hiểm. Sau khi thầy Kempsey dồn bọn làng Birtsmorton lên xe buýt của bọn nó, thầy thổi còi ra lệnh cho bọn ở làng Thiên nga đen. Tôi tự hỏi thầy dành cho tôi tờ giấy để làm gì. Khi ta cho rằng thầy Kempsey đúng, thì thầy ấy hành động như một kẻ ngu ngốc. Với một thằng con trai học năm thứ ba, ngồi ở ba hàng ghế trên cùng bị coi là đàn bà, nhưng ngồi gần nhóm của Wilcox ở phía sau còn tệ hơn. Bọn tầm trung bình lũ lượt bỏ qua chiếc ghế trống gần tôi. Robbin South, Gavin Coley, Lee Biggs thậm chí chẳng thèm nhìn tôi. Oswald Wyre còn ném một câu “Maggot!” về phía tôi. Phía bên kia sân chơi, những đứa đứng cạnh nhà để xe đạp biến thành bóng của những con rối trong màn sương. — Chúa ơi! - Dean Moran ngồi xuống cạnh tôi - Một ngày ghê gớm! — Ừ, Moran! - tôi thấy tội nghiệp vì thấy mình biết ơn nó. — Nói cho mày nghe cái này, Jace, Murcot là thằng tâm thần kinh khủng! Trong giờ học làm đồ gỗ vừa xong, một chiếc máy bay bay qua, Murcot hét lên: “Nằm xuống đất, các cậu, bọn máy bay Đức chết tiệt đấy!”. Thề có Chúa, tất cả bọn tao nằm ép xuống sàn. Mày có nghĩ nó sắp bị suy não không? — Có thể. Bác tài xế Norman Bates đã khởi động máy và chiếc xe bắt đầu chạy. Dawn Madden, Andrea Bozard và vài đứa con gái khác bắt đầu hát bài Đêm nay đám sư tử ngủ (The lions sleep tonight). Đến khi xe buýt tới Welland Cross, sương bắt đầu xuống dày đặc. — Tao định thứ bảy tuần này mời mày đến chơi - Moran bảo - bố tao vừa mua được cái máy quay video từ lão béo trong quán rượu ở Tewkesbury. Dù đang gặp rắc rối, tôi vẫn thấy quan tâm - Loại VHS hay Betamax? — Tất nhiên là Betamax, VHS đang tuyệt chủng rồi. Vấn đề là hôm qua nhà tao lôi cái máy ra khỏi hộp thì một nửa đồ bên trong đã biến mất. — Bố mày làm thế nào? — Lái xe ngay đến Tewkesbury để nói chuyện với lão béo đã bán cho ông ấy. Nhưng vấn đề là lão ta đã biến mất. — Có ai ở quán rượu giúp được gì không? — Không, cái quán rượu đó cũng biến mất. — Biến mất? Làm sao quán rượu biến mất được? — Có biển trên cửa sổ: “Chúng tôi ngừng bán hàng”. Trên cửa chính với cửa sổ có khóa móc. Biển bán nhà. Đấy là kiểu biến mất của quán rượu. — Khốn nạn thật. Vài cái xe kéo toa đậu ở góc thụt đỗ xe Danemoor Farm mặc dù ở đó đã có vài đống sỏi để ngăn những người Digan tới. Sáng nay chúng chưa có mặt ở đó, nhưng sáng nay đã thuộc về một thời đại khác. — Dù sao chủ nhật cứ đến đây nếu mày muốn. Mẹ tao sẽ làm bữa trưa, sẽ vui đấy. Trước tiên phải trải qua thứ ba, thứ tư, thứ năm, thứ sáu đã - Cảm ơn. Ross Wilcox và đồng bọn của nó lũ lượt kéo xuống xe buýt mà chẳng thèm liếc qua tôi. Tôi đi qua bãi cỏ của làng, trong đầu nghĩ rằng điều tồi tệ nhất trong ngày đã qua. — Mày nghĩ mình đang đi đâu thế, Maggot? - Ross Wilcox đang đứng dưới gốc sồi cùng Gary Drake, Ant Little, Wayne Nashend và Darren Croome. Bọn chúng thích thấy tôi bỏ chạy, nhưng tôi không thể. Trái đất như nhỏ hẳn lại chỉ bằng một quả bong bóng rộng vài bước chân. — Về nhà - tôi nói. Wilcox khạc đờm: Mày kh...kh...không n...n...nói ch...ch...chuyện với bọn tao à? — Không, cảm ơn. — Mày sẽ chưa về cái nhà bẩn thỉu của mày ở khu Kingfisher Meadows dơ dáy đâu, đồ Maggot ma cô. Tôi để cho Ross Wilcox làm điều tiếp theo. Nó ghì chặt tôi bằng động tác của một võ sĩ đấu vật. Chiếc cặp Adidas bị giật khỏi tay tôi. Hét “Đó là cặp của tao!” chẳng có ý nghĩa gì, tất cả chúng tôi đều biết điều ấy. Điều quan trọng nhất là không được khóc. — Ria mày đâu rồi, Taylor? - Ant Little săm soi môi trên của tôi - Mày không còn tí lông tơ nào à? — Tao cạo đi. — “Tao cạo đi” - Gary Drake nhại tôi - làm thế để tạo ấn tượng với bọn tao à? — Đang có tin đồn thế này, Taylor - Ross Wilcox nói - Mày đã nghe chưa? Mày biết Jason Taylor không? — Kh...kh...không - Gary Drake trả lời - Nh...nh...nhưng t...t...tao th...th...theo một lần rồi. — Mày là thằng hề, Taylor - Ant Little nhổ bọt - một thằng hề nghiện ngập, bẩn thỉu! — Đi xem phim với bà già - Gary Drake nói - Mày không xứng đáng sống. Bọn tao sẽ treo cổ mày lên cây này. — Nào, nói gì đi - Ross Wilcox tiến lại gần hơn - Maggot. — Hơi thở này mùi kinh thật, Wilcox. — Cái gì? - Gương mặt Wilcox dúm lại - Cái gì? Tôi còn làm chính mình bị sốc. Nhưng chẳng còn đường rút - Nói thật, tao không cố lăng mạ mày. Nhưng hơi thở mày nồng nặc, như mùi túi đựng giăm-bông ấy. Chẳng đứa nào dám nói với mày vì bọn nó sợ mày. Nhưng mày cần đánh răng nhiều hơn hoặc nhai kẹo bạc hà vì nó thành kinh niên rồi. Wilcox để yên một lát. Hai cú tát liền làm hàm tôi như vỡ ra. — Ô, mày nói mày không sợ tao mà? Sự đau đớn giúp người ta tập trung hơn - Đó có thể là chứng thối mồm. Nếu đúng vậy, thầy thuốc ở Upton có thể cho mày dùng thứ gì đó. — Tao có thể đá vào mặt mày, thằng ngu không dái! — Ừ, bọn mày có thể làm thế, cả năm thằng bọn mày. — Vào chính cái mặt chó chết của mày! — Tao chẳng nghi ngờ điều ấy đâu. Nên nhớ là tao đã nhìn thấy mày đánh Grant Burch. Xe buýt của trường vẫn đậu cạnh làng Thiên nga đen. Đôi khi bác Norman Bates đưa Isaac Pye một cái bọc và Isaac Pye đưa cho ông ấy một cái phong bì màu nâu. Tôi không trông chờ sự giúp đỡ từ phía ấy. — Thằng-Maggot-nịnh-bợ-lai-tạp-này - cứ nói một từ là Ross Wilcox thụi một cú vào ngực tôi - cần-cú-giật-quần - một cú giật quần là lúc một bọn cầm quần lót của ta mà giật. Chân ta sẽ nhấc lên khỏi mặt đất, đũng quần giật ngược lên khe háng nên dái và hai hòn bi sẽ bị ép chặt. Giật quần chính là thứ tôi phải chịu. Nhưng trò giật quần chỉ vui nếu nạn nhân kêu la và cố gắng chống cự. Tôi tì người vào đầu Ant Little và cố gắng khống chế nó. Giật quần làm nạn nhân mất mặt nhiều hơn đau đớn. Bọn tấn công tôi vờ như thấy việc đó rất vui, song việc chúng làm thật vất vả và chẳng xứng công sức bỏ ra. Ross Wilcox và Wayne Nashend hết căng người tôi lên trên rồi lại kéo xuống. Quần tôi chỉ làm rát bỏng phần đũng chứ không xé người tôi ra làm đôi. Tôi bị ném xuống bãi cỏ sũng nước. — Như thế - Ross Wilcox hứa trong lúc hổn hển - mới chỉ là màn khởi động. — Maaaaaaagot - Gary Drake như thở ra màn sương quanh làng Thiên nga đen - Cặp mày đâu rồi? — Ê - Wayne Nashend sút vào đít tôi một phát khi tôi đứng dậy - nên tìm đi! Tôi như đi tập tễnh về phía Gary Drake, xương mông đau nhức nhối. Chiếc xe buýt của trường tăng tốc, các số kêu lịch kịch. Nở một nụ cười độc ác, Gary Drake đưa qua đưa lại chiếc cặp Adidas của tôi. Bây giờ tôi biết điều sắp xảy ra và ngay lập tức chạy vọt đi. Theo hình cánh cung hoàn hảo, chiếc cặp hạ cánh xuống nóc xe buýt. Chiếc xe xóc lên, chạy về phía đường cắt gần cửa hàng nhà ông Rhydd. Đổi hướng, tôi chạy vọt qua bãi cỏ dài ướt đẫm nước, trong lòng cầu nguyện chiếc cặp sẽ trượt và rơi khỏi xe. Những tiếng cười khằng khặc bám theo tôi, như những khẩu súng máy. Một chút may mắn đã đến với tôi. Một chiếc máy gặt đập liên hợp đã gây ra ùn tắc cho xe chạy từ hướng Malvern Wells. Tôi kịp chạy đến chiếc xe buýt của trường khi nó đang đứn