← Quay lại trang sách

Ông thợ mài dao

Mùa thu bị nấm, những quả mọng bẩn thỉu, các lá như han gỉ đi, những đàn chim bay đường dài hình chữ V bay qua bầu trời, đêm lạnh. Mùa thu gần như chết. Tôi còn chẳng nhận ra nó đang bị ốm.

— Con về rồi! - chiều nào tôi cũng hét lên như vậy, đề phòng ba hay mẹ từ Cheltenham hay Oxford (hoặc bất kỳ đâu) về sớm.

Nhưng chẳng bao giờ có câu trả lời.

Khi Julia đi, nhà tôi trống trải hơn. Cách đây hai tuần, chị ấy cùng mẹ đánh xe đi Edinburgh. (Julia đã đỗ kỳ thi lấy bằng lái xe, tất nhiên ngay lần đầu). Nửa cuối của mùa hè chị ấy ở cùng nhà Ewan ở Norfolk Broads, thế nên ai cũng nghĩ như thế tôi sẽ có thời gian làm quen với việc vắng chị gái. Nhưng đó không chỉ là nhớ sự hiện diện của một người trong nhà, mà là nhớ những câu Con sẽ về!, bàn chải đánh răng và mũ, áo khoác chưa-dùng-ngay-bây-giờ, là những thứ đồ của người đó. Không thể tin rằng tôi nhớ chị gái nhiều như vậy, nhưng tôi đã thế. Mẹ và Julia đi sớm vì Scotland cách nhà tôi một ngày chạy xe. Ba và tôi vẫy tay tạm biệt. Chiếc Datsun của mẹ rẽ ra Kingfisher Meadows và dừng lại. Julia nhảy ra, mở cốp, lục tìm thùng đựng đĩa hát rồi quay trở lại lối cho xe đi. Chị ấy nhét đĩa Abbey Road vào tay tôi - Trông cái này cho chị, Jace. Nếu chị mang đến các phòng lớn thì chỉ làm nó xước thôi - rồi chị ấy ôm tôi.

Tôi vẫn còn ngửi thấy mùi keo xịt tóc của Julia, ngay cả khi xe đã đi xa.

Chiếc nồi áp suất đặt trên bếp, tỏa ra mùi thịt hầm. (Mẹ đã cắm từ sáng nên nó hầm cả ngày). Tôi ăn một quả bưởi Quash và liều xơi chiếc bánh quy Penguin cuối cùng bởi trong hộp chẳng còn gì trừ bánh gừng và bánh xốp cam. Tôi lên gác để thay bộ đồng phục của trường. Đợi tôi trong phòng là thứ đầu tiên trong ba điều ngạc nhiên.

Một chiếc tivi được đặt ngay trên bàn tôi. Sáng nay nó còn chưa ở đó. TIVI ĐEN TRẮNG XÁCH TAY FURGESON, trên mác có ghi thế. SẢN XUẤT TẠI ANH. (Ba bảo nếu chúng ta không dùng hàng Anh, việc làm sẽ chạy hết sang châu Âu). Nước sơn mới tinh, mùi mới tinh. Một chiếc phong bì dùng trong văn phòng có ghi tên tôi dựng thẳng. (Ba viết tên tôi bằng bút chì 2H để có thể dùng lại chiếc phong bì đó). Bên trong là một tấm thẻ ghi hồ sơ, viết bằng mực Biro màu xanh.

Ba đã dò cả kênh cho tivi, thế nên con chỉ cần bật lên bằng phím ON.

Ba

>Tại sao? Tôi thấy thật hài lòng, chắc chắn vậy. Trong lớp 3KM chỉ có Clive Pike và Neal Brose có tivi trong phòng ngủ. Nhưng tại sao lại là bây giờ? Đến tận tháng giêng mới tới sinh nhật tôi. Ba chẳng bao giờ cho thứ gì mà không có lý do và không bao giờ bất ngờ. Tôi bật tivi lên, nằm trên giường xem Lính canh vũ trụ và Bắt hươu đực. Nằm trên giường xem tivi chẳng kỳ quặc nhưng ít ra vẫn có chút gì đó không bình thường, như kiểu ăn xúp đuôi bò trong lúc tắm.

Chiếc tivi làm dịu bớt nỗi lo về chuyện ở trường một chút. Hôm nay Dean ốm nên ghế ngồi cạnh chỗ của tôi trên xe buýt trống. Ross Wilcox ngồi vào đó, làm ra vẻ thân thiện để nhắc tôi biết rằng thực ra không thể. Wilcox khăng khăng bắt tôi lôi túi đựng bút ra.

— N...n...nào ch...cho b...b...bọn t...t...tao mượn th...th...thước đo góc đi T...T...Taylor, nói thật, t...t...tao cần l...l...làm b...b...bài t...t...tập t...t...toán v...v...về nh...nh...nhà. (Tôi không nói lắp tệ đến mức thế. Cô De Roo bảo tôi đang có nhiều tiến bộ thực sự). Có g...g...gọt b...b...bút ch...ch...chì không T...T...Taylor?

— Không - tôi vẫn nói thẳng thừng với vẻ chán chường - không - có một hôm nó đã cầm túi đựng bút của Floyd Chaceley và dốc hết mọi thứ ra sân trong phòng thể dục.

— Mày muốn nói gì, kh...kh...không? Mày làm gì khi b...b...bút ch...ch...chì mày t...tù...tù đ...đ...đi? - những câu hỏi tiếp những câu hỏi như kim châm, đó là Phương pháp Wilcox. Trả lời, rồi nó sẽ xuyên tạc câu trả lời để thấy rằng chỉ có thằng đần độn mới có thể nói điều ta vừa nói. Đừng trả lời, sẽ giống như ta chấp nhận để cho Ross Wilcox công kích - Th...thế đ...đ...đám c...c...con g...g...gái th...th...thấy bọn n...n...nói l...l...lắp h...h...hấp d...d...dẫn hả, T...T...Taylor? - Oswald Wyre và Ant Little cười kiểu chó rừng như thể chủ của chúng đã trở thành một tên côn đồ hài hước. Quyền lực của Wilcox là ta không nghĩ nó đang nói mà nó nói lên quan điểm của số đông - C...c...cá l...l...là đ...đ...điều ấy l...làm b...b...bọn n...n...nó ch...ch...chảy n...n...nước r...ra q...q...quần l...l...lót đ...đ...đấy!

Phía trên hai hàng ghế, Squelch đột nhiên nôn ra cả một thỏi kẹo Smarties mà nó cố gắng ngốn để được chơi một ván trên chiếc máy Xâm lược vũ trụ của Ant Little. Một bãi nôn nhiều màu chảy dọc lối đi cũng đủ làm cho Ross Wilcox phân tán. Tôi xuống xe ở Drugger’s End rồi vòng qua phía sau hội trường của làng, qua khu đất của nhà thờ, chỉ có một mình. Việc đó mất một ít thời gian, phía xa nhà thờ thánh Gabriel, mấy quả pháo hoa bắn quá sớm tạo thành những chiếc thìa bạc trên bầu trời xám không có hình thù rõ ràng. Chắc hẳn anh em nhà nào đó đã mua ở hàng nhà ông Rhydd. Tôi vẫn như bị đầu độc bởi Ross Wilcox đến mức không dám hái những quả mâm xôi mọng nước cuối cùng của năm 1982.

Phải chăng chính thứ thuốc độc đó làm hỏng món quà không thể tin nổi của ba? Chương trình Tin tức đó đây của John Craven đang nói về Mary Rose. Mary Rose là tàu đô đốc của vua Henry VIII bị chìm trong một cơn bão cách đây bốn thế kỷ. Gần đây nó được đưa lên mặt nước, cả nước Anh đang theo dõi. Nhưng những khối gỗ bẩn thỉu đầy bùn và tuôn nước ròng ròng được cần trục đưa lên trông chẳng có gì giống các thuyền chiến vẽ trong các bức tranh. Bây giờ người ta nói rằng lẽ ra nên tiêu tiền cho các giường bệnh thì tốt hơn.

Chuông cửa reo.

— Ngày lạnh buốt - một ông già đội mũ lưỡi trai bằng vải tuýt nói the thé - đến chết cóng vì không khí - ông già là điều ngạc nhiên thứ hai trong ngày. Bộ áo vét của ông chẳng có màu rõ ràng, mà để ý thì thấy ông ấy cũng chẳng có màu rõ ràng. Tôi đã dùng dây xích khóa cửa bởi ba bảo ngay cả làng Thiên nga đen cũng chẳng an toàn trước bọn điên và những tay trụy lạc. Cái dây xích khiến ông già buồn cười - Cậu cất giấu những đồ trang sức của hoàng gia trong kia phải không?

— Ơ..., không.

— Tôi sẽ không nạt nộ, hùng hổ và thổi bay nhà cậu đâu, cậu biết đấy. Mà dù sao bà chủ cũng có nhà chứ?

— Mẹ? Không. Mẹ đang làm việc ở Cheltenham.

— Thế thật tệ. Năm ngoái ta đã mài con dao sắc như dao cạo nhưng chẳng có gì nghi ngờ là bây giờ nó đã cùn lại rồi. Dao cùn là dao nguy hiểm nhất, cậu biết không? Bất kỳ bác sĩ nào cũng cho cậu biết như thế - giọng ông ta nghe như lướt qua và có vẻ đứt quãng - những lưỡi dao cùn rất dễ trượt. Bà ấy sẽ về sớm chứ?

— Phải đến 7 giờ.

— Tiếc quá, tiếc quá, không biết khi nào tôi mới qua đây lần nữa. Xem thế nào, cậu đem dao lại đây rồi tôi làm cho chúng sắc lẻm, đẹp đẽ trở lại, được không? Cho bà ấy ngạc nhiên. Tôi đã mang đá và dụng cụ đây rồi - ông ấy gõ vào cái túi đồ nghề lổn nhổn - không mất quá một giây. Mẹ cậu sẽ hài lòng. Bà ấy sẽ gọi cậu là đứa con trai ngoan nhất trong ba hạt[124].

Tôi rất ngờ về điều đó. Nhưng tôi lại không biết cách tống khứ những thợ mài dao. Một quy tắc nói là ta không được thô lỗ, chỉ đóng cửa trước mặt ông ấy cũng là thô lỗ rồi. Nhưng có một quy tắc khác là không được nói chuyện với người lạ, tôi lại đang vi phạm. Các quy tắc cần rõ ràng và dứt khoát chứ - Cháu chỉ có tiền tiêu vặt, cháu sẽ không đủ trả...

— Ngã giá với cậu, cậu bé của tôi. Tôi thích chàng trai trẻ kiên định thái độ của mình. “Thái độ tạo nên người đàn ông”. Mẹ cậu sẽ gọi cậu là một người mặc cả thông minh. Hãy nói trong con lợn đất của cậu có bao nhiêu, tôi sẽ nói tôi có thể mài bao nhiêu con dao với số tiền cậu có.

— Xin lỗi - chuyện này đang xấu đi - tốt nhất cháu phải hỏi mẹ trước.

Bề ngoài ông thợ mài dao có vẻ thân thiện - Đừng bao giờ phụ thuộc vào đàn bà. Dù sao rốt cuộc tôi sẽ xem liệu trong một hay hai ngày nữa tôi không thể qua đường này được. Trừ phi chủ nhân ở nhà, dù sao cũng thế chứ?

— Ba?

— Đúng, ba?

— Ba vắng nhà đến tận khuya - đợt này thì chẳng biết được. Ba hay gọi điện báo ở lại một khách sạn nào đó...

— Nếu ông ấy không thực sự lo lắng về lối xe đi - ông già nghiêng đầu và hít không khí - ông ấy cần phải lo. Có vẻ lớp nhựa đường bị nứt dữ lắm, tôi đoán từ đầu bọn vụng về đã rải đường. Đến mùa đông, nước mưa đóng băng bên trong sẽ làm nó nứt ra, đội lớp nhựa lên, hiểu chứ, rồi đến mùa xuân nó sẽ phá ra! Cần phải lột ra và rải lại đúng cách. Tôi và anh tôi làm việc ấy nhanh hơn...(Ông ấy búng ngón tay kêu to như trong phim Thất vọng). Cậu sẽ nói lại lời tôi với ba cậu chứ?

— OK.

— Hứa chứ?

— Cháu hứa. Cháu có thể lấy số điện thoại của ông.

— Điện thoại? Ta gọi chúng là đối thoại. Mặt đối mặt là cách duy nhất.

Ông thợ mài dao nhấc túi đồ nghề rồi đi ra lối dành cho xe - Nhớ nói với ba cậu! - ông ấy biết tôi vẫn nhìn theo - Một lời hứa là một lời hứa, bạn tốt!

“Ba mới hào phóng làm sao”, đó là điều mẹ nói khi tôi kể chuyện chiếc tivi. Nhưng kiểu mẹ nói có gì đó ớn lạnh. Khi tôi nghe tiếng chiếc Rover của ba về tới nhà, tôi ra tận ga-ra để cảm ơn ba. Nhưng thay vì hài lòng thì ba lại lẩm nhẩm vẻ bối rối, như là lấy làm tiếc vì điều gì đó - Ba mừng là nó hợp với yêu cầu của con, Jason - chỉ đến lúc mẹ múc món thịt hầm ra đĩa tôi mới nhớ tới chuyến thăm của ông thợ mài dao.

— Mài dao? - ba dùng nĩa đưa miếng sụn sang một bên - Đó là trò lừa đảo của bọn Digan, xưa lắm rồi. Ba ngạc nhiên là sao lão ta không chìa ra bộ bài bói, ở ngoài hiên kia, hoặc là tìm đồ đồng nát. Nếu lão ta quay lại, cứ đóng sập cửa trước mặt lão, Jason. Không bao giờ khuyến khích bọn người này, bọn chúng còn tệ hơn những nhân chứng của Jehova.

— Ông ấy bảo ông ấy có thể - bây giờ tôi thấy tội lỗi vì đã hứa - trở lại và nói chuyện về lối xe đi.

— Nói gì về lối xe đi?

— Cần rải nhựa lại, ông ấy bảo thế.

Gương mặt ba như nổi giông tố - Và điều lão ta nói khiến chuyện ấy thành sự thật, phải không?

— Michael - mẹ nói - Jason chỉ thuật lại cuộc nói chuyện thôi mà.

Sụn bê có vị như đờm dãi nằm sâu trong cổ. Người Digan thực sự duy nhất mà tôi biết là một đứa trầm lặng trong lớp cô Throckmorton. Bây giờ tên nó bay đâu mất. Chắc chắn thằng đó phải trốn học hầu hết mọi ngày bởi cái bàn trống của nó là trò bàn tán của bọn trong trường. Nó mặc áo khoác đen chứ không phải màu xanh, áo sơ-mi xám thay cho áo trắng nhưng cô Throckmorton chưa lần nào phạt nó vì chuyện ấy. Thường thì một chiếc xe tải Bedford thả nó xuống cổng trường. Trong trí nhớ của tôi, cái xe tải Bedford đó phải to bằng cả trường. Thằng học sinh Digan đó nhảy từ cabin xuống. Bố nó trông như đô vật Haystack, những hình xăm cuộn quanh cánh tay. Những hình xăm này và cái nhìn của ông ta quét quanh sân chơi đảm bảo chắc chắn rằng không có đứa nào kể cả Pete Redmarley hay Pluto Noak nghĩ tới việc bắt nạt thằng nhỏ. Về phần thằng Digan, nó ngồi dưới gốc tuyết tùng và phát đi những tín hiệu khó chịu. Nó chẳng quan tâm gì đến trò ném ống bơ hay lội bùn. Một lần nó ở trường tham gia trận bóng run-đơ, làm một cú khiến quả bóng bay thẳng qua hàng rào vào khu đất của nhà thờ. Sau đó nó chỉ đi loanh quanh các vị trí, hai tay đút túi. Cô Throckmorton phải giao cho nó ghi điểm bởi chúng tôi hết bóng runder. Nhưng đến lúc chúng tôi nhìn bảng điểm thì nó đã đi mất.

Tôi nhỏ ít nước sốt lên chỗ thịt hầm của mình - Digan là ai hả ba?

— Con muốn nói gì?

— Dạ...ban đầu họ sống ở đâu?

— Thế con nghĩ từ “Digan” từ đâu tới? Người Ai Cập?

— Vậy Digan là người châu Phi?

— Không, không phải bây giờ. Họ di cư từ nhiều thế kỷ trước.

— Sao người ta không thích họ?

— Tại sao những công dân đứng đắn phải thích những kẻ lang thang vô công rồi nghề, chẳng đóng góp gì cho nhà nước và coi thường mọi quy định về kế hoạch?

— Em nghĩ - mẹ rắc hạt tiêu - đó là đánh giá hơi ác nghiệt, Michael.

— Em sẽ không đánh giá như vậy nếu em chưa gặp họ, Helena.

— Năm ngoái ông thợ mài dao đã mài dao với kéo sắc lắm.

— Đừng có nói với anh - chiếc nĩa của ba dừng lại trong không khí - rằng em biết người đàn ông đó.

— Tháng 10 năm nào cũng có một ông thợ mài dao tới làng Thiên nga đen, từ nhiều năm rồi. Chưa nhìn thấy nên em không thể chắc có phải người đó không, nhưng em nghĩ có thể chính là ông ấy.

— Thực tế em đã cho tiền lão ăn mày đó?

— Anh có làm việc không công, Michael?

(Những câu hỏi không chỉ là câu hỏi, chúng còn là những viên đạn).

Chiếc nĩa kêu keng khi ba đặt xuống - Em vẫn ỉm...việc này đi suốt cả một năm?

— “Ỉm đi”? - mẹ như hừ một tiếng trong lòng chứng tỏ rất sốc - Anh cáo buộc em “ỉm đi”? (Điều này làm ruột gan tôi quặn lại. Ba nhìn nhanh mẹ ra hiệu Không nói trước mặt Jason. Điều ấy làm ruột gan tôi quặn lại và cuộn lên). Chẳng có gì nghi ngờ là em không muốn những việc nội trợ nhỏ nhặt chen ngang một ngày làm quản lý của em.

— Thế thì - ba vẫn không lùi bước - gã lang thang này cướp của em mất bao nhiêu?

— Ông ấy đòi một bảng và em trả. Để mài cho sắc tất cả số dao trong nhà, và ông ta làm rất tốt. Một bảng, chỉ đắt hơn một xu so với một trong những cái bánh pizza đông cứng của Greenland nhà anh.

— Anh không thể tin là em lại mắc lừa vì cái kịch bản xưa cũ của lão Digan đi xe ngựa săn cáo. Vì Chúa, Helena, nếu em cần một cái mài dao thì hãy mua ở hàng bán đồ sắt. Digan là bọn lười biếng, và nếu em đã hé cho chúng một inch thì cả đàn đống nhà chúng sẽ mở đường kéo đến nhà em tới tận năm 2000. Hôm nay là dao, những quả cầu thạch anh, nhựa đường, mai sẽ là tháo đồ xe, trộm đồ ở kho trong vườn, bán đồ ăn cắp được.

Trong những ngày này, những vụ cãi lộn của ba mẹ là những ván cờ nhanh.

Tôi kết thúc - Con xuống nhà được không ạ?

Hôm nay là thứ năm nên tôi xem Những danh ca nhạc pop hàng đầu và Thế giới ngày mai tại phòng mình. Tôi nghe tiếng tủ bát đĩa dưới bếp đóng sầm. Tôi cho vào đài một băng cát-xét mà Julia đã ghi cho tôi từ các đĩa dung lượng lớn của Ewan. Bài đầu tiên là Lời (Giữa những thời đại) của Neil Young. Tiếng Neil Young hát chẳng khác nào bò rống nhưng nhạc thì tuyệt. Một bài thơ có tiêu đề “Maggot” nói về việc tại sao những đứa trẻ bị bắt nạt bắt đầu vang lên loạn xạ trong đầu tôi. Thơ là những thấu kính, những tấm gương và những máy X-quang. Tôi nguệch ngoạc một chút (nếu ta vờ không tìm kiếm ngôn từ thì chúng sẽ từ các bụi cây chui ra), nhưng chiếc Biro hết mực nên tôi kéo khóa túi đựng bút và lấy ra cái mới.

Trong đó có sự ngạc nhiên thứ ba đang đợi tôi.

Đó là cái đầu của một con chuột chết bị cắt rời.

Những chiếc răng bé xíu, đôi mắt nhắm nghiền, bộ ria kiểu Beatrix Potter, lông màu mù tạt Pháp, máu màu nâu hạt dẻ, cục xương sống nhỏ. Có mùi thuốc nhuộm, giăm bông hộp và vỏ bút chì bào ra.

Nào, hẳn bọn nó nói thế. Cho nó vào đựng bút của Taylor. Thế sẽ buồn cười lắm đấy. Cái này hẳn xuất phát từ tiết giải phẫu trong môn sinh học của thầy Whitlock. Thầy Whitlock dọa đuổi bất kỳ đứa nào lấy bộ phận của chuột nhưng sau khi uống hết một bình cà phê đặc biệt, thầy chếnh choáng và bất cẩn.

Nào, Taylor, lấy túi đựng bút mày ra. Chắc chính tay Ross Wilcox nhét cái này vào. Dawn Madden cũng phải biết chuyện này rồi. L...l...lấy t...t...túi đ...đ...đựng b...b...bút c...c...của m...m...mày r...r...ra (hai con ngươi của Ross Wilcox hấp háy),< T...T...Ta...T-T-T...Tay...l...l...lor.

>Tôi lấy một đoạn giấy vệ sinh để bọc cái đầu. Dưới nhà ba đang ngồi trên ghế sô-pha đọc báo Thư tín hàng ngày. Mẹ đang tính toán sổ sách ở chiếc bàn trong bếp - Con đi đâu thế?

— Con ra ga-ra, chơi trò phi tiêu.

— Con cầm mẩu giấy có gì thê?

— Chẳng có gì, chỉ xì mũi thôi - tôi nhét tọt nó vào túi quần jeans. Mẹ định đòi kiểm tra nhưng ơn Chúa, mẹ lại đổi ý. Lẩn vào bóng tối, tôi đi ra hòn non bộ rồi ném cái đầu chuột ra khu đất nhà thờ. Kiến và chồn sẽ ăn cái đầu ấy, tôi đoán thế.

Bọn ấy chắc hẳn ghét tôi.

Sau một ván chơi theo chiều kim đồng hồ, tôi cất phi tiêu và trở vào nhà. Ba đang xem cuộc tranh luận về việc liệu Anh có nên đặt các tên lửa hành trình của Mỹ trên đất của mình. Bà Thatcher bảo có nên để chuyện ấy xảy ra. Kể từ cuộc chiến ở quần đảo Falklands, chẳng ai có thể bảo bà ấy nói không. Chuông cửa reo, một điều kỳ lạ trong buổi tối tháng 10. Chắc chắn ba nghĩ ông già Digan đã quay lại - ba sẽ xử lý vụ này - ba thông báo rồi gập mạnh tờ báo. Mẹ thở nhẹ “phù” vẻ ghê tởm. Tôi chuồn vào vị trí quan sát ở đầu cầu thang kịp lúc ba gỡ dây xích ở cửa.

— Tên tôi là Samuel Swinyard. (Bố của Gilbert Swinyard). Trang trại của tôi ở Drugger’s End. Có thể dành cho tôi một hai phút không?

— Chắc chắn rồi. Trước đây tôi thường mua cây thông Noel của anh mà. Tôi là Michael Taylor, tôi có thể làm gì cho anh, anh Swinyard?

— Xem này, tôi đang thu thập chữ ký cho một bản kiến nghị. Có thể anh chưa biết điều này nhưng Hội đồng Malvern đang có kế hoạch xây một khu cho người Digan ngay ở đây, ở làng Thiên nga đen này. Không phải tạm thời đâu, lâu dài đấy.

— Thế này là tin không ổn rồi. Chuyện này được thông báo khi nào?

— Chính xác đấy, Michael. Chẳng bao giờ được thông báo hết! Bọn họ toàn có làm vụng làm trộm, thế nên chẳng ai biết được cho tới khi mọi thứ xong xuôi và mốc cả lên! Họ dự định đặt khu trại ấy ở Hakes Lane, gần lò đốt rác. Ôi, bọn đó thật quỷ quyệt, cái Hội đồng Malvern ấy. Bọn ấy không thích có bọn Digan ở sân sau nhà mình, không cần được “cảm ơn rất nhiều”. Bốn mươi chiếc xe có toa kéo, bọn họ đã đánh dấu đất cho bằng ấy xe. Bốn mươi chiếc, họ nói vậy, nhưng một khi khu ấy xây xong thì có cả vài trăm chiếc, khi chúng đưa thêm họ hàng cùng bọn theo đuôi. Nó sẽ biến thành một cái Calcutta[125] đúng nghĩa. Chờ mà xem.

— Tôi ký ở đâu đây? - ba cầm lấy cái bìa kẹp hồ sơ và nguệch ngoạc tên mình - Thực ra có một trong số những tay Digan này...một thằng cha thật khó chịu...đã gọi cửa nhà này lúc chiều nay. Lúc khoảng 4 giờ, khi các bà nội trợ và lũ nhóc có nhiều khả năng ở nhà nhất và thiếu sự bảo vệ.

— Đừng hòng làm tôi ngạc nhiên tí ti nào. Bọn chúng lượn lờ ở vườn Wellington nữa. Các căn nhà cũ có nhiều thứ cũ có giá hơn để tháo gỡ, anh thấy đấy, bọn chúng cho là thế. Nhưng nếu vụ cái trại này được xúc tiến, ngày nào cũng sẽ tệ hơn thế! Và khi chuyện kiếm đồ đồng nát không còn mang lại tiền cho bọn Digan, bọn chúng sẽ thử những cách thức trực tiếp hơn để đặt tay lên số bạc của chúng ta, nếu anh hiểu ý tôi nói.

— Tôi hy vọng - ba trả lại bìa kẹp hồ sơ - anh sẽ nhận được phản ứng tích cực với những nỗ lực của mình, Sam?

— Nếu anh hỏi tôi thì tôi cho biết luôn, chỉ có ba lời từ chối từ ba kẻ nửa Digan. Cha sở bảo ông ta không thể dính vào chính trị thiên vị nhưng bà vợ thúc cho ông ta một cú đủ nhanh để chặn lại rồi nói rằng bà ta không phải mục sư gì. Những người khác đều nhanh chóng ký tên như anh, Michael. Thứ tư sẽ có một cuộc họp khẩn cấp ở hội trường làng để bàn cách tốt nhất bác bỏ bọn ngu trong Hội đồng Malvern. Tôi hy vọng anh có thể tới đó chứ?

Ước gì tôi đã nói có. Ước gì tôi đã nói: “Đây là tiền tiêu vặt của cháu, làm ơn mài bất cứ thứ gì ông có thể, ngay bây giờ”. Ông thợ mài dao sẽ lấy đồ nghề ra, ở đó, trên bậc cửa nhà tôi. Những cái giũa kim loại, đá, (cái gì nhỉ?) bánh đà bằng đá cứng của ông ấy. Khom người lại, gương mặt của ông bừng lên và nhăn lại như một con quỷ, đôi mắt cháy rực đầy nguy hiểm. Một vuốt làm cho bánh đã quay, nhanh hơn, mờ dần, vuốt còn lại cầm lưỡi dao cùn đưa lại gần hơn, từ từ, gần hơn, cho đến khi đá chạm vào lưỡi thép và cái lưỡi cưa tròn bắn ra những mạt kim loại sáng xanh và rơi vào bóng tối lắc rắc mưa. Tôi sẽ ngửi thấy mùi kim loại nóng, sẽ nghe thấy tiếng nó rít lên và trở nên sắc hơn. Lần lượt từng chiếc, ông ấy sẽ xử lý hết những con dao đã cùn, những lưỡi dao cũ sẽ trở nên mới hơn cả những lưỡi dao mới, ác chiến hơn con dao Bowie của bác Norman Bates và đủ sắc để xuyên qua các cơ, xương, xuyên qua thời gian, sự sợ hãi, xuyên qua Những đứa chắc hẳn ghét tôi. Đủ sắc để cắt Những gì chúng sẽ làm với tôi ngày mai? thành những lát mỏng như bánh xốp.

Chúa ơi, tôi ước mình đã nói có.

Bị nhìn thấy đi với ba hoặc mẹ nơi công cộng cực kỳ đáng sợ. Nhưng hôm nay, hàng đống trẻ con đi cùng cha mẹ tới hội trường làng nên luật này không có hiệu lực. Những cửa sổ của hội trường ở làng Thiên nga đen (xây năm 1952) nhấp nháy màu sáng vàng như bơ. Nó chỉ cách Kingfisher Meadows ba phút đi bộ, nằm ngay cạnh lớp của cô Throckmorton. Ngày đó trường tiểu học có vẻ rất to lớn. Làm sao ta có thể chắc chắn thứ gì đó có lúc lớn đúng bằng kích thước thực của nó?

Hội trường có mùi thuốc lá, sáp, bụi, xúp-lơ và sơn. Nếu ông bà Woolmere không dành cho hai ghế phía trước thì ba với tôi đã phải ngồi phía sau. Lần gần đây nhất, hội trường đông thế này là một đêm diễn kịch về chuyện Chúa ra đời, nhân dịp Giáng sinh, khi đó tôi đóng vai một thằng nhóc nhếch nhác ở Bethlehem. Mắt của các khán giả phản chiếu ánh sáng trên sân khấu trông như mắt mèo. Gã treo cổ làm tôi phải bỏ qua vài đoạn thoại chính, khiến cô Throckmorton rất giận dữ. Nhưng tôi chơi đàn mộc cầm rất tuyệt và hát cũng ổn đoạn: “Trắng hay đen hay vàng hay đỏ, hãy đến xem Giê-su trong ổ của người”. Khi hát tôi không bị lắp. Hồi đó Julia kẹp răng như nhân vật Jaw trong phim Tên gián điệp yêu tôi. Chị ấy bảo tôi có năng khiếu. Điều đó không phải là sự thực nhưng Julia thật tốt, khiến tôi không bao giờ quên điều đó.

Đêm nay, những người có mặt ở đây rất kích động, như thể sắp nổ ra một cuộc chiến. Khói thuốc làm mờ hết mọi đường nét. Ông Yew có mặt ở đây, rồi mẹ của Colette Turbot, ông bà Rhydd, bố mẹ Leon Cutler, ông bố Ant Little làm nghề nướng và bán bánh mì (luôn hục hặc với các nhân viên y tế). Tất cả đều ba hoa ầm ĩ để tiếng của mình át đi những tiếng ba hoa ầm ĩ khác. Bố của Grant Burch đang nói về chuyện dân Digan ăn cắp chó để đánh nhau và ăn sạch các bằng chứng. “Chuyện ấy xảy ra ở Anglesey!”, mẹ Andrea Bozard đồng ý, “Chuyện ấy sẽ xảy ra ở đây!”. Ross Wilcox ngồi giữa ông bố làm thợ cơ khí và bà mẹ kế mới của nó. Bố nó là bản sao to hơn, xương xẩu hơn, có mắt đỏ hơn so với thằng con. Mẹ kế của Wilcox không thể ngừng hắt hơi. Tôi cố gắng không nhìn họ, nhưng tôi không thể làm được. Trên sân khấu là bố Gilbert Swinyard cùng bà Gwendolins Bendincks - vợ cha sở và ông giáo viên trại giáo dưỡng Kit Harris - người sống ở lối dành cho ngựa cùng lũ chó của mình. (Sẽ chẳng có ai bắt trộm chó của ông ấy). Trên mái tóc đen của Kit Harris có một vệt trắng nên cả bọn trẻ con gọi ông ta là “Con lửng”. Ông láng giềng Castle nhà chúng tôi từ cánh gà bước ra để ngồi vào chiếc ghế cuối cùng. Ông ấy gật đầu với ba và ông Woolmere với vẻ của một người anh hùng. Ba và ông Woolmere gật đầu trả lời. Ông Woolmere thì thầm với ba “không mất nhiều thời gian thuyết phục ông già Gerry tham gia hành động...”. Trên khung sân khấu dán một đoạn giấy ghi ỦY BAN GIẢI QUYẾT KHỦNG HOẢNG KHU TRẠI CỦA LÀNG. Một vài chữ đỏ như máu, những chữ còn lại màu đen.

Ông Castle đứng lên và những người im lặng bắt đầu suỵt những kẻ ba hoa. Năm ngoái tôi, Dean Moran, Robin South đá bóng, Dean Moran sút quả bóng vào vườn nhà ông Castle. Khi nó đến xin quả bóng, ông ấy bảo quả bóng đã làm gãy một cây hồng lai trị giá 35 bảng, ông ấy sẽ không trả lại bóng cho Moran tới khi bọn tôi trả tiền - điều không bao giờ xảy ra bởi khi 13 tuổi, ta chẳng thể nào có được 35 bảng.

— Thưa các quý ông, quý bà, những người sống ở làng Thiên nga đen. Việc các vị dũng cảm có mặt ở đây trong buổi tối rét mướt này tự nó đã thể hiện sự mạnh mẽ trong cảm giác của cộng đồng chúng ta đối với hội đồng được bầu ra - hội đồng đáng hổ thẹn nhưng không biết xấu hổ - về các nỗ lực nhằm thực hiện các quy định của Luật năm 1968 đối với khu vực cho người hành hương bằng cách biến làng - ngôi nhà chung của tất cả chúng ta - thành đống rác của những kẻ gọi là “người hành hương”, “Digan”, “gíp- xi” hay bất kỳ cái tên “tự do” nào. Việc không một thành viên hội đồng nào có mặt trong buổi tối hôm nay còn kém cả sự thú nhận (Isaac Pye - kẻ cầm đầu làng Thiên nga đen - nói to: “Vì chúng ta đã tống cổ bọn khốn ra khỏi làng chứ sao!”. Ông Castle cười như một ông bác kiên nhẫn cho tới khi những tiếng cười nhỏ đi), sự thú nhận về sự hèn nhát, hai mặt và yếu kém của họ trong việc này. (Tiếng vỗ tay, rồi ông Woolmere hét lên: “Nói hay quá, Gerry!”). Trước khi chúng ta bắt đầu, xin chào mừng ông Hughes từ báo Malvern Gazeeter (một người đàn ông ở hàng ghế đầu cầm một tập giấy gật đầu) vì đã đưa chúng ta vào chương trình làm việc bận bịu của ông ấy. Chúng ta tin tưởng bài viết của ông về sự phẫn nộ mà những tên tội phạm trong Hội đồng Malvern đang gây ra sẽ thể hiện tiếng tăm về sự thẳng thắn và không thiên vị của báo chí. (Cái này nghe giống một lời đe dọa hơn lời chào mừng). Còn bây giờ, những kẻ biện minh cho bọn Digan chắc chắn là những kẻ ăn không ngồi rồi. “Có gì mà các vị chống lại họ?” Tôi hỏi: “Các vị có nhiều thời gian không? Lang thang. Trộm cắp. Vệ sinh. Bệnh lao...” - Tôi không nhớ ông Castle nói gì tiếp, bởi trong đầu nghĩ những người trong làng muốn bọn Digan thô tục thế nào, để những gì họ không thể hiện làm khuôn mẫu cho những người trong làng.

— Không ai phủ nhận việc người Digan cần một chỗ ở cố định - hai tay Gwendolin Bendincks đặt lên tim mình - người Digan cũng là những người cha, người mẹ giống chúng ta. Họ cũng muốn có điều mà họ tin là tốt nhất cho con cái mình, cũng giống chúng ta. Có trời mới biết tôi không có định kiến đối với bất kỳ nhóm người nào, dù họ có màu da hay tín ngưỡng nào, và tôi chắc chắn chẳng có ai trong hội trường này biết điều ấy. Tất cả chúng ta là người theo đạo Thiên chúa. Thực sự nếu không có một chỗ ở lâu dài, làm sao người Digan được dạy về những trách nhiệm của việc họ là công dân? Có cách nào khác để dạy họ rằng luật pháp và trật tự sẽ đảm bảo cho con cái họ một tương lai tươi sáng hơn việc ăn xin, buôn ngựa hay phạm những tội lặt vặt, hoặc đơn giản là ăn nhím Âu không phải việc làm văn minh? - Một khoảng lặng đáng chú ý. (Tôi nghĩ về kiểu những vị lãnh đạo cảm nhận được nỗi sợ hãi của người dân và biến chúng thành cung, tên, súng, đạn, vũ khí hạt nhân để sử dụng tùy ý. Đó là quyền lực) - Nhưng tại sao những người có quyền lực lại nghĩ làng Thiên nga đen là một nơi thích hợp cho “dự án” của họ? Làng của chúng ta ổn định, dễ chịu! Một lũ người từ bên ngoài, những người mà chúng ta gọi là “các gia đình có vấn đề” tràn vào trường học và cơ sở y tế của chúng ta sẽ làm chúng ta hỗn loạn. Tội nghiệp! Vô chính phủ! Không, một địa điểm lâu dài cần gần một thành phố lớn để dồn toàn bộ chúng vào, một thành phố có hạ tầng tốt. Worcester hoặc tốt hơn là Birmingham! Thông điệp chúng ta gửi tới Hội đồng Malvern có tính thống nhất và mạnh mẽ. “Đừng đẩy trách nhiệm của các vị sang chúng tôi. Chúng tôi có thể là người nông thôn, nhưng chúng tôi không phải bọn quê mùa mà các vị có thể dề dàng bịt mắt!” - Gwendolin Bendincks cười với những tràng vỗ tay dành cho bài phát biểu của mình như một người đang gặp lạnh cười trước một đống lửa.

— Tôi là một người kiên nhẫn - hai chân của ông Samuel Swinyard dạng ra - kiên nhẫn và khoan dung. Tôi là một nông dân, tôi tự hào vì điều ấy, và nông dân không phải những người lo lắng về những chuyện không đâu. (Đột nhiên những tiếng thì thầm vui vẻ vang lên). Tôi không nói rằng tôi phản đối một khu lâu dài cho người Digan chỉ vì họ là người Digan thực sự. Trước đây vào mùa thu hoạch, ông cụ Abe nhà tôi thường thuê một số người Digan đúng nghĩa. Khi họ chú tâm vào việc gì, họ trở thành những công nhân chăm chỉ thực sự. Đen như người da đen, răng khỏe như răng ngựa, kể từ khi lụt lội, những người này tập trung tránh rét ở Chilterns. Chúng tôi phải để mắt tới họ bởi họ có thể rất láu cá và quỷ quyệt. Như hồi chiến tranh, tất cả họ đều ăn mặc như đàn bà hoặc trốn tới Ireland để khỏi phải nhập ngũ đi chiến đấu ở Normandy. Nhưng ít ra với những người Digan thực sự, ta biết họ như thế nào và ta đứng ở đâu. Nhưng hôm nay, lý do tôi đứng trên sân khấu là: hầu hết những kẻ nay đây mai đó tự nhận là người Digan thực ra là những bọn cơ hội, những kẻ phá sản, những tay tội phạm; chúng không biết thế nào là một người Digan thực sự cho đến lúc bị một người đâm vào (Isaac Pye hét: “Đít, Sam, đít!” và một tràng cười to phọt ra ở phía sau hội trường) mũi, Isaac Pye, vào mũi! Bọn hip-pi[126] và dân lang thang tự gán cho mình cái mác “Digan” để được nhận đồ bố thí! Những kẻ thiếu giáo dục đi ăn cắp tiền “An sinh xã hội”. Bây giờ, chúng cần những khu ở có hố xí tự hoại và tất cả mọi thứ. Những quan chức an sinh xã hội chạy quanh theo ý muốn của chúng. Tại sao tôi không tự gọi mình là một tay Digan rồi hưởng tất cả những thứ đó miễn phí nhỉ? Chẳng phải làm việc để kiếm sống! Vì nếu tôi muốn...

Chuông báo cháy kêu inh ỏi.

Samuel Swinyard cau mày khó chịu. Không sợ bởi chẳng có vẻ gì là chuông báo cháy thực, chỉ là luyện tập chữa cháy. Tuần trước trường tôi đã có một buổi tập. Bọn tôi phải rời tiết học tiếng Pháp một cách có trật tự, xếp thành hàng ở sân chơi. Thầy Whitlock chạy huỳnh huỵch xung quanh và hét: “Cháy thành bánh mì hết! Nhiều cô cậu bị thế! Bánh mì! Tàn tật suốt đời!”. Thầy Carver thì lấy tay bắc loa và hét: “Ít ra thì Nicholas Briar sẽ không còn một mình nữa!”.

Nhưng chuông báo cháy ở hội trường làng cứ kêu liên hồi.

Những người ngồi quanh chúng tôi bắt đầu nói: “Lố lăng!” và: “Không có nhà thông thái Einstein nào tắt cái quái quỷ đi à?”. Gwendolin Bendincks nói gì đó với ông Castle, làm ông ấy che tai để nói Cái gì? Gwendolin nhắc lại câu cũ. Cái gì? Rồi một vài người đứng dậy và nhìn quanh vẻ lo lắng.

Phía sau có năm chục tiếng hô bật lên: “Cháy!”

Ngay lập tức hội trường làng biến thành một cái thùng chứa sự hoảng loạn bị đổ.

Những tiếng kêu la, tiếng hét thất thanh nổ ra phía trên đầu chúng tôi. Ghế bật và bay tứ tung. “Bọn Digan đã tới và phóng hoả đốt chỗ này!”. Rồi đèn tắt. Trong bóng tối đáng sợ, ba kéo tôi vào sát người ba (cái khóa ở áo khoác của ba móc vào mũi tôi) như thể tôi là một đứa bé. Chúng tôi cứ đứng đó, ngay giữa hàng ghế. Tôi có thể ngửi thấy thuốc khử mùi dưới cánh tay ba. Một chiếc giầy bộp vào cẳng chân tôi, rồi ánh đèn cấp cứu nhấp nháy xuất hiện. Qua ánh đèn chớp, tôi nhìn thấy bà Rhydd đang dùng búa gõ vào lối thoát hiểm: “Bị khóa rồi! Cái cửa chết tiệt bị khóa!”. Bố của Wilcox đang chồm chồm đẩy người ta ra khỏi đường ông đi: “Phá cửa sổ đi! Phá cửa sổ đi!”. Chỉ có Kit Harris là bình thản, ông ấy thưởng ngoạn đám lộn xộn như thể một ấn sĩ thưởng thức cảnh rừng yên lặng. Mẹ Colette Turbot hét lên khi chuỗi ngọc trai to kỳ lạ bị đứt ra và bị giẫm đạp dưới mấy trăm bàn chân: “Các vị đang đè vào tay tôi kìa!”. Những bức tường người đổ tới đổ lui, dồn bên nọ lắc bên kia. Một đám đông không có người chỉ đạo là con vật nguy hiểm nhất.

— Ổn thôi, Jason! - ba ôm chặt đến mức tôi không thở nổi - Ba có con đây rồi!

Chỗ ở của Dean Moran thực tế là hai căn nhà tranh nghiêng ngả bị kéo cho đổ vào nhau, nó có từ rất lâu rồi vì nhà vệ sinh nằm ở ngoài. Đái ra cánh đồng gần cửa vẫn sạch hơn nên tôi thường làm thế. Hôm nay tôi xuống xe buýt ở Drugger’s End cùng Dean bởi tôi muốn chơi điện tử trên màn hình Sinclair ZX Spectrum 16k của nó. Nhưng sáng hôm đó, bà chị Kelly của Dean đã dùng máy ghi băng nên bọn tôi chẳng chơi được trò nào. Kelly làm kẹo Pick ‘n’ Mix chỗ ông phó giám đốc Woolsworths ở Malvern, và cái gì Kelly đã dùng thì chẳng thể nào nguyên như cũ được. Thế nên Dean gợi ý bọn tôi chỉnh sửa trò chơi Giải phẫu trong phòng của nó. Tường phòng ngủ của Dean dán các áp phích của đội bóng West Bromwich Albion. West Bromwich luôn bị xuống hạng nhưng Dean và bố nó luôn ủng hộ. Giải phẫu là trò ta lấy các xương ra khỏi người của bệnh nhân, nếu để các nhíp chạm vào rìa, cái còi ở mũi của nó sẽ kêu và ta không thu được tiền mổ. Chúng tôi cố tìm cách chỉnh sửa Giải phẫu bằng một cối pin lớn để nếu đứa nào chạm vào rìa, đứa đó sẽ bị điện giật. Chúng tôi vĩnh viễn kết liễu Giải phẫu và bệnh nhân, nhưng Dean bảo nó chán trò này từ đời nào rồi. Ra ngoài trời, bọn tôi làm một sân gôn dở hơi bằng những tấm ván, ống nước và móng ngựa lấy từ vườn cây ăn quả tồi tàn giáp vườn nhà Dean. Những chiếc nấm độc có mũ nhăn đâm ra từ những mẩu cây thối mục. Từ mái nhà vệ sinh ngoài trời, một con mèo xám chăm chú theo dõi bọn tôi. Chúng tôi tìm được hai cây gậy nhưng chẳng thấy quả bóng nào dù đã lục đến cả kho chứa đồ. Bọn tôi tìm thấy một cái khung cửi gãy và khung của một cái xe đạp - Mày nghĩ - Dean gợi ý - bọn mình xem cái giếng nhà tao thì thế nào?

Trên mặt giếng đậy một cái nắp thùng rác được chèn một chồng gạch để em gái Dean là Maxine khỏi ngã vào. Bọn tôi lần lượt dỡ từng viên gạch ra - Vào đêm không trăng, không gió, mày có thể nghe thấy tiếng của một đứa con gái chết đuối dưới giếng.

— Ừ, chắc chắn là mày nghe thấy rồi, Dean.

— Thề trên mộ của bà tao đấy! Có một đứa con gái nhỏ chết đuối dưới cái giếng này. Cái váy lót dài kéo nó xuống trước khi người ta kịp cứu.

Thế này thì quá chi tiết, không thể là chuyện vớ vẩn được - Hồi nào?

Dean ném viên gạch cuối cùng ra - Thời xưa.

Bọn tôi nhìn xuống. Hai cái đầu của chúng tôi nằm dưới tấm gương không một chút rung rinh, vẻ im lặng của một nấm mồ, lại lạnh lẽo nữa.

— Giếng này sâu bao nhiêu?

— Không biết - cái giếng như kéo những lời nói xuống phía dưới rồi đẩy ngược trở lại thành những tiếng vọng - một lần tao và Kelly đã buộc hòn chì lưới vào một sợi dây và thả xuống, sau khi hết 50 mét dây nó vẫn còn xuống tiếp.

Chỉ nghĩ đến việc rơi xuống đã khiến tôi sợ cứng người.

Bóng tối ấm ướt của tháng 10 bao lấy cái giếng.

— Mẹ! - tiếng nói của một đứa bé con làm bọn tôi chạy túa ra - Con không biết bơi. Chết đuối. Con chết đuối.

Ông Moran mắc chứng cuồng loạn.

— Bố! - Dean rên rỉ.

— Xin lỗi các chàng trai, tôi không thể chịu nổi! - ông Moran lau mắt - Tôi ra ngoài trồng thủy tiên cho năm sau thì nghe hai cậu đang nói chuyện, tôi không thể kìm được!

— Hừm, con không ước - Dean đậy cái nắp lại - là bố đã nghe thấy.

Bố Dean làm một bàn bóng bàn bằng cách dựng đứng những gáy sách quanh bàn ăn. Vợt đánh bóng của bọn tôi là những quyển sách của nhà xuất bản Ladybird. (Của tôi là cuốn Con yêu tinh và người thợ đóng giày, còn của Dean là Rumpelstiltskin[127]). Chắc chắn bọn tôi phải trông chừng những kẻ phá ngang, đặc biệt là ông Dean - người vừa chơi vừa cầm một lon nước có ga Benylin của hãng Dr. Pepper. Nhưng thật vui, vui hơn cả cái tivi xách tay của tôi, hơn bất cứ ngày nào khác. Em gái Maxine của Dean ghi điểm (cả nhà gọi nó là Mini Max). Chúng tôi luôn là người chiến thắng. Mẹ Dean làm ở nhà dưỡng lão trên đường Malvern đã về. Bà ấy chỉ nhìn chúng tôi một lần rồi bảo “Frank Moran”, sau đó nhóm bếp và mùi lạc rang bay ra. Ba tôi bảo đốt lửa thật ầm ĩ, nhưng bố Dean lại nói với giọng của kẻ hay ngồi lê đôi mách: “Nếu không dùng chụp ống khói thì chẳng bao giờ bị ho khan”. Bà Moran lấy một cái que đan búi tóc ra phía sau rồi vỗ tôi, 21-7[128], nhưng thay vì tiếp tục, bà lại đọc to tin trên tờ Malvern Gazeeter: “BÁNH CHÁY GÂY HỖN LOẠN Ở HỘI TRƯỜNG LÀNG. Hôm thứ tư, người làng Thiên nga đen hiểu rằng có thể có khói mà không có lửa. Buổi lễ ra mắt của Ủy ban giải quyết khủng hoảng khu trại của làng (do một số người dân lập ra nhằm phản đối khu vực dành cho người Digan dự kiến xây ở Hakes Lane) bị gián đoạn bởi chuông báo cháy, gây ra sự hỗn loạn...” - chà, những người thân yêu, người thân yêu (bản thân bài báo chẳng buồn cười nhưng bà Moran đọc với giọng tường thuật vẻ quê mùa khiến chúng tôi cười đau cả bụng) - “...lực lượng cấp cứu khẩn trương đến hiện trường, nhưng chỉ thấy chuông báo động kêu do một lò nướng bánh. Bốn người phải điều trị thương tích do hỗn loạn. Nhân chứng Gerald Castle ở khu Kingfisher Meadows, làng Thiên nga đen...” - đó là láng giềng nhà cháu phải không, Jason? - “...nói với phóng viên Gazeeter rằng “quả là một sự thần kỳ khi không ai bị thương tật suốt đời”” - Ôi, xin lỗi, bác không thể không cười được. Chẳng có gì buồn cười hết, thật đấy. Cháu có tận mắt thấy cảnh hỗn loạn không, Jason?

— Có, ba đưa cháu tới. Hội trường làng chật cứng. Bác không tới đó à?

Ông Moran trở nên lạnh lùng - Sam Swinyard đã tới đây hăm he xin chữ ký của bác nhưng bác lịch sự từ chối - cuộc nói chuyện đã xoay sai hướng không thích hợp - Cháu thấy ấn tượng với mức độ cuộc tranh luận không?

— Mọi người phản đối quyết liệt chuyện khu trại.

— Ô, chẳng nghi ngờ gì điều đó! Thiên hạ chẳng làm gì hết trong khi những nghiệp đoàn mà cha ông họ phải hy sinh bị con vật ở phố Downing giải tán! Nhưng một khi họ ngửi thấy mùi đe doạ đối với nồi cơm của mình thì họ đoàn kết lại nhanh hơn bất kỳ cuộc cách mạng nào!

— Frank - bà Moran đột ngột nói như thể vừa hãm phanh tay.

— Tôi chẳng xấu hổ về việc Jason biết tôi có dòng máu Digan trong người! Bác là người Digan đấy, Jason. Đó là lý do nhà bác không đến dự cuộc họp. Những người Digan không phải thiên thần nhưng cũng chẳng phải quỷ dữ. Dù thế nào họ cũng chỉ là những nông dân, bưu tá hay chủ đất, không hơn không kém. Thiên hạ phải để cho họ sống đúng là họ.

Tôi không thể nghĩ ra điều gì để nói, nên tôi chỉ gật đầu.

— Huyên thuyên chẳng đem lại miếng ăn - bà Moran đứng dậy. Ông Moran lấy ra tờ tuần báo Word Puzzler (Người giải ô chữ). Word Puzzler có ảnh chụp phụ nữ mặc bikini ở ngoài bìa nhưng bên trong chẳng có cái nào lộ hơn. Maxine, tôi và Dean bỏ những cuốn sách của Ladybird ra lúc mùi giăm-bông và nấm tỏa đầy căn bếp nhỏ. Tôi giúp Dean dọn bàn để kéo dài thời gian việc phải về nhà. Tủ đựng thìa nĩa, dao kéo nhà Dean không phân chia khoa học như tủ nhà tôi mà hoàn toàn lộn xộn - Cháu ở đây ăn một chút chứ, Jason? - mẹ Dean cạo vỏ khoai tây - Milady Kelly gọi điện cho bác lúc đang làm việc. Khi hết giờ làm, tất cả tụi ấy đều đi ăn bởi hôm nay là sinh nhật của một người trong bọn, thế nên nhà bác sẽ có chỗ cho thêm một người.

— Nào - bố Dean giục - gọi điện cho mẹ cháu bằng điện thoại nhà bác ấy.

“Không nên”. Thực ra tôi muốn nói như thế, nhưng mẹ sẽ nổi xung nếu tôi không báo ăn cơm nhà đứa khác trước vài tuần. Ba sẽ hành động chẳng khác gì cảnh sát, như thể mức vi phạm quá nặng nên chỉ cáu cũng chưa đủ. Nhưng nghĩ mà xem, dạo này ba ăn tối ở Oxford còn nhiều hơn ăn ở nhà - Cảm ơn hai bác đã mời cháu.

Bóng tối như hút sương mù xuống lòng đất. Đồng hồ nhích trở lại một kỳ nghỉ cuối tuần nữa. Mẹ sẽ từ Cheltenham về sớm nhưng tôi chẳng vội, thế nên tôi cứ đi con đường dài qua cửa hàng ông Rhydd. Tôi nghĩ nếu tránh cửa vườn Wellington thì khả năng chạm mặt Ross Wilcox rất thấp. Nhưng khi tôi vừa đi qua cổng quàn nhà thờ thánh Gabriel thì nghe tiếng hét của bọn trẻ phát ra từ vườn nhà Colette Turbot. Không ổn rồi.

Chẳng ổn chút nào thật. Ngay phía trước chính là Ross Wilcox, Gary Drake và khoảng mươi, mười lăm đứa khác. Có cả những đứa lớn tuổi hơn như Pete Redmarley và anh em nhà Tookey. Chiến tranh vừa nổ ra. Dẻ ngựa là đạn, táo dại và lê rụng làm đạn pháo hạng nặng. Đạn dự trữ được chuyển bằng các túi làm từ áo len cuộn lên. Một viên đạn lạc sượt qua tai tôi. Đôi tôi chọn phe có nhiều đứa có tiếng nhất để nhập hội, nhưng “đôi khi” không phải bây giờ. Điều sắp xảy ra sẽ là tiếng hô “Nh...nh...nhằm v...v...vào T...T...TTTTaylor!” và cả hai phía đều hướng hỏa lực vào tôi. Nếu tôi cố chạy, sẽ có một cuộc săn cáo diễn ra quanh làng, trong đó Wilcox là kẻ chỉ huy đội thợ săn còn tôi là cáo.

Thế nên trước khi bị phát hiện, tôi luồn vào khu đậu xe buýt leo đầy cây thường xuân. Một thời những xe buýt chạy tới Malvern, Upton và Tewkesbury đã dừng ở đây nhưng bây giờ hầu hết đã không còn vì bị cắt tuyến. Bọn hôn hít nhau và những tay graffiti[129] đã chiếm chỗ này. Phía ngoài cửa, hoa quả nảy tưng tưng. Tôi nhận ra mình vừa sụp bẫy của chính mình. Quân của Pete Redmarley đang rút chạy theo đường này, phía sau là Gary Drake và đội quân của Ross Wilcox đang hò hét truy kích. Tôi nhìn ra, cách tôi 10 foot, một quả táo dùng để nấu ăn nổ bùm đầy ấn tượng trên đầu Squelch. Chỉ ít giây nữa bên phòng ngự sẽ lấy lại thế cân bằng và tôi sẽ bị phát hiện khi đang nấp. Mà bị phát hiện khi đang nấp còn tệ hơn chỉ bị phát hiện thôi.

Squelch gỡ những miếng táo khỏi mắt, sau đó nhìn tôi.

Sợ nó chỉ điểm, tôi đưa một ngón tay lên môi.

Cái nghiến răng của Squelch chuyển thành cái cười toe toét. Nó cũng đặt một ngón tay lên môi.

Tôi vọt khỏi chỗ nấp về phía đường Malvern. Chẳng có thời gian chọn đường nên tôi nhảy đại lên đám rậm rạp. Bụi nhựa ruồi, may cho tôi. Tôi lún xuống những đám lá sắc. Cổ và mông tôi bị cứa nhưng những vết cứa không đau bằng những vết cứa vì bị làm mất thể diện. Đúng là phép thần của những phép thần, chẳng có đứa nào hô tên tôi cả. Trận đánh đã diễn ra kiểu gì đó, thế nên sát chỗ nấp tôi nghe tiếng Simon Sinton lầm bầm những mệnh lệnh cho chính mình. Khu đậu xe buýt tôi vừa rời khỏi trước đó hai mươi giây đã được trưng dụng làm boong-ke.

— Đau quá Croome, thằng ngu!

— Ô, đau hả, thằng nhỏ tội nghiệp Robin South? Tao rất tiếc!

— Tiếp tục đi các chiến hữu! Cho bọn nó thấy làng này thuộc về ai.

— Giết chúng! Tàn sát chúng! Ném chúng xuống hố! Chôn chúng đi!

Lực lượng của Pete Redmarley tập trung lại. Trận đánh vẫn dữ dội nhưng lâm vào thế bí. Không gian đan đầy những quả tên lửa và những tiếng thét của kẻ trúng đạn. Wayne Nashend lục lấy đạn chỉ cách chỗ tôi nấp một bước chân. Trông như thể cuộc chiến đã lan vào rừng. Cách duy nhất để tôi thoát ra là đặt chân vào.

Khu rừng mời gọi tôi, trải hết lớp này đến lớp khác như đang ngủ. Dương xỉ đập vào trán tôi, móc lấy túi tôi. Chẳng ai biết cậu ở đây, cây cối thầm thì, trĩu xuống vì mùa đông.

Những đứa trẻ bị bắt nạt phải ẩn mặt để giảm bớt khả năng bị phát hiện và bắt nạt. Những đứa nói lắp phải ẩn mặt để giảm bớt khả năng bị buộc phải nói điều gì đó chúng không thể nói. Những đứa có cha mẹ cãi nhau phải ẩn mặt phòng trường hợp gây ra một cuộc chạm trán khác. Ba thằng bé tàng hình đó chính là Jason Taylor. Những ngày này, ngay cả tôi cũng không nhìn rõ Jason Taylor thật, trừ những khi chúng tôi viết một bài thơ, đôi khi thấy trong gương hoặc trước lúc ngủ. Nhưng nó đi vào rừng. Các cành cây trông như mắt cá, những rễ cây như khuỷu tay khuỷu chân, những lối đi chỉ có thể do con lửng hoặc người Digan đào đắp, một cái ao sẽ đóng băng khi tháng giêng tới, một hộp xì gà bằng gỗ đóng đinh ở phía sau quả của một cây tiêu huyền bí mật mà bọn tôi từng lên kế hoạch xây nhà trên đó, sự yên ắng không tiếng chim và không tiếng cành cây gãy, cành dương xỉ diều hâu nhiều răng, rồi những nơi ta sẽ không thể tìm thấy nếu ta không một mình. Thời gian trong rừng chậm hơn hơn thời gian ở đồng hồ và cũng thực hơn. Những hồn ma Biết đâu có thật nổi loạn trong rừng, các cửa hàng văn phòng phẩm, các vì sao. Rừng chẳng quan tâm tới hàng rào hay ranh giới. Rừng chính là hàng rào, là ranh giới. Đừng sợ. Trong bóng tối cậu sẽ nhìn rõ hơn. Tôi thích làm gì đó với cây cối. Ngày nay những tu sĩ không tồn tại nhưng người rừng thì có. Có một người rừng ở Pháp. Cây quan tâm gì khi ta chẳng thể nói rõ lời?

Cảm giác như một tu sĩ mà tôi có được khi ở trong rừng hồi hộp đến mức tôi muốn đi ỉa, thế nên tôi dùng một hòn đá phẳng đào một cái lỗ phía trong bụi cây có lá hình chiếc găng tay. Tôi rặn rồi ngồi chồm hổm, thật thoải mái khi đi ỉa ngoài trời như người thượng cổ. Rặn ra, nghe tiếng rơi, ngắm những nếp nhăn trên lá. Phân đùn ra khi ngồi chồm hổm trơn và nhẵn hơn phân khi đi trong bồn cầu, ở ngoài trời lại nhão và có mùi hơn nữa. (Một điều tôi sợ là bọn nhặng bay vào đít tôi và đẻ trứng vào phần ruột ở phía dưới. Giòi sẽ nở ra và chui lên não tôi. Anh Hugo bảo tôi rằng chuyện này đã xảy ra ở một đứa trẻ người Mỹ tên là Akron Ohio). “Liệu tôi có bình thường” - tôi nói to chỉ để nghe giọng của mình - “khi tự nói chuyện với mình trong rừng như thế này?” Một con chim ở rất gần như nó đậu lên một vành tai tôi và biểu diễn một bản nhạc bằng fluýt trong một cái bình. Người tôi run lên vì có được điều không thể có. Nếu có thể leo tới được khoảnh khắc ấy, tới cái bình ấy và chẳng bao giờ rời khỏi đó, tôi sẽ làm thế. Thế nhưng ngồi xổm làm bắp chân đau nên tôi phải dịch chuyển. Con chim chẳng ai sở hữu được sợ hãi và biến mất sau đường hầm làm bằng những nhánh cây và những tiếng nhạc.

Tôi vừa mới lau đít bằng những lá hình găng tay thì con sói màu nâu và trắng khổng lồ to như con gấu chập choạng bước ra khỏi bụi dương xỉ diều hâu tối tăm.

Tôi nghĩ mình chết đến nơi rồi.

Nhưng con sói bình thản ngoạm lấy chiếc cặp Adidas của tôi rồi chạy nước kiệu theo lối đi.

“Chỉ là một con chó”, Maggot run rẩy, “nó đi rồi, ổn rồi bọn mình an toàn”.

Tiếng rên của một người chết bật ra từ sâu thẳm trong lôi. Sáu quyển sách bài tập trong đó có quyển của thầy Whitlock cộng thêm ba quyển sách giáo khoa nữa. Mất rồi! Tôi sẽ nói gì với các thầy cô? “Em không thể nộp bài tập về nhà, thưa thầy. Một con chó tha sách đi mất”. Thầy Nixon sẽ mang lại chiếc gậy để phạt tôi vì tội thiếu trung thực.

Đã quá muộn mà tôi vẫn nhảy lên để đuổi theo, nhưng chiếc thắt lưng có móc hình rắn của tôi tuột ra, quần vướng vào chân và tôi ngã lộn người như Laurel và Hardy[130]. Lá mục bám đầy quần lót, một nhánh cây chọc vào mũi tôi.

Chẳng làm gì nhưng tôi theo đường có thể con chó đã đi qua, mắt lướt quanh thảm rừng rậm để tìm những vệt trắng di động. Những lời châm chọc của thầy Whitlock sẽ kéo dài, cơn giận của cô Coscombe sẽ nóng như lửa, sự không tin tưởng của thầy Inkberrow sẽ thẳng căng như cái thước kẻ thầy hay gõ bảng. Cứt, cứt, cứt. Trước tiên mọi đứa sẽ gán cho tôi cái mác của một thằng gặp tai họa, rồi một nửa số thầy cô sẽ nghĩ cho tôi ngồi trong lớp thật phí chỗ. “Cậu làm gì mà lang thang trong rừng hàng tiếng như thế?”

Một con cú mèo? Đây là một trảng hõm tôi biết từ hồi bọn trẻ con trong làng hay dùng để đánh trận giả trong rừng. Bọn tôi đóng rất thật, có tù binh, ngừng bắn, có cờ mà một bên phải lấy cắp được (là mấy cái tất bẩn treo trên một cái que) và những quy định về chiến đấu mà một nửa là đuổi bắt, một nửa đấu judo. Dù sao thì vẫn hay hơn những trò dựng làng Passchendaele[131] trên đường Malvern. Khi các nguyên soái chọn quân, tôi được chộp ngay bởi tôi là một tay chạy lắt léo và leo cây rất cừ. Những trận giả đó hay tuyệt, thể thao ở trường thì không như thế. Thể thao không cho ta là một con người khác với chính ta. Bây giờ những trò trận giả không còn, chúng tôi là những người cuối cùng chơi trò này. Ngoài cái hồ người ta hay dắt chó đi dạo, mỗi mùa các con đường trong rừng đều thu dần lại. Những con đường vào rừng đều bị rào dây thép, bị quây bằng những bụi mâm xôi hoặc bị nông dân xây tường ngăn. Nếu được để yên, mọi thứ sẽ dày hơn và gai góc hơn. Người ta ngày càng khó chịu với bọn trẻ con chạy loanh quanh khi trời tối - điều trước đây bọn tôi thường làm. Cách đây không lâu, một thằng bé phát báo tên là Carl Bridgewater bị giết ở Gloucestershire. Gloucestershire ở ngay cạnh làng tôi, cảnh sát tìm thấy xác nó trong khu rừng như khu rừng này.

Nghĩ về Carl Bridgewater khiến tôi hơi sợ. Kẻ giết người có thể ném một cái xác trong rừng nhưng nếu chọn nơi này để phục nạn nhân thì quả là ngu ngốc. Rừng ở làng Thiên nga đen không phải rừng ở Sherwood hay Việt Nam. Tất cả những gì tôi phải làm để về nhà là quay lại đường cũ hoặc cứ tiếp tục đi cho tới khi ra đến cánh đồng.

Đúng, làm thế, khi trong tay không có cái cặp Adidas.

Hai lần tôi nhìn thấy vệt trắng và nghĩ Con chó!

Một lần nó chỉ là cây sồi bạc, lần kia nó là một cái cặp nhựa.

Thật vô vọng.

Rìa của mỏ đá nhô lên cao. Tôi đã quên mất nó từ khi những trò đánh trận giả chấm dứt. Không dốc lắm nhưng chẳng ai muốn ngã chỗ này. Đáy của nó là một cái vũng ba cạnh có một đường ray dẫn tới Hakes Lane. Hay đây là đường dành cho lợn? Tôi ngạc nhiên khi thấy ánh đèn và tiếng động ở sàn mỏ khai thác đá. Tôi đếm được sáu chiếc xe có toa kéo, cộng thêm một ô tô làm chỗ ở cùng một xe tải, một toa chở xe lửa, một xe tải nhỏ Hillman, một xe máy và một xe xít-đờ-ca. Một chiếc máy phát điện đang kêu xình xịch. Phải là người Digan rồi, tôi nghĩ, ở chân sườn đá phía dưới chỗ nhô ra mà tôi đứng, có bảy, tám người ngồi quanh một đám lửa bẩn thỉu. Có cả chó nữa.

Chẳng có dấu vết gì của con sói cướp đồ của tôi, cũng chẳng có dấu hiệu nào của chiếc cặp Adidas. Nhưng khả năng chiếc cặp của tôi nằm ở đây nhiều hơn bất cứ nơi nào khác trong rừng. Nhưng làm thế nào để một thằng bé sống trong căn nhà bốn buồng ngủ ở khu Kinghsher Meadows lắp kính cách âm Everest có thể đi tới chỗ người Digan và buộc tội rằng chó của họ đánh cắp đồ của mình?