Sàn nhảy
Có một nguyên tắc là Bất chấp mọi hậu quả. Nếu bỏ qua nguyên tắc này ta sẽ lưỡng lự, lóng ngóng và bị bắt giống như Steve McQueen bị kẹt trên dây thép gai trong phim Cuộc đào tẩu vĩ đại. Đó là lý do tại sao trong giờ học về chế tác kim loại sáng nay, tôi cứ nhìn chằm chằm vào những cái bớt của thầy Murcot như thể toàn bộ cuộc sống của tôi đang phụ thuộc vào đó vậy. Thầy có hai vết chàm dài trên cổ họng, trông giống như hình của nước New Zealand - Vì một buổi sáng tốt lành, các chàng trai! - thầy Murot dập choang hai chiếc chũm chọe bằng đồng thau của mình - Cầu Chúa phù hộ cho Nữ hoàng!
— Vì một buổi sáng tốt lành, thưa thầy Murot - chúng tôi đồng thanh đáp lại rồi quay về hướng Điện Buckingham cất lời chào - và cầu Chúa phù hộ cho Nữ hoàng!
Neal Brose, đứng bên chiếc bàn kẹp ê-tô mà nó dùng chung với Gary Drake, cứ chằm chằm lườm tôi. Đừng tưởng tao đã quên, ánh mắt nó đang hăm dọa tôi, Maggot.
— Tập trung lên nào, các chàng trai - có đến nửa lớp là con gái nhưng lúc nào thầy Murot cũng gọi chúng tôi là các chàng trai trừ phi thầy có gì đó không hài lòng. Khi đó thì chúng tôi là các cô gái tất - Hôm nay là buổi học cuối cùng của năm 1982. Nếu không hoàn thành bài tập của mình đúng ngày hôm nay, các em sẽ gặp nhiều rắc rối đấy - Bài tập lớn của chúng tôi trong học kỳ này là thiết kế và chế tạo một kiểu bàn nạo. Cái nạo của tôi sẽ được dùng để làm sạch đất bám giữa các đinh giầy đá bóng.
Tôi để mặc cho 10 phút trôi qua, cho đến khi Neal Brose đang hoàn toàn bận rộn với chiếc máy khoan.
Tim tôi đập thình thịch, nhưng tôi đã quyết định.
Từ chiếc ba lô màu đen hiệu Slazenger của Neal Brose, tôi lấy ra chiếc máy tính chạy bằng pin mặt trời hiệu Casio. Đó là chiếc máy tính đắt tiền nhất trong vùng WH Smith này. Một ý nghĩ đen tối đã đưa đẩy khiến tôi thêm quyết tâm, hầu như không một chút đắn đo do dự, giống như một người chèo thuyền đang phăng phăng lao xuống thác Niagara thay vì tìm cách chống lại dòng nước dữ, tôi lạnh lùng lấy chiếc máy tính quý giá ra khỏi chiếc hộp chuyên dụng của nó.
Holly Deblin đã nhìn thấy tôi. Nó đang buộc lại mái tóc dài để tránh cho tóc bị vướng vào máy tiện. (Thầy Murcot không thích gì hơn là kể đi kể lại những cái chết kinh hoàng mà mình được chứng kiến tận mắt suốt những năm qua). “Tao nghĩ là nó thích anh em mình”, Thằng em sinh đôi chưa hề ra đời thì thầm, “hôn gió với nó đi”.
Tôi nhét chiếc máy tính của Neal Brose vào bàn ép ê-tô. Leon Cutler cũng đã nhìn thấy, nhưng nó chỉ nhìn trừng trừng chứ không dám tin vào những gì đang diễn ra. Bất chấp mọi hậu quả. Tôi xoay mạnh tay quay điều khiển bàn ép. Những tiếng rắc rắc vang lên khi lớp vỏ chiếc máy tính bắt đầu bị ép chặt. Sau đó tôi dồn hết sức nặng của cơ thể, đu hẳn lên tay quay. Bộ xương của Gary Drake, hộp sọ của Neal Brose, xương sống của Wayne Nashend, tương lai của chúng, linh hồn của chúng. Tất cả sẽ phải nát bét. Mạnh nữa lên. Chiếc vỏ nát vụn, bảng mạch cũng bẹp rúm, những mảnh vỡ rơi lả tả xuống sàn nhà khi một chiếc máy tính dày chưa đến nửa inch bị ép chỉ còn là một chiếc máy tính dày có một phần tám inch. Chỉ một phần tám inch thôi. Cứ gọi là nát như tương. Những tiếng hét bắt đầu vang lên khắp nơi trong phòng kỹ thuật công nghiệp.
Nguyên tắc thứ hai là Đã làm thì phải làm đến cùng.
Tất cả những gì ta cần nhớ là hai nguyên tắc này mà thôi.
Tôi đã nhảy thẳng từ trên đỉnh thác nước cao chóng mặt xuống dưới, một cách đầy vinh quang.
— Thầy Kempsey cho tôi biết - thầy Nixon vừa nói vừa đan những ngón tay lại thành hình một chiếc quyền trượng - rằng ba em vừa mới mất việc làm.
“Mất”. Nghe như thể công việc là một chiếc ví mà chúng ta có thể đánh mất nếu không cẩn thận. Tôi chưa hề hé ra một từ nào về chuyện này ở trường. Nhưng đúng là như vậy. Sáng nay ba đã đến văn phòng tại Oxford lúc 8 giờ 55 sáng, và đến 9 giờ 15 đã có một nhân viên bảo vệ dẫn ông ra khỏi công ty. “Chúng ta phải thắt lưng buộc bụng”, bà Magaret Thatcher hô hào, mặc dù về mặt cá nhân, bà ấy đâu có làm như thế. Không còn cách nào khác. Siêu thị Greenland đã sa thải ba vì một tài khoản công tác phí bị hụt mất 20 bảng. Sau 11 năm. Theo lời mẹ nói chuyện với bác Alice trên điện thoại thì bằng cách này họ sẽ không phải trả cho ba một xu nào tiền bồi thường giảm biên chế. Danny Lawlor đã giúp Craig Salt trong việc đá đít ba. Tay Danny Lawlor mà tôi gặp hồi tháng 8 trông có vẻ tử tế. Nhưng có lẽ tử tế chưa chắc đã là tốt. Giờ thì anh ta đang vênh mặt lái chiếc Rover 3500 của ba trước kia.
— Jason! - Thầy Kempsey giật giọng.
— Dạ - tôi gặp rắc rối to rồi - thưa thầy gì ạ?
— Thầy Nixon đang hỏi em mà.
— Dạ. Ba em bị sa thải đúng vào hôm có Hội chợ Ngỗng. Vâng...cách đây vài tuần.
— Thật đáng buồn - thầy Nixon có cặp mắt lạnh lùng của một người chuyên mổ động vật sống làm thí nghiệm - Nhưng những chuyện đáng buồn thế này cũng rất thường gặp, Taylor ạ. Em cứ nghĩ đến chuyện bất hạnh đã xảy ra với Tom Yew mà xem, hoặc với Ross Wilcox. Tại sao em nghĩ rằng phá hoại tài sản của bạn cùng lớp lại có thể giúp được cho ba em?
— Không giúp gì được ạ, thưa thầy - chiếc ghế giành cho đứa trẻ hư thấp đến nỗi thầy Nixon có thể nhìn thấy cả hai chân của kẻ tội đồ - phá hỏng chiếc máy tính của Brose không liên quan gì đến việc ba em bị sa thải ạ.
— Vậy thì - thầy Nixon ngước lên - liên quan đến việc gì đây?
<Đã làm thì phải làm đến cùng.
>- Liên quan đến những bài học “lễ độ” của Brose ạ, thưa thầy.
Thầy Nixon quay sang nhìn thầy Kempsey như tìm kiếm một lời giải thích.
— Neal Brose? - thầy Kempsey hắng giọng, hoàn toàn không hiểu gì -Những bài học lễ độ là sao?’
— Brose (Gã treo cổ chặn mất từ “Neal” nhưng không sao) bắt em, Floyd Chaceley, Nicholas Briar và Clive Pike phải trả cho bạn ấy mỗi tuần một bảng để học “lễ độ”. Em nên không đồng ý. Thế là bạn ấy rủ Wayne Nashend và Ant Little dạy cho em “biết thế nào là lễ độ”.
Giọng thầy Nixon bắt đầu tỏ ra đanh lại, một dấu hiệu tốt đây - Những bạn đó đã làm cách nào để thuyết phục em?
Chẳng việc gì phải cường điệu thêm - Hôm thứ hai các bạn ấy đổ tung hết các thứ trong cặp sách của em xuống cầu thang trước cửa phòng thí nghiệm hóa học. Hôm thứ ba, trong giờ học thể dục của thầy Carver, em bị ném đất vào đầy người. Sáng nay, trong phòng để áo khoác, Brose, Little và Nashend dọa chiều tối nay khi đi học về sẽ đá vào mặt em.
— Em đang nói rằng - mặt thầy Kempsey đỏ lên trông rất dễ nhìn - Neal Brose đang điều hành một băng nhóm trấn lột ngay trước mũi tôi sao?
— Dạ thưa thầy, “trấn lột” có nghĩa là (tôi biết thừa) đánh đập người khác nếu họ không chịu đưa tiền cho mình phải không ạ?
Chắc thầy Kempsey nghĩ đít Neal Brose toàn đánh bủm ra mặt trăng, mặt trời và các vì sao chắc (!). Đó cũng là một định nghĩa. Thầy giáo nào mà chẳng tưởng nhầm như vậy - Em có bằng chứng nào không?
— Thầy muốn nói đến những bằng chứng như thế nào ạ? - (Càng tỏ ra ngây ngô càng tốt). Mọi chuyện đang diễn ra rất thuận lợi nên tôi có thể hoàn toàn nói với vẻ mặt rất nghiêm túc - Kiểu những máy ghi âm gián điệp ấy ạ?
— Hừm...
— Nếu thầy hỏi Chaceley và Pike cùng Briar - thầy Nixon hỏi chen vào - thì liệu họ có khẳng định câu chuyện em vừa kể không?
— Điều đó còn tùy thuộc vào việc họ sợ ai hơn, thầy hay Neal Brose.
— Thầy cam đoan với em, Taylor ạ, các bạn ấy sẽ phải sợ thầy hơn.
— Vu khống hoặc bêu xấu một bạn khác là một hành động nghiêm trọng đấy, Taylor - thầy Kempsey vẫn tỏ ra hoài nghi.
— Em rất vui lòng nghe thầy nói vậy ạ.
— Điều tôi rất không vui lòng là - thầy Nixon nhất định không để cho buổi thẩm vấn mang không khí thân mật - em đã hành động để khiến tôi chú tâm đến vấn đề này, không phải bằng cách đến gõ cửa phòng và kể cho tôi nghe mọi chuyện, mà bằng cách phá hoại tài sản của người mà em buộc tội là bắt nạt mình.
Cái từ buộc tội đó cho tôi thấy rằng bồi thẩm đoàn vẫn chưa hoàn toàn bị thuyết phục.
— Ai mách giáo viên sẽ bị coi là đồ hèn nhát ạ, thưa thầy.
— Không mách giáo viên thì em mới là đồ hèn nhát, Taylor.
Chắc Maggot đang rất lấy làm khó chịu vì sự buộc tội bất công này.
— Em không nghĩ xa đến vậy ạ. Hãy xác định điều gì là đúng, kiên quyết hành động và phớt lờ mọi hậu quả. Em chỉ muốn chứng tỏ cho Neal Brose thấy là em không sợ bạn ấy. Đó là tất cả những gì em nghĩ ạ.
Nếu như nỗi buồn chán có mùi, thì đó hẳn là mùi một kho sách và đồ văn phòng phẩm. Bụi bặm, giấy tờ, đường ống sưởi ấm, cả đêm lần ngày, suốt mùa đông. Những cuốn sách bài tập còn trống chồng lên nhau trên các giá sách bằng kim loại. Hàng tập sách Giết con chim nhại, Romeo và Juliet, Moonfleet... Kho sách còn có một phòng cách ly dành cho những trường hợp kéo dài như tôi. Ngoài một ô kính vuông mờ gắn trên cửa ra vào, nguồn ánh sáng duy nhất còn lại là một bóng đèn tròn. Thầy Kempsey đã sẵng giọng bảo tôi cứ ngồi đây mà làm bài tập cho đến khi có người đến gọi, nhưng tôi cũng chẳng phải ngồi không. Trong bụng tôi đã nung nấu một bài thơ. Đằng nào thì cũng đã gặp đủ rắc rối rồi, tôi mạnh dạn thó một quyển sách bài tập đẹp đẽ có bìa cứng từ trên giá xuống để làm giấy viết. Nhưng ngay sau dòng đầu tiên, tôi nhận ra đó không phải là một bài thơ. Nó giống...cái gì hơn nhỉ? Tôi nghĩ giống lời thú tội hơn. Nó bắt đầu như thế này:
>Và cứ thế tiếp diễn. Khi chuông báo đến giờ ra chơi buổi sáng vang lên, tôi nhận ra mình đã viết kín ba mặt giấy. Ngồi sắp xếp những con chữ khiến thời gian có vẻ trôi qua nhanh hơn rất nhiều. Ngoài ô cửa kính mờ thấp thoáng bóng người - các thầy giáo vội vàng đến phòng hội đồng để hút thuốc và uống cà phê. Cả khối học sinh năm thứ ba chắc đang bàn tán về những gì tôi đã làm trong giờ kỹ thuật công nghiệp, tôi đoán chắc là thế. Cả trường ấy chứ. Mọi người thường bảo khi có người nói về mình thì tai bạn thế nào cũng nóng bừng lên, nhưng tôi chỉ thấy bụng réo cồn cào. Jason Taylor, nó không làm, Jason Taylor, nó có làm, nó có, ôi lạy Chúa, nó đã hạ thằng nào vậy? Viết lách ít nhất cũng làm tôi quên đi tiếng réo của dạ dày. Tiếng chuông lại vang lên báo hết giờ nghỉ ra chơi và những bóng người lại hối hả đi về hướng cũ. Vẫn chẳng thấy ai đến. Ngoài kia, chắc thầy Nixon đang cho mời ba mẹ tôi đến trường. May ra thì cũng phải đến tối nay thầy ấy mới liên lạc được với họ. Ba đã đi Oxford để xin việc. Ngay cả chiếc máy trả lời điện thoại của ba cũng đã bị Greenland thu hồi. Bên ngoài bức tường, chiếc máy photocopy của nhà trường vẫn đang kêu soàn soạt, soàn soạt, soàn soạt.
Một cảm giác sợ hãi mơ hồ đột nhiên xuất hiện khi cánh cửa mở ra, nhưng hóa ra chẳng có gì đáng sợ. Đó chỉ là hai thằng năm thứ hai đến kho sách để lấy sách Rượu táo và Rossie. (Năm ngoái chúng tôi cũng phải đọc quyển này rồi). “Đó là chuyện thật à, Taylor?”, thằng nhãi lớn hơn hỏi tôi như thể tôi vẫn còn là Maggot.
— Chuyện thật là chuyện quái quỷ nào vậy? - tôi trả lời, sau giây lát nghĩ ngợi.
Tôi cố tình nói câu đó một cách thật hiểm độc khiến thằng nhãi năm thứ hai phải đánh rơi chồng sách của nó. Thằng nhãi còn lại cũng luống cuống làm rơi vãi sách khi cúi xuống giúp thằng kia.
Tôi lặng yên gặm nhấm vẻ khoái trá của mình.
— Điều khiến thầy phiền lòng nhất, lớp 3KM ạ - biệt danh của thầy Kempsey là Polly[143], nhưng mỗi khi thầy nổi nóng thì không thể không dè chừng - là việc những hành động đe dọa trấn lột này đã diễn ra trong nhiều tuần liền. Nhiều tuần.
Cả lớp 3KM cố thu mình trong một sự im lặng tang tóc.
— Nhiều tuần liền cơ đấy!
Lớp 3KM giật nảy mình.
— Và không một ai trong các em nghĩ đến việc đến gặp thầy! Thầy rất buồn. Buồn và lo sợ. Đúng là phải dùng từ lo sợ. Trong vòng 5 năm nữa, các em sẽ có quyền bỏ phiếu! Các em được kỳ vọng trở thành những công dân tinh hoa của đất nước, lớp 3KM ạ. Các em sẽ trở thành những công dân như thế nào đây? Những cảnh sát, giáo viên, luật sư, chánh án như thế nào đây? “Thưa thầy, em biết là sai nhưng đó không phải việc của em”. “Thưa thầy, cứ để kệ ai thích thổi còi thì thổi”. “Em sợ nếu em nói gì đó, em sẽ là người tiếp theo ạ”. Vâng, nếu như những người èo uột, không xương sống này là tương lai của nước Anh, thì lạy Chúa cứu giúp chúng con.
Tôi, Jason Taylor, là đồ cỏ rác.
— Phải nói thật là thầy rất bất bình với cách Taylor đã làm để khiến thầy chú ý đến việc này, nhưng ít nhất thì bạn ấy cũng đã làm gì đó. Không thể nói gì để ngợi khen Chaceley, Pike và Briar, ba bạn này chỉ chịu thừa nhận sự việc sau khi các thầy trong ban giám hiệu đã ép mãi. Các em phải coi đó là sự xấu hổ của cả lớp khi phải nhờ đến hành động phá hoại của Taylor sáng nay mà mọi chuyện mới được phanh phui.
Tất cả những đứa ngồi hàng đầu đều quay lại nhìn tôi, nhưng tôi chỉ nhìn Gary Drake - Có chuyện gì vậy Gary? (Có vẻ như Gã treo cổ ưu ái cho tôi một buổi chiều bình yên. Nhiều lúc tôi nghĩ Gã treo cổ cũng muốn đến tham gia một buổi điều trị của cô De Roo). Chẳng lẽ sau 3 năm học cậu còn chưa biết trông tớ như thế nào à?
Tất cả những ánh mắt lại quay về phía Gary Drake, rồi quay sang thầy Kempsey. Bình thường thì thầy chủ nhiệm chắc chắn sẽ cho tôi một trận vì dám nói trong khi thầy đang chủ trì sinh hoạt lớp. Nhưng lần này thì không - Nào, Drake?
— Dạ thưa thầy?
— Giả vờ ngây ngô là vũ khí cuối cùng của kẻ ngốc, Drake ạ.
Trông Gary Drake lúng túng thực sự - Dạ thưa thầy?
— Em lại diễn trò rồi đấy, Drake.
Gary Drake bị phê vào học bạ. Wayne Nashend và Ant Little bị đình chỉ học một thời gian. Nhiều khả năng thầy Nixon sẽ ký quyết định đuổi học Neal Brose.
Giờ thì bọn nó thực sự có lý do để đạp vào mặt tôi rồi.
Thường thì Neal Brose ngồi đầu tiên trong giờ tiếng Anh, bọn nịnh nọt nó ngồi đằng sau hoặc bên cạnh. Thằng em sinh đôi chưa hề ra đời thì thầm: “Tiến lên, chiếm cái ghế của thằng khốn nạn ấy đi. Mày giành được từ tay nó mà”. Và thế là tôi đàng hoàng ngồi vào đó. David Ockeridge, kẻ thường ngồi bên cạnh Neal Brose, chọn một cái ghế xa hơn về phía sau. Trong số cả đống người xung quanh, chỉ có Clive Pike đặt cặp và ngồi xuống cạnh tôi - Chỗ này có ai ngồi chưa? - hơi thở của Clive Pike có mùi pho mát và hành, nhưng cũng có sao đâu?
Tôi ra hiệu Cứ ngồi đi.
Cô Lippets liếc nhìn tôi khi cả lớp đứng dậy đồng thanh: “Chúng em chào cô, thưa cô Lippetts”. Cái liếc rất nhanh và kín đáo đến nỗi hầu như không hề có, nhưng đúng là một cái liếc - Các em ngồi xuống. Đề nghị các em lấy bút chì ra. Hôm nay chúng ta sẽ tập luyện cho bộ óc dẻo dai của mình bằng một bài tổng hợp, mang chủ đề sau đây...Trong khi cả lớp lúi húi lấy bút chì trong hộp ra, cô Lippetts viết lên bảng chữ:
ĐIỀU BÍ MẬT
Tiếng viên phấn miết trên mặt bảng ken két.
— Cô nhờ Tamsin đọc to lên cho cả lớp nghe nào.
Tamsin Murrell đọc - Điều bí mật, thưa cô.
— Cám ơn em. Nhưng thế nào là một điều bí mật?
Sau bữa trưa thì phải mất khá nhiều thời gian mới khiến bộ óc làm việc trở lại.
— Hừm, vậy có thể nói rằng bí mật là một cái gì đó con người ta có thể nhìn thấy hoặc chạm vào?
Avril Bredon giơ tay lên.
— Avril?
— Điều bí mật là một thông tin mà không phải ai cũng biết ạ.
— Tốt. Một thông tin mà không phải ai cũng biết. Thông tin về...Ai? Em? Hay người khác? Về điều gì đó? Hay là tất cả những cái đó?
Sau một lúc im lặng, chỉ có vài đứa lúng búng: “Tất cả những điều đó”.
— Đúng, cô cũng nghĩ như vậy. Nhưng các em hãy tự hỏi mình rằng, liệu một điều bí mật có thể được gọi là bí mật nếu nó không có thật?
Đó chính là một câu hỏi mấu chốt. Cô Lippetts viết:
CÔ LIPPETS LÀ NANCY REAGAN[144]
Hầu hết bọn con gái trong lớp cười rũ rượi.
— Nếu cô bảo các em ở lại trường sau giờ học và chờ cho đến khi chỉ còn lại cô trò mình và rồi cô sẽ thì thầm với các em một cách hoàn toàn nghiêm túc lời tuyên bố trên bảng kia, thì liệu các em có sững sờ thốt lên: “Không! Bí mật ghê gớm thế cơ à?”. Duncan?
Duncan Priest giơ tay lên - Em sẽ gọi cho nhà thương điên Little Malvern, thưa cô. Sẽ đăng ký cho cô một phòng có đệm lịch sự. Ốp kín bốn xung quanh tường - Câu lạc bộ người hâm mộ của Duncan cười khúc khích - Đó không phải là một điều bí mật, thưa cô. Đó chỉ là câu nói lăng nhăng của một người đầu óc không bình thường.
— Thật là một đánh giá rất súc tích và sắc gọn, cám ơn em. Như Duncan đã nói, cái gọi là “bí mật” sẽ không thể được coi là điều bí mật nếu nó không đúng. Nếu như có đủ người tin rằng cô là Nancy, chắc chắn cô sẽ gặp rắc rối cho mà xem, nhưng ngay cả như thế chúng ta cũng không thể coi đây là một điều bí mật, đúng không nào? Phải gọi là một sự ngộ nhận tập thể thì đúng hơn. Ai có thể nói cho cô biết thế nào là một sự ngộ nhận tập thể nào? Alastair?
— Em nghe nói rằng hầu hết người Mỹ tin rằng Elvis Presley vẫn còn sống.
— Ví dụ rất hay. Tuy nhiên, sau đây cô sẽ tiết lộ cho các em một bí mật về chính cô, đây là điều hoàn toàn chính xác. Đây là điều hết sức nhạy cảm, vì vậy cô đề nghị các em không bàn tán xôn xao về chuyện này trong giờ nghỉ ra chơi...
CÔ LIPPETS LÀ KẺ GIẾT NGƯỜI BẰNG RÌU
Lần này thì quá nửa bọn con trai trong lớp cùng phải bật cười.
— Suỵt! Cô chôn xác những nạn nhân của mình dưới mặt đất trên quốc lộ M50. Thế nên không còn dấu vết nào hết. Không có gì đáng nghi ngờ. Nhưng liệu điều bí mật này có thể coi là điều bí mật nữa không? Nếu đó là một điều bí mật mà không có ai, hoàn toàn không có ai mảy may nghi ngờ?
Cả lớp im lặng chăm chú và chờ đợi đầy háo hức.
“Có...” - vài đứa đánh bạo lên tiếng, trong khi những đứa khác ngập ngừng “Không...”.
— Cô sẽ biết, thưa cô - Clive Pike giơ tay lên - Nếu cô thực sự là kẻ giết người bằng rìu. Vì vậy cô không thể nói là không có ai biết điều đó.
— Sẽ không có ai biết nếu cô giáo là một kẻ giết người bị tâm thần phân liệt - Duncan Priest lên mặt kẻ cả - Cô giáo sẽ không bao giờ nhớ được những tội ác mà mình đã gây ra. Rất có thể cô giáo sẽ băm cậu ra thành nhiều mảnh chỉ vì tội quên làm bài tập, rồi tống tất cả những mớ bầy nhầy đó vào toa-lét và giật nước, rồi cô ấy ngất đi, rồi lại tỉnh dậy để trở thành cô Lippets hiền hậu, một giáo viên tiếng Anh. “Ôi lạy Chúa, sao quần áo mình lại có máu thế này nhỉ? Bực thật, thôi, tống vào máy giặt vậy. Không hiểu sao cứ mồi kỳ trăng tròn lại xảy ra chuyện lạ kỳ như thế này nhỉ”. Và đó được gọi là một điều bí mật mà không có ai biết cả, hiểu chưa?
— Trí tưởng tượng phong phú lắm, Duncan, cảm ơn em. Nhưng hãy thử tưởng tượng tất cả những vụ giết người xảy ra ở thung lũng Severn này, từ thời La Mã đến nay chẳng hạn. Tất cả những nạn nhân, những thủ phạm, đều đã chết và tan thành cát bụi. Vậy thì liệu những hành vi tội ác đó, những điều mà không còn ai nhớ đến nữa, và cũng không ai nghĩ đến trong suốt hơn một nghìn năm qua, có còn được gọi là những bí mật không? Holly?
— Không phải bí mật ạ, thưa cô - Holly Deblin trả lời - chỉ là những thông tin bị quên lãng.
— Chắc chắn rồi. Vậy chúng ta có thể thống nhất rằng, một bí mật thì cần có một chủ thể là con người biết đến nó, hoặc ít nhất thì cũng ghi chép lại, đúng không? Một người lưu giữ điều bí mật đó, rồi truyền nó cho người khác. Emma Ramping! Em đang thì thầm gì với Abigail vậy?
— Dạ thưa cô?
— Em đứng lên, Emma.
Con bé Emma Ramping cao lêu nghêu lo lắng đứng dậy.
— Cô vẫn đang giảng bài. Em đang nói chuyện gì với Abigail vậy?
Emma Ramping cố lảng tránh đằng sau một vẻ mặt ra chiều hối lỗi.
— Liệu đó có phải là một thông tin mà không phải ai cũng biết.
— Đúng ạ, thưa cô.
— Nói to lên, Emma, cho cả lớp cùng nghe thấy.
— Đúng ạ, thưa cô.
— A ha. Như vậy là em đang chia sẻ một điều bí mật với Abigail?
Emma Ramping lúng túng gật đầu.
— Đúng là phù hợp làm sao. Được, tại sao em lại không chia sẻ bí mật này với cả lớp nhỉ? Nào. Xin vui lòng nói to lên nhé.
Emma Ramping bắt đầu đỏ bừng mặt, trông thật khốn khổ.
— Ta thỏa thuận thế này nhé, Emma. Cô sẽ tha cho em nếu em chỉ cần giải thích tại sao em lại rất vui khi chia sẻ bí mật của mình với Abigail, nhưng lại không muốn cả lớp biết.
— Bởi vì...em không muốn mọi người biết chuyện này ạ, thưa cô.
— Lớp 3KM thân mến, Emma đang nói cho chúng ta biết thêm về bí mật. Cám ơn em, Emma, em ngồi xuống và không phải lo lắng gì nữa nhé. Cả lớp, làm thế nào chúng ta có thể giết chết một điều bí mật?
Leon Cutler giơ tay lên - Nói cho mọi người biết ạ.
— Đúng vậy, Leon. Nhưng bao nhiêu người? Emma nói cho Abigail bí mật của bạn ấy, nhưng như vậy chưa thể giết chết bí mật đó, phải không? Phải có bao nhiêu người biết thì một bí mật mới không còn là bí mật nữa?
— Đủ người để có thể đưa cô lên ghế điện, thưa cô. Ý em là vì tội giết người bằng rìu - Duncan Priest nói.
— Bạn nào có thể diễn đạt lại ví dụ rất sinh động của bạn Duncan thành một nguyên tắc chung? Cần có bao nhiêu người mới có thể giết chết một bí mật? David?
David Ockeridge ấp úng nói - Càng nhiều càng tốt, thưa cô.
— Càng nhiều là bao nhiêu? Avril?
— Đủ để thay đổi điều bí mật đó ạ, thưa cô - Avril Bredon nhăn trán trả lời.
— Lập luận rất hay, lớp 3KM. Có lẽ tương lai của chúng ta sẽ được nắm giữ trong những bàn tay đáng tin cậy đây. Nếu Emma cho chúng ta biết bạn ấy đã nói gì với Abigail, điều bí mật đó cũng sẽ chết. Nếu những vụ giết người của cô bị đăng tải trên tờ Malvern Gazetteer, thì cô cũng...chết, nếu như Duncan có chân trong bồi thẩm đoàn. Quy mô có khác nhau, nhưng nguyên tắc chung thì vẫn vậy. Bây giờ thì câu hỏi tiếp theo của cô là điều mà cô thực sự rất băn khoăn vì cô hoàn toàn không chắc chắn về câu trả lời. Những bí mật nào nên được công bố? Và những bí mật nào cần được giữ kín?
Đó là câu hỏi mà người ta không thể trả lời ngay được.
Chắc đó phải là lần thứ năm mươi hoặc một trăm gì đó trong buổi học tôi nghĩ đến Ross Wilcox.
Bạn nào có thể cho cô biết từ này có nghĩa là gì?
ĐẠO ĐỨC
Bụi phấn bay như một làn sương sau mỗi con chữ.
Tôi đã tra từ này một lần trong từ điển. Nó xuất hiện khá thường xuyên trong những cuốn sách Biên niên ký của Thomas Covenant. Nó có nghĩa là luân thường đạo lý. Mark Badbury đã kịp giơ tay lên.
— Mark?
— Câu trả lời nằm trong những gì cô vừa nói ạ. Đạo đức là những gì chúng ta nên và không nên làm.
— Một câu trả lời rất thông minh, Mark. Ở Hy Lạp thời Socrates[145] chắc chắn người ta sẽ gọi em là một nhà hùng biện. Liệu có phải là điều hợp đạo đức khi công bố tất cả những điều bí mật?
Duncan Priest hắng giọng - Có vẻ như hoàn toàn đạo đức khi công bố bí mật của cô cho mọi người biết ạ. Để những học sinh trong trường không còn bị băm vụn ra nữa.
— Hay lắm, Duncan. Nhưng liệu em có tiết lộ bí mật sau đây không?
TÊN THẬT CỦA BATMAN[146] LÀ BRUCE WAYNE
Hầu hết bọn con trai trong lớp đều xì xầm vô cùng thán phục.
— Nếu như bí mật này bị lộ ra ngoài, liệu những tên tội phạm sừng sỏ trên thế giới sẽ làm gì? Christopher?
— Chúng sẽ đặt bom trong nhà của Bruce Wayne ạ, thưa cô - Christopher Twyford thở dài - Sẽ không còn Hiệp sĩ mặc áo choàng nữa.
— Như thế sẽ là một tổn thất rất lớn cho toàn xã hội, đúng không nào? Vì vậy, đôi khi sẽ là việc làm hợp đạo đức nếu chúng ta không tiết lộ một bí mật nào đó. Nicholas?
Nicholas Briar hầu như chẳng bao giờ mở miệng trong giờ học - Giống như Đạo luật giữ gìn bí mật nhà nước hồi chiến tranh nổ ra ở quần đảo Falklands ạ.
— Chính xác, Nicholas. Không giữ mồm giữ miệng thì sẽ có thêm tàu chìm. Nào, giờ thì hãy nghĩ đến những bí mật của chính các em. (Sự liên quan giữa cái ví của Ross Wilcox và cái chân đứt lìa của nó. Chiếc đồng hồ Omega Seamaster bị vỡ của ông nội. Bà Crommelynck). Sao tự nhiên các em lại im lặng thế. Được rồi, vậy những bí mật của các em thuộc loại “Nên nói” hay “Không nên nói”? Hay còn có một loại thứ ba, tức là không hoàn toàn rạch ròi về mặt đạo đức? Những bí mật cá nhân mà không ảnh hưởng gì đến bất kỳ ai khác? Những chuyện vụn vặt? Hay những điều phức tạp, với những hậu quả khó lường nếu nói ra?
Những tiếng Vâng đồng tình mỗi lúc một nhiều hơn.
Cô Lippets lấy ra một viên phấn mới - Các em càng lớn lên thì càng có nhiều bí mật hơn. Bao giờ cũng vậy. Hãy chấp nhận thực tế đó. Ai có thể đoán được tại sao cô lại viết từ này...
UY TÍN
— Jason?
Cả lớp 3KM biến thành một chiếc kính thiên văn khổng lồ nhằm thẳng vào đồ cỏ rác của cả lớp.
— Uy tín là điều sẽ bị tổn thương, khi một điều bí mật nào đó bị lộ ra, thưa cô. Uy tín của cô trên cương vị một giáo viên sẽ tan thành mây khói, nếu người ta chứng minh được rằng cô là một kẻ giết người bằng rìu. Thanh danh của Bruce Wayne như một người Vô danh đến con-kiến-cũng-không-làm-hại cũng sẽ không còn. Cũng giống như chuyện của Neal Brose, đúng không ạ? (Nếu như tôi có thể nghiền nát một chiếc máy tính chạy pin mặt trời thì mặc xác cái nguyên tắc là tôi phải xấu hổ vì đã hớt lẻo với giáo viên về một học sinh khác khiến cho nó bị đuổi học. Mà thực ra thì mặc xác tất cả những nguyên tắc). Bạn ấy cũng có một bí mật, phải không ạ? Wayne Nashend biết, Ant Little biết. Một vài người nữa - Gary Drake, ngồi bên trái tôi, tỉnh bơ nhìn thẳng về phía trước - nhưng một khi bí mật của bạn ấy bị tiết lộ, uy tín của bạn ấy như một...
Trước sự ngạc nhiên của cả lớp, cô Lippets đột nhiên gợi ý - Cậu bé vàng?
— Cậu bé vàng, một từ vô cùng chính xác, thưa cô Lippets. (Lần đầu tiên sau một thời gian chỉ có Chúa mới biết là bao lâu, tôi mới khiến được cả lớp bật cười). Và uy tín đó đã tan tành. Uy tín của bạn ấy trong mắt bạn bè trong trường cũng không còn nữa. Khi không còn chút uy tín nào để che giấu bí mật của mình, Neal Brose...hoàn toàn...
“Nói đi”, Thằng em sinh đôi chưa hề ra đời giục, “tao thách mày nói ra đấy”.
—...chỉ còn là đồ bỏ đi. Nhục nhã, ê chề.
Sự im lặng khủng khiếp đó chính là công trình mà tôi tạo ra. Tạo ra bằng chính ngôn từ. Chỉ cần ngôn từ mà thôi.
Cô Lippets là người yêu nghề, vào những ngày đẹp trời.
Đầu óc tôi đang nung nấu với những câu hỏi liệu ba mẹ sẽ phản ứng như thế nào nếu biết những gì tôi đã làm hôm nay, vì vậy tôi lôi cây thông Giáng sinh trong tủ ra để đánh lạc hướng, cả những món đồ trang trí Quality Street nữa. Hôm nay đã là ngày 20 tháng 12 rồi mà ba mẹ chưa hề đả động gì đến Giáng sinh cả. Mẹ ở rịt tại phòng triển lãm suốt bảy ngày trong tuần, còn ba thì bận rộn với hết cuộc phỏng vấn này đến những cuộc phỏng vấn khác. Tôi lắp cây thông và dựng nó lên, mắc đèn nhấp nháy. Khi tôi còn nhỏ, ba thường mua những cây thông Giáng sinh thật sự từ vườn ươm của bố Gilbert Swinyard. Mẹ mua cây thông giả này tại cửa hàng Debenham tại Worcester hai năm trước. Tôi kêu ca là cái cây nhựa này chẳng hề có mùi thông quen thuộc, nhưng mẹ đã nói thẳng rằng tôi không phải là người phải đi hút bụi và nhặt lá thông rụng trên thảm. Cũng đúng thôi. Hầu hết những món đồ trang trí này đều có tuổi đời hơn tôi. Ngay cả những tờ giấy bọc của chúng cũng là giấy cổ. Đó là những quả bóng bằng thủy tinh mờ mà ba mẹ đã mua cho Giáng sinh đầu tiên (và cuối cùng) chỉ có hai người bên nhau, chưa có cả Julia và tôi. Một cô lễ sinh đang hát lên nốt cao, cái miệng chu lại thành một chữ o hoàn hảo. Một gia đình người tuyết bằng gỗ trông rất sinh động. (Trước đó, người ta còn chưa làm mọi thứ bằng nhựa như bây giờ). Ông già Noel béo nhất Lapland. Thiên thần Quý giá, do cụ ngoại của mẹ truyền lại cho. Thiên thần Quý giá được làm bằng thủy tinh màu nâu, đó là món quà mà cụ ngoại nhận được từ một hoàng tử mắt chột người Hungary tại một buổi vũ hội tại Viena trước khi Thế chiến thứ nhất nổ ra, nghe mọi người đồn vậy.
“Giẫm lên Thiên thần đi”, Thằng em sinh đôi chưa hề ra đời nói, “Nghe nó vỡ giòn tan thì thật tuyệt”.
Mày bị điên à, tôi bảo nó.
Điện thoại đột nhiên đổ chuông.
— Alô?
Những tiếng lách cách rồi lạo xạo - Jace à? chị Julia đây. Lâu lắm rồi mới nói chuyện với em.
Nghe như thể chị đang gặp bão tuyết vậy.
— Gọi lại cho chị nhé. Chị hết tiền xu rồi.
Tôi gọi lại theo số đó. Đường dây có vẻ tốt hơn.
— Chà chà. Chưa có bão tuyết, nhưng ở đây đang rét cứng lại đây này. Mẹ có nhà không?
— Không, mẹ vẫn ở phòng tranh.
— À...
Có tiếng cười khanh khách ở đâu đó xen vào.
— Gì thế chị?
— Hoàn toàn không có gì.
“Hoàn toàn không có gì” bao giờ cũng là có gì đó - Gì vậy, Julia?
— Không...không có gì. Sáng nay lúc chị quay lại ký túc xá, có một tin nhắn của mẹ, thế thôi. Tối qua mẹ có gọi cho ai không?
— Cũng có thể có. Tin nhắn gì vậy ạ?
— Gọi điện về nhà ngay. Nhưng người bảo vệ quá mẫn cán ở khu ký túc xá của chị lại không ghi thời điểm mẹ gọi đến. Chị gọi đến phòng tranh vào giờ ăn trưa, nhưng Agnes nói mẹ đã đến gặp luật sư. Chị gọi lại nhưng mẹ vẫn chưa về. Vì vậy chị nghĩ tốt nhất là gọi cho em. Nhưng cũng không có gì phải lo lắng đâu.
— Luật sư à?
— Chắc chỉ là chuyện làm ăn ấy mà. Ba có nhà không em?
— Ba đang đi phỏng vấn ở Oxford.
— Đúng rồi. Tốt. Nhất định là vậy rồi. Ba vẫn...em hiểu ý chị không nhỉ, ổn chứ hả?
— Vâng, ổn. Ba không còn giam mình trong văn phòng nữa, dù sao thế cũng tốt hơn rồi. Cuối tuần trước, ba tổ chức hẳn một đêm lửa trại trong vườn bằng giấy tờ hồ sơ còn lại của Greenland. Dean và em cũng giúp ba. Đổ dầu vào ấy mà. Giống hệt như phim Địa ngục dữ dội. Rồi trong tuần này, luật sư của Craig Salt thông báo cho ba biết là một nhân viên dọn đồ sẽ đến vào chiều hôm đó để lấy lại tất cả dàn máy tính, nếu ba không tỏ ra hợp tác họ sẽ kiện.
— Thế ba làm gì?
— Khi chiếc xe tải đến nơi, ba thả chiếc máy tính từ trên cửa sổ phòng em xuống.
— Nhưng phòng em là ở tầng hai cơ mà.
— Vâng em biết mà, và lẽ ra chị phải ở đó để nghe tiếng màn hình vỡ vụn ra từng mảnh! Ba nói với người đến dọn đồ: “Gửi lời hỏi thăm tới Craig Salt giúp tôi!”
— Lạy Chúa! Đúng là con giun xéo lắm cũng quằn!
— Ba còn trang trí lại nhà cửa nữa. Phòng ngủ của chị là hạng mục đầu tiên trong danh sách.
— Ừ, mẹ cũng kể rồi.
— Chị có phản đối không?
— Không sao. Cũng chẳng phải là chị muốn ba mẹ cứ giữ nguyên căn phòng như thể đó là một nhà tưởng niệm của Julia hoặc bất kỳ cái gì khác. Nhưng tự nhiên chuyện đó làm chị nghĩ: “Đúng rồi, bây giờ mày đã 18 tuổi, mày phải ra đi thôi. Nếu có dịp đi qua sau 30 năm nữa thì nhớ ghé lại ngôi nhà thân yêu nhé”. Ôi, đừng có để ý nhé, Jace, chị lại nghĩ lung tung rồi.
— Chị sẽ về nhà vào dịp Giáng sinh chứ ạ?
— Ngày kia. Stian sẽ lái xe đưa chị về. Gia đình anh ấy cũng có một trang viên ở Dorset.
— Stan[147] á?
— Không, Stian. Anh ấy là người Na Uy, tiến sĩ về ngôn ngữ của cá heo. Chẳng phải chị đã nhắc đến anh ấy trong lá thư vừa rồi là gì?
Julia biết chính xác chị ấy đã nhắc đến những gì trong thư viết về nhà.
— Chà chà. Vậy anh ấy cũng nói chuyện với chị bằng tiếng của cá heo à?
— Anh ấy viết những phần mềm để một ngày nào đó con người có thể nói chuyện với cá heo.
— Thế còn Ewan thì sao rồi?
— Ewan là một người bạn tốt, nhưng anh ấy ở Durham trong khi chị lại ở đây và... Ờ, chị đã là người chủ động. Xét cho cùng, đó là điều tốt nhất.
— Ôi. Nhưng Ewan có một chiếc MG màu bạc. Em rất quý anh Ewan.
— Vui lên đi. Stian có một chiếc Porsche.
— Lạy chúa, Julia. Loại nào hả chị? Một chiếc GT à?
— Làm sao chị biết được! Một chiếc màu đen. Mà chúng ta sẽ có gì cho lễ Giáng sinh vậy?
— Những thỏi kẹo Smarties - một câu nói đùa xưa như trái đất trong gia đình - thực ra em cũng chưa kiểm tra xem thế nào.
— Đúng rồi! Bao giờ em cũng đi săn lùng trước xem quà tặng là gì mà.
— Nói thật là lần này thì chưa. Chắc lại sách và băng đĩa thôi mà. Em cũng chẳng hỏi xin gì cả. Bởi vì...chị biết đấy, công việc của ba. Hơn nữa ba mẹ cũng không hỏi em. Mà ai ngày xưa thường bật những đĩa Giáng sinh ngay từ tháng 11 và bắt em đứng gác đề phòng ba mẹ đi mua sắm trở về?
— Em còn nhớ cái lần em không đứng gác không? Ba mẹ bắt gặp chị và Kate đang mặc bộ váy cưới cũ của mẹ và nhảy nhót theo bài Knowing Me, Knowing You (Biết anh biết em). Lại nói về chuyện đó, đại vũ hội mừng Giáng sinh của làng Thiên nga đen năm nay thế nào rồi?
— Sẽ bắt đầu trong khoảng một tiếng nữa.
— Em có đi cùng ai không?
— Dean Moran cũng đi, vài đứa bạn cùng lớp nữa.
— Ôi! Chị đã kể cho em nghe về kinh nghiệm yêu đương của chị rồi mà.
Nói chuyện về con gái với Julia vẫn còn là điều rất mới mẻ. Đó là bởi vì chị có nhiều kinh nghiệm yêu đương.
— Em cũng hơi thích một cô bạn gái, nhưng cô ấy...(đang giúp tình yêu lớn của đời mình tập đi với một cái chân giả) cô ấy không quan tâm đến em.
— Con bé ngốc quá. Tội nghiệp em.
— Nhưng điều kỳ lạ là tuần trước em gặp cô ấy ở trường, và thật lạ lùng, nhưng...
— Những rung cảm của em đã bốc hơi?
— Vâng. Tan thành mây khói. Tại sao lại có thể như thế hở chị?
— À, hãy học chị đi. Học Aristophanes. Học Dante. Học Shakespeare. Học Burt Bacharach.
— Mà thật ra, có lẽ em sẽ không đến vũ hội đâu ạ.
— Sao vậy?
>- Năm nay em không thấy háo hức với Giáng sinh cho lắm.
— Vớ vẩn! Đi đi! Đi giày da ấy nhé, đừng có đi giày thể thao. Đánh xi bóng lộn lên. Mặc cái quần jeans đen mà mẹ và chị đã mua cho em ở khu mái vòm Regent ấy. Mặc cùng với cái áo len màu xanh nhạt cổ tim nữa, nếu nó vẫn còn sạch. Bên trong mặc áo sơ mi trắng. Quần áo có kèm theo biểu tượng lỗi mốt rồi. Đừng mặc đồ quá bảnh chọe, nhưng cũng đừng thể thao, bụi bặm quá. Và nhất là đừng có mang cái cà vạt kinh tởm ấy nhé. Xức một chút nước hoa Giventry của ba. Đừng dùng loại Brut. Brut cũng gợi cảm chả kém gì Fairy Liquid. Trộm một ít keo vuốt tóc của mẹ rồi xoa cho tóc rối tung lên chứ đừng để thẳng nếp như thằng ngốc ấy. Em cứ nhảy cho rơi cả tất ra; và cầu cho con chim xanh may mắn sẽ bay đến đậu trên mũi em.
— Được rồi - Brose cùng với Little và Nashend sẽ thắng nếu tôi không đến - Tinh tướng.
— Một người tư vấn mà không tự tin thì làm được cái quái gì? Mà thôi, nhiều người xếp hàng gọi điện quá. Nói với mẹ là chị gọi nhé. Tối nay chị sẽ kiểm tra xem có tin nhắn nào mới không. Chị sẽ chờ muộn đấy.
Những cơn gió rét buốt da xô đẩy bước chân kẻ rác rưởi của cả lớp đến gần Brose, Little và Nashend hơn. Đi qua nhà cô Throckmorton là thấy nhà văn hóa của làng thấp thoáng trong màn đêm mùa đông, như một cung điện sáng lấp lánh xa xa. Cửa sổ của nhà văn hóa đã được bọc lại bằng giấy bóng màu cho phù hợp với không khí vũ trường. Michael Fish đã nói rằng khu vực áp thấp đang di chuyển đến quần đảo Anh bắt nguồn từ vùng Ural. Ural là dãy núi lớn của Liên Xô, giống như dãy Rockies ở Colorado nước Mỹ. Những bệ phóng tên lửa xuyên lục địa và những hầm chống bom hạt nhân được giấu sâu bên dưới những chân núi này. Có những thành phố nghiên cứu bí mật đến nỗi chúng hoàn toàn không có tên và cũng chẳng xuất hiện trên bản đồ. Tự nhiên tôi lại nghĩ đến một người lính Hồng quân đứng gác trên vọng gác vây kín dây thép gai giữa lúc gió rét giá buốt như thế này. Khí ô-xy mà anh ta thở ra có lẽ lại là thứ ô-xy mà tôi vừa hít vào cũng nên.
Chắc chắn Julia đã bịa ra câu chuyện vừa rồi để đánh lạc hướng tôi khỏi một bí mật nào đó.
Pluto Noak, Gilbert Swinyard và Pete Redmadey đứng ở sảnh lớn. Tôi thực sự không phải là người mà chúng ưa thích gì vì chúng tống tôi ra khỏi Ma quỷ ngay sau khi cho tôi nhập đội đúng một hôm. Chúng chẳng thèm đếm xỉa gì đến sự có mặt của tôi, như thể tôi không hề tồn tại. Bình thường thì cũng chẳng sao. Nhưng hôm nay lại còn cả một thằng to đùng đứng cùng. Mặt mũi bặm trợn, lởm chởm râu ria, áo da nâu choàng bên ngoài áo phông đen của đội bóng bầu dục All Blacks. Pluto Noak vỗ vai hắn ta và chỉ về phía tôi. Một nhóm con gái phía sau vô tình chặn mất đường rút lui của tôi nhưng đằng nào thì thằng cầu thủ bặm trợn cũng đã áp sát trước mặt tôi - Nó đây à?
— Vâng ạ! - Pluto Noak xun xoe đáp - Chính nó đấy.
Cả sảnh lớn lặng im phăng phắc.
— Có tin cho mày đây - hắn túm cổ áo tôi chặt đến nỗi tôi có cảm giác nghe thấy tiếng vải rách roạt - hôm nay mày trêu nhầm người rồi - môi hắn nghiến chặt bật ra từng con chữ trong khi không hề hé răng - mày là đồ ngu ngốc, bã đậu, không xương, không cu, không đít, cứt đái,...
— Josh - Pluto Noak túm lấy tay thằng này - Josh! Đây không phải là Neal Brose. Đây là Taylor.
Josh gườm gườm nhìn Pluto Noak - Chẳng phải đây là Neal Brose sao?
— Không, nó là Taylor mà.
Đang đứng dựa người bên cửa ra vào, Pete Redmarley búng một viên kẹo Ministrel lên không và hứng cho nó rơi tọt vào miệng.
— Đây - Josh trừng mắt quay sang Pete Redmarley - có phải là cái thằng Taylor đó không?
Pete Redmarley lơ đãng nhai viên kẹo - Ừ, ừ.
— Vậy ra mày là thằng Taylor - Josh buông cổ áo tôi ra - đã vạch mặt hai anh em sinh đôi lùn tịt nhà Kray, hai thằng đó còn đang trấn lột tiền em tao phải không?
— Em, em của anh là ai ạ? - giọng tôi vẫn còn run rẩy.
— Floyd Chaceley.
Không ngờ thằng Floyd Chaceley hiền lành lại có ông anh trai đầu gấu như thế này.
— Nếu vậy thì em đúng là Taylor đó đấy.
— Giỏi - Josh vuốt phẳng cổ áo lại cho tôi - mày giỏi lắm, Taylor ạ, nhưng nếu bất kỳ đứa nào trong bọn mày - tất cả bọn trẻ trong sảnh đều run rẩy dưới ánh mắt độc ác của hắn ta - biết mấy thằng Brose, Little hoặc Nashend kia ở đâu, thì nói với chúng nó là tao đang đợi ở đây và tao muốn chúng nó phải giải thích!
Bên trong nhà văn hóa của làng đã có vài đứa trẻ đang nhún nhảy theo bài Video killed the radio. Trong khi đó, hầu hết bọn con trai đang đứng dạt sang một bên, làm ra vẻ thờ ơ chưa thèm nhảy và hầu hết bọn con gái cũng vậy, cũng làm ra vẻ chẳng quan tâm. Sàn nhảy là một nơi rất nhạy cảm. Ta sẽ bị coi là một thằng điên kiêu ngạo nếu nhảy sớm quá, nhưng sau khi đã hết một bài khai mào mà bạn vẫn đứng dựa tường thì lại trở thành một thằng đần đáng thương. Dean đang nói chuyện với Floyd Chaceley cạnh quầy bán kẹo và nước ngọt - Vừa gặp anh trai mày xong - tôi bảo nó - Chúa ơi. Chắc chẳng ai muốn trêu ngươi anh ấy đâu nhỉ?
— Con riêng của bố dượng tao chứ không phải anh ruột - nhờ có tôi mà Floyd mới được dành cả buổi sáng trong văn phòng của thầy Nixon để đưa ra những bằng chứng chống lại Neal Brose. Tôi cứ đinh ninh là Floyd sẽ ghét tôi thậm tệ - Ừ, anh ấy máu chiến lắm. Giá mà mày được nhìn thấy anh tao sớm hơn. Lúc đó anh ấy còn dọa sẽ đốt nhà Brose.
Tôi phát ghen với Floyd, cho dù nhờ bố mẹ nó bỏ nhau nên nó mới có ông anh trai vàng ngọc như thế này.
— Chắc tối nay Nashend và Little sẽ không dám ló mặt đến đâu - Dean hiện ra bên cạnh tôi và chìa ra thanh sô-cô-la Curly-Wurly mời tôi cắn một miếng, Floyd thì mua cho tôi một lon Pepsi - Nhìn Andrea Bozard kìa! - Deal chỉ vào con bé thường giả vờ là con ngựa trong giờ học của cô Throckmorton - Nó còn làm tổ như chim và lấy quả sồi làm trứng, đúng là điên hết chỗ nói.
— Con bé mặc cái váy giẻ rách kia ấy à? - Floyd hỏi - Con bé đó làm sao?
Dean làm ra vẻ đang liếm môi thèm khát - Trông ngon lành quá nhỉ?
Đến bài Frigging in the rigging của ban nhạc Sex Pistols rồi đến nhóm Upton Punks xuất hiện. Steve anh trai của Oswald Wyre ngã cắm đầu vào tường, nên bố của Philip Phelps phải lái xe đưa hắn đến bệnh viện Worcester đề phòng nó bị hôn mê bất tỉnh vì chấn thương não. Nhưng chuyện đó càng làm bọn con trai nhảy nhót hăng hơn, người phụ trách âm nhạc chuyển qua bài Prince charming (Hoàng tử đáng yêu) của Adam và nhóm The Ants. Bài Prince Charming có tiết tấu rất lạ lùng với phần biểu diễn của Adam Ant trong đoạn băng quay bài hát. Tất cả mọi người đều đứng thành hàng và vẫy tay trên không theo tiếng nhạc. Nhưng ai cũng muốn là Adam Ant để được đứng tách hẳn trên đầu những người khác, thế là hàng người cứ không ngừng xô đẩy và cuối cùng điệu nhảy biến thành một cuộc chạy đua thì đúng hơn. Tiếp theo là bài The lunatics have taken over the asylum của nhóm Fun Boy Three. Đây cũng là bài có giai điệu rất kích thích và dễ nhảy, trừ phi ta là Squelch. Có thể Squelch nghe thấy một giai điệu bí mật mà không ai khác phát hiện ra.
Robin Shout hét toáng lên - Squelch, đồ bất lực!
Squelch thậm chí còn không để ý là tất cả mọi người đều đang nhảy.
Những điều bí mật có ảnh hưởng lớn hơn ta vẫn nghĩ. Ta phải nói dối để giữ kín chúng. Ta phải tìm mọi cách để hướng câu chuyện tránh xa điều bí mật mà mình đang che giấu. Ta lo lắng ai đó sẽ phát giác ra những bí mật của ta và tiết lộ cho cả thế giới cùng biết. Ta cứ đinh ninh mình đang chịu trách nhiệm về điều bí mật đó, nhưng thực sự thì chẳng phải nó đang kiểm soát ta đó sao? Không biết những bệnh nhân tâm thần tác động đến bác sĩ nhiều hơn, hay bác sĩ tác động đến bệnh nhân tâm thần nhiều hơn?
Trước ngưỡng cửa là Gary Drake.
Mọi khi thì tôi đã cứng người vì sợ hãi, nhưng nhất định không phải là một ngày như hôm nay.
— Ổn chứ? - Gary Drake lên tiếng. Mọi khi thể nào nó cùng đưa ra một câu thật khinh miệt để xúc phạm tôi. Nhưng tôi tự nhiên được hâm mộ đến mức Gary Drake cùng phải cất miệng hỏi “ổn không?”
Không khí lạnh giá của tháng 12 lùa qua những ô cửa sổ.
Trong sâu thẳm cái đầu mệt mỏi của tôi là câu trả lời dành cho Gary Drake - Ừ.
Những đầu lọc thuốc lá hút dở rít lên xèo xèo khi được búng xuống mặt nước trên sông.
Bài Do the locomotion khiến bọn con gái phấn khích xếp thành hàng dài nhảy điên cuồng. Sau đó đến bài Oops upside your heart với giai điệu giống như nhịp chèo thuyền. Đó không phải là một điệu nhảy dành cho bọn con trai. Nhưng bài House of fun thì khác. House of fun là bài hát nói về việc mua bao cao su, nhưng khi đài BBC cấm phát thì đã quá muộn vì bao giờ đài này cũng chỉ phát hiện ra ý nghĩa thực sự của các bài hát sau vài tuần khi thằng ngốc nhất ở Duffershire đã hiểu được. Squelch biểu diễn một kiểu nhảy giật điện mà nhiều đứa bắt chước để chế giễu nó, nhưng cuối cùng hóa ra lại rất độc đáo. (Có lẽ trong tất cả những nhà phát minh vĩ đại đều có một thằng Squelch.) Rồi đến bài Once in a lifetime của nhóm Talking Heads. Đó mới chính là bài hát chính của đêm nhảy, khiến cho thằng nào không nhảy mới thực sự là kẻ lập dị, và thế là cả tôi, Floyd và Dean đều tham gia rất nhiệt tình. Tay chỉnh nhạc bật ánh sáng nhấp nháy lên. Bật rồi lại tắt thành từng đợt, vì nếu để lâu, ánh sáng nhấp nháy làm đầu óc người ta như đảo lộn. Nhảy cũng giống hệt như cuốc bộ trên một con phố trung tâm chật cứng người và giống với cả hàng triệu những trò khác. Tuyệt vời nhất là khi ta làm điều gì đó mà không hề nghĩ gì đến nó cả. Giữa cơn bão ánh sáng đến mụ mẫm đầu óc, giữa những rừng cổ và cánh tay, tôi nhìn thấy Holly Deblin. Holly Deblin đang nhảy như một nữ thần trong thần thoại của Ấn Độ, lắc lư bên này bên kia, hai cánh tay múa may, ưỡn ẹo. Có lẽ Holly Deblin đã nhìn thấy tôi, bởi vì hình như con bé đã mỉm cười. (Hình như tất nhiên là không thể bằng đã, nhưng cũng còn tốt hơn vạn lần không hề.) Tiếp theo là bài I feel love do Donna Summer trình bày. John Tookey khơi mào cho trò khoe tài biểu điền kiểu nhảy mới nhập về từ New York có tên là break-dance, nhưng cuối cùng cu cậu bị mất đà rồi ngã nhào vào một đám con gái làm bọn chúng ngã lăn ra như những con quay. Bạn bè nó phải lao vào lôi thằng bé tội nghiệp ra trước khi nó bị những gót guốc nhọt hoắt xuyên thủng. Đến bài Jealous guy của Bryan Ferry, Lee Biggs bỏ ra ngoài cùng với Angela Bullock. Hai đứa hôn hít nhau trong góc trong khi Duncan Priest đứng ngay bên cạnh và giở trò bắt chước một con bò cái đang sinh con. Nhưng phải nói là trong những tiếng cười hưởng ứng vẫn có thể nhận ra sự ghen tỵ. Angela Bullock mặc áo nịt ngực màu đen. Thế rồi, đến bài To cut a long story short của Spandau Ballet, Alastair Nurton chuồn ra với Tracey Impney, con bé to cục mịch ở Brotheridge Green. Bài Are Friends electric? của Gary Numan và Tubeway Army vang lên là Colin Pole và Mark Badbury cùng thực hiện điệu nhảy rô-bốt rất lạ mắt - Bài này đã quá! - Dean hét vào tai tôi - Nó đi trước cả thời đại đấy. Gary Numan có một người bạn tên là “Five”! Nghe buồn cười nhỉ? - Nếu như khiêu vũ là một bộ óc thì những người tham gia khiêu vũ chỉ là các tế bào. Người khiêu vũ cứ đinh ninh mình nắm quyền kiểm soát tất cả, trong khi thực tế họ đang tuân theo những khuôn mẫu cổ xưa. Đến bài Three times a lady của nhóm Commodoré thì trên sàn chỉ còn những cặp yêu nhau thích được thiên hạ chiêm ngưỡng, và những đôi uyên ương thì cứ ngang nhiên hôn hít, dường như họ quên mất là đang đứng trước cả bàn dân thiên hạ. Giờ thì những lựa chọn thứ hai đang đi tìm lựa chọn thứ ba. Paul White chuồn đi với Lucy Sneads. Tiếp theo là bài Come on Eileen của Dexys Midnight Runners. Một sàn nhảy cũng là một vườn thú. Có những con thú khi đêm xuống lại tỏ ra hoang dại hơn ban ngày, vui nhộn hơn, có con thì lại nhút nhát hơn, con thì hấp dẫn hơn. Holly Deblin chắc hẳn đã về nhà.
— Tớ nghĩ cậu đã về nhà rồi.
Một tấm biển đề chữ LỐI RA nhấp nháy trên nền đèn màu xanh trong bóng tối.
— Tớ cũng nghĩ cậu đã về nhà.
Đám nhảy bên trong làm rung cả sàn nhà lát gỗ. Đằng sau sân khấu là một căn phòng nhỏ dùng làm nơi để bàn ghế. Tại đây còn có một chiếc giá lớn, cao khoảng mười foot, chạy dài suốt bờ tường. Người ta kê những mặt bàn bóng bàn ở đây và tôi còn biết họ giấu thang ở đâu.
— Không, tớ vẫn nhảy với Dean Moran.
— Thế sao? - Holly Deblin làm ra vẻ đang ghen - Dean Moran có cái gì mà tớ không có nhỉ? Cậu ta có phải là người hôn sành điệu không?
— Moran ư? Nghe tởm quá!
“Tởm quá” là từ cuối cùng tôi nói ra với tư cách là người chưa bao giờ biết hôn con gái là gì. Trước kia tôi luôn lo lắng nhưng hóa ra hôn cũng không khó lắm. Môi ta tự biết phải làm gì, cũng giống như hải quỳ tự biết phải làm gì. Hôn làm đầu óc ta đảo lộn, giống như trò Những chén trà bay. Thứ ô-xy mà cô gái thở ra chính là thứ ô-xy ta sẽ hít vào.
Nhưng răng ta rất có thể sẽ va vào nhau, đó là điều không tránh khỏi.
— Ối chà - Holly Deblin lùi lại - xin lỗi.
— Không sao. Mình có thể gắn lại chúng sau.
Holly Deblin vần vò mái tóc vuốt keo của tôi. Làn da quanh cổ con bé là thứ mềm mại nhất mà tôi từng vuốt ve. Và điều quan trọng nhất là nó để cho tôi làm điều đó. Kể ra cũng hơi ngạc nhiên khi nó để cho tôi làm. Từ người Holly Deblin toát lên mùi nước hoa, mùi hoa tháng bảy và mùi kẹo quế Tic-Tacs. Anh họ Hugo của tôi từng tính rằng anh ta đã hôn đến ba mươi cô gái (và không chỉ có hôn đâu nhé), có lẽ đến lúc này phải lên đến năm mươi cô rồi, nhưng dù thế nào thì cũng chỉ có một người đầu tiên.
— À - con bé thốt lên - tớ xoáy được một cây tầm gửi, xem này.
Trong cái hôn thứ hai, lưỡi của Holly Deblin luồn vào miệng tôi, như một con chuột đồng nhút nhát. Nghe thì có vẻ đáng kinh tởm nhưng thực ra lưỡi Holly rất mềm, ẩm ướt và tự nhiên tôi cảm thấy muốn dùng lưỡi mình khám phá trở lại miệng Holly và tôi đã làm như vậy. Cái hôn đó chỉ kết thúc khi tôi đã sắp đứt hơi - Bài hát này - tôi vừa nói vừa thở hổn hển - thật là đúng lúc. Nghe thì hơi phóng túng, nhưng phải nói là tuyệt vời.
Những từ như “tuyệt vời” ta không thể nói với bọn con trai thì hoàn toàn có thể dùng với bọn con gái.
— Bài No.9 dream của John Lennon. Đĩa Walls and Bridges năm 1974.
— Cậu thực sự làm mình thấy ấn tượng đấy.
— Anh trai mình làm ở hãng đĩa hát Revolver. Bộ sưu tập đĩa dung lượng lớn của anh ấy có từ ban nhạc Mars về sau. À, làm thế nào mà cậu lại biết cái xó này nhỉ?
— Phòng để đồ này hả? Mình thường sinh hoạt câu lạc bộ thiếu nhi ở đây mà, chơi bóng bàn nữa. Tối nay mình cứ tưởng người ta phải khóa nó vào cơ. Nhưng hóa ra là mình đã nhầm.
— Thì hẳn là nhầm rồi - tay Holly Deblin luồn xuống dưới quần tôi. Sau nhiều năm nghe Julia và Kate Alfrick nói mãi đến những gã dê già với bàn tay nghịch ngợm linh tinh nên tôi dè dặt không dám làm theo. Rồi đột nhiên người Holly Deblin run lên. Tôi nghi nó bị cảm lạnh, nhưng hóa ra nó lại đang cười khúc khích.
— Sao vậy? - tôi lo