← Quay lại trang sách

- III -

Học hết bốn năm, Lệ Dung đỗ ra, xin bổ ngay giáo học. Liêm Khê thi vào trường Cao đẳng Sư phạm.

Hôm sắp đến ngày khai trường thì bà Tú bị cảm, không thể đưa Lệ Dung đến chỗ làm việc được. Ông Tú phải cho người về Cao Xá mời bà Cử ra hộ cho việc ấy. Bà Cử thuê cho Lệ Dung được cái nhà thật xinh, ở ngay cạnh trường. Chính bà đem đồ đạc đi trước để bay biện sẵn sàng.

Bà trông nom cơm nước cho Lệ Dung đến khi chỗ ở thành nếp, đầy tớ quen việc bà mới về.

Bởi vậy, ở đó, người ta tưởng bà là mẹ cô giáo.

Hôm bà về Hà Nội, Lệ Dung buồn lắm, tiễn ra tận ga. Khi nghe tiếng xe lửa sắp tới, bà mỉm cười, nói:

- Thôi, chị về đi. Chăm chỉ làm việc nhé. Ở đâu quen đấy, rồi cũng thấy vui. Vả lại tiện tầu xe, chị về thăm thầy me luôn.

- Cháu định cuối tháng này mới về. Bác nói với me cháu là nếu chưa thực khỏe, thì đừng đi vội.

- Được, tôi nói chuyện, chắc thầy me yên tâm.

Lệ Dung chào bà Cử. Bà Cử thở dài:

- Biết bao giờ em Khê nó bổ ra, để tôi được đi dọn nhà cho nó!

Lệ Dung không đáp, chào bà Cử lượt nữa, rồi quay về.

Đến nhà, nàng thấy quạnh hiu hết sức. Từ thuở bé, nàng chưa xa cha mẹ bao giờ và cũng chưa ở một mình như thế này bao giờ.

Nàng lấy cuộn len ra đan. Nhưng nóng ruột, lại lấy sách ra đọc. Song, mắt nhìn vào trang giấy, nàng nghĩ đi đâu đâu.

Nàng đứng dậy hé cửa trông ra phố.

Vẩn vơ, nàng nghĩ đến tương lai. Bà Cử đã ngỏ lời xin nàng cho Liêm Khê, và được cha mẹ nàng bằng lòng. Nàng sẽ là vợ Liêm Khê. Đời nàng như vậy là mãn nguyện quá. Nàng đã trông rõ thấy hạnh phúc.

Liêm Khê hẹn cứ mỗi tuần lễ gởi cho nàng một bức thư, và nàng cũng trả lời cho Liêm Khê được vui vẻ.

Nhưng từ hôm khai trường, nàng chưa tiếp được một lá thư nào, cả của cha mẹ lẫn của Liêm Khê. Nàng chỉ phải viết trả lời các bạn gởi hỏi thăm thôi.

Cha mẹ nàng chắc rằng chờ bà Cử về để hỏi chuyện rồi mới viết cho nàng. Nhưng còn Liêm Khê hiện nay trường Cao đẳng chưa khai giảng, chàng được rỗi rãi. Vậy mà chàng đã lười biếng, không có một chữ gởi đến nàng. Hay chàng không muốn viết vì bà Cử còn ở đây? Hay chàng cũng chờ bà về, được biết nơi ăn chốn ở của nàng, rồi mới bắt đầu thư từ? Còn như nàng, nàng có nhiều chuyện kể cho chàng nghe lắm. Nàng đã ghi cả vào sổ. Nào tả cái cảm tưởng lúc bước chân từ trên xe lửa xuống đất, để đi đến trường mới. Nào tả cảnh trường, nhà, và vùng nàng ở. Nào nói cái cảm tường buổi học đầu tiên. Rồi cả những lúc thơ thẩn một mình như lúc này, nghĩ đến những người thân thích. Nàng buồn. Đời học trò vui vẻ, vô tư lự đã hết. Nàng bước chân sang một đoạn đường khác, đoạn đường của những người có bổn phận dìu dắt bọn đàn em, làm ích cho xã hội. Nàng sực nghĩ đến những lời khuyên của bà Đốc, khi bọn học trò đổ ra đến chào bà. Nàng không biết có noi theo được hết những lời giáo huấn cuối cùng ấy không. Một cô giáo, nhất là một cô giáo trẻ tuổi còn son rỗi ở một mình nơi xa lạ thì cô giáo ấy có biết bao nhiêu sự phải giữ gìn, giữ gìn về đời công cũng như giữ gìn về đời tư.

Một hôm về tháng Chín, ông Tú hẹn với Liêm Khê là Chủ nhật sau, sẽ cùng về thăm Lệ Dung, nhân tiện đi xem một nơi thắng cảnh ở vùng đó. Ông bảo Liêm Khê ở trường cứ ra thẳng ga rồi chờ ông, đi chuyến xe lửa thứ nhất.

Nhưng vì tối thứ Bảy ông lại có khách, nên hôm sau không thể đi được. Ông không kịp cho người vào trường nhắn Liêm Khê; thành thử Liêm Khê đi một mình.

Sau cuộc trèo núi hôm ấy với Lệ Dung, Liêm Khê về Hà Nội rất khoan khoái. Chàng có gửi cho nàng bức thư sau này.

Lệ Dung

Hôm nay tuy mệt, song tôi không sao ngủ được. Lúc nào cũng mơ màng, tưởng đến cái thú lúc ban ngày. Bây giờ là hai giờ sáng rồi, Lệ Dung ạ. Tôi nằm trong màn nhìn ra, ngọn đèn lờ mờ soi vào cái ảnh Lệ Dung để ở bàn giấy, con thiêu thân chập chờn bên ngọn lửa trông vui mắt đáo để, làm cho tôi phải ngồi dậy viết bức thư này. Gọi là ghi chút kỷ niệm của Lê Dung cùng tôi.

Lệ Dung nhớ nhé, hôm nay là ngày tuần tháng cuối thu nhỉ. Buổi sáng tôi dậy thật sớm, bởi vì tôi mong mỏi cuộc đi chơi từ tối hôm qua. Lúc nào cũng thấp thỏm chỉ sợ nhỡ tàu, hẳn Lệ Dung tha hồ trách móc.

Tôi mở cửa nhìn trời, chỉ có rặng đèn điện và vài ngôi sao là thức cả đêm, như vẫn thao láo mắt, chứ lúc này không cái gì có vẻ hoạt động cả.

Tôi chờ mãi không sáng. Tiếng tích tắc đồng hồ treo ở tường vẫn đập một cách vội vàng. Nhưng sao mãi cái kim mới nhích được một tí. Thì ra cùng một thì giờ, mà cái thì giờ tôi mong gặp Lệ Dung rất lâu, sao cái thì giờ tôi gặp Lệ Dung nó đi chóng đến thế.

Tôi ở trên tàu bước chân xuống ga trông thấy trời quang mây tạnh mà mừng, những cảm ơn ông xanh khéo tựa lòng khách.

Từ ga về đến cái cầu ấy, tuy xa nhưng xuôi gió tôi đạp không thấy mệt. Phong cảnh du dương làm tôi quên hết nhọc nhằn. Rặng núi đá lô nhô xanh ngắt, đứng sừng sững soi gương xuống làn nước phẳng lặng, trong veo; cánh buồm trắng phẳng theo chiều gió chạy với đám mây xám. Tôi vặn ống dòm, nhìn bốn bên, những mảnh ánh nắng ngang lách vào khe các đồi màu lam ở đằng xa làm thành một bức vẽ có những màu cực kỳ vô lý.

Tôi đi lại ở cầu, chờ Lệ Dung, lúc ấy đến chín giờ rồi. Tôi quay lại phía đường ban nãy để ống dòm lên mắt. Ngóng mãi không thấy xe Lệ Dung tới nơi. Bỗng cơn gió lạnh nổi lên, rồi kéo đến mưa rào.

Phong cảnh lờ mờ như mộng. Tôi mong quá, vừa mong vừa thất vọng, hay Lệ Dung thấy mưa mà không đi nữa chăng? Hết mười lăm phút đến nửa giờ, cố nhìn vào ống dòm đã thấy hoa cả mắt, mà đằng kia đi lại, chỉ lác đác những người nón lá áo tơi.

Mưa nặng hạt làm ướt cả quần áo. Tôi dắt xe thong thả đi ngược trở lại, chờ đến mười phút nữa, mới vào một cái hàng bên cạnh đường, trong bụng rất bực dọc. Tôi vơ vẩn, đã toan trở lại nhà Lệ Dung xem có việc gì ngăn trở hay sao.

Nhưng may sao, khi ngó ra ngoài, thì kìa, một cái xe đàng xa, tùm hum cái mui và chiếc ô màu, đương lừ lừ chạy lại. Tôi vui vẻ như cất được gánh nặng, sửng sốt cả người, quên cả mưa gió, cuống quýt dắt xe đạp chạy ra đón.

Hai nụ cười đằm thắm, bốn con mắt âu yếm. Tôi thấy gió mưa mà phàn nàn cho Lệ Dung quá đúng hẹn cùng tôi, đến nỗi vất vả.

Tôi còn văng vẳng nhớ những lời chúng ta nói chuyện. Lệ Dung hỏi:

- Anh chờ có lâu không?

- Độ một giờ! Nóng cả ruột, tôi tưởng Lệ Dung ngại mưa mà không đi.

- Lệ Dung nỡ nào sai hẹn cùng anh để anh phải nhịn đói. Tại em phải bắt nó sửa soạn thức ăn để mang đi. Tội nghiệp, anh có ướt không?

Thấy Lệ Dung ái ngại cho tôi, tôi không đành tâm trả lời thực, mới cười mà nói rằng:

- Lệ Dung ngồi nép sang bên này để tránh mưa đi.

- Không cần. Anh lái xe sang bên kia, em che ô cho. Xin lỗi anh nhé. Nó làm cơm chậm quá.

- Cơm ăn với gì?

- Hôm nay chúng ta trèo cao thì ăn với thứ biết bay.

Chúng ta nhìn nhau cười, rồi tôi kể cho Lệ Dung nghe những ngày tôi ở Hà Nội như làm một bài tường thuật trong khi vắng Lệ Dung.

Lúc ấy mưa đập vào rát mặt, gió to tạt cả xe, tôi đạp nặng quá. Độ nửa giờ thì đường phải qua lối hẹp trên bờ ruộng, gồ ghề, chỗ cao chỗ thấp. Lệ Dung phải xuống xe đi bộ.

Trời lại ngớt mưa, nhưng quần áo tôi ướt hết, mà ô và vạt áo Lệ Dung cũng đẫm nước. Đi bộ độ hai cây số nữa thì đến chân núi. Lệ Dung trông cái lối đi ngoằn ngoèo theo sườn đồi lên, cười nói đùa với tôi rằng:

- Rồi anh xem, Lệ Dung em quen trèo núi lắm, anh cứ đi trước, em sẽ lạch đạch theo sau như con vịt!

Cho xe đỗ ở gốc đa, Lệ Dung cùng tôi bốn gót giầy thoăn thoát bước lên, vừa đi vừa nói chuyện, vừa nhìn phong cảnh.

Trận mưa mới lại gieo những hạt nặng, mà càng lên cao, gió càng thổi mạnh. Nhưng càng mưa gió câu chuyện càng nồng, mối tình càng khăng khít. Cho nên vui chân quên cả nhọc nhằn, lối vào chẳng biết rằng gần hay xa.

Đường dốc, đá lô xô, quanh co. Lệ Dung cùng tôi lúc thi nhau đi, lúc đứng lại nhìn phong cảnh. Con đường đo đỏ ngòng ngoèo giữa cánh đồng xanh rì, làn nước phau phau quanh co bên rặng núi xám ngắt, mây theo gió, cỏ rạp đầu. Xung quanh chỉ có hai người trần tục ở cả dưới chân núi, hay chúng mình trông tỏ lối vào Thiên thai? Ừ, chẳng phải cảnh tiên, sao chúng mình được thần tiên như vậy nhỉ?

Lệ Dung để ống dòm lên nhìn, trỏ tay xuống hỏi:

- Kìa, anh ơi, dưới kia làng mạc bao la trong đó nhung nhúc biết bao nhiêu người, ghê gớm quá nhỉ. Em chỉ thích những nơi êm tĩnh như thế này thôi. Một người bạn thân, một phong cảnh đẹp, đó là hai thứ có lẽ làm em quên nỗi đời.

Đến một nơi khuỷu núi, trống quá, ngọn gió thổi mạnh, Lệ Dung tạt cả ô đi. Tôi nói:

- Em trông dưới chân núi sâu thăm thẳm có sợ không? Đi vào mé trong này, tôi cầm ô che hộ cho kẻo người theo ô đưa nhau cả xuống vực bây giờ.

Đường lên gần đến nơi, dốc càng cao, đôi ta đứng nghỉ một lát.

- Lệ Dung có mệt không?

Thấy Lệ Dung lắc đầu, tôi cũng biết rằng muốn giấu, nhưng Lệ Dung đáp một câu làm tôi cảm động:

- Đường đi vất vả bao nhiêu, cuộc chơi càng thú bấy nhiêu, mà có thú mời nhớ lâu.

Tôi mỉm cười, nói:

- Từ thuở bé, tôi chưa được lần nào đi chơi thích như lần này.

- Em cũng vậy.

Tại sao lại thích, Lệ Dung? Bởi vì chúng mình đi chơi khi ngược đời quá, mà cái gì làm trái ngược mới thấy lạ hơn sự thường.

Đỉnh núi có cái ao nước. Lệ Dung đứng trên hòn đá, tựa tay vào cây sung để rửa chân. Sắp lại món tóc và áo quần, chúng ta vào chùa để tụ mưa gió. Nhà chùa tiếp đãi tử tế, Lệ Dung bỏ ra hai hào, rồi nói:

- Chúng tôi mới ở Hà Nội về, không tiện mua vàng hương lễ Phật, gọi là có tí chút, nhờ nhà chùa sửa cho cái lễ.

- Vâng, mời ông bà vào lễ.

Buồn cười câu nói vô tình và thấy Lệ Dung liếc mắt ra hiệu, tôi hữu ý, đỡ lời:

- Chẳng nói giấu gì nhà chùa, chúng tôi thấy phong cảnh đẹp đẽ thì rủ nhau đến xem, gọi có chút lòng thành cúng Phật, còn như lễ thì xin miễn, vì chúng tôi có đạo.

- Vâng, thì xin thôi.

Lệ Dung lại nhìn tôi mà cười. Ngồi đó một lúc, chúng ta dạo xung quanh. Này cây quế đánh tận núi Yên Tử về, nọ cây sung sống đã mấy trăm năm, mọc ở bờ giếng.

Lúc ấy trời đã quang, mây đã tạnh, chúng ta cáo từ mọi người lên đền để ngả thức ăn ra.

Trèo độ hai mươi bậc thì đến đền, là chỗ cao nhất núi. Đặt gói cơm ở cửa tam quan, Lệ Dung trỏ cho tôi biết các nơi.

Cái cảnh êm đềm này, có được hưởng mới biết thú, chứ bây giờ viết ra đây, chỉ nói được một phần trăm, nhất là cái thư này, tôi chỉ cốt viết để ghi việc chứ không phải bài văn tả cảnh, nên nó khô khan, vả trong mình mệt nên lời nói khi buồn.

Trong khi Lệ Dung nhìn ống dòm để xem sở mỏ tôi đứng cạnh, tấm áo Lệ Dung bay phừn phụt, làm tóc Lệ Dung đập vào má. Tôi thấy thế, những cảm ơn trời.

Lúc ấy đã mười hai giờ rưỡi, mà không ai thiết đến ăn vội; chúng ta còn rủ nhau leo trèo ra đằng sau đền. Tôi đi trước, rẽ cây lạch lá, cho Lệ Dung theo sau. Bên chỗ phải trèo cao hơn một thước, tôi dài chân bước lên được, rồi giơ hai tay ra đón Lệ Dung.

Lệ Dung rún người lên, song chẳng ngờ sức rún mạnh quá, tôi kéo lên không kịp, lạng người ra, một suýt Lệ Dung kéo cả tôi ngã lăn xuống. Nhưng tôi nhanh, lôi phắt Lệ Dung lên được thì Lệ Dung vấp ống chân vào tảng đá, vồ vào lòng tôi. Hai mặt xám ngắt nhìn nhau, cúi xuống cái vực thấy sâu thăm thẳm mấy trăm thước mà hú vía! Tôi, trống ngực thình thình, hỏi:

- Lệ Dung có sợ không?

Lệ Dung để tay vào ngực, nói:

- Vẫn còn đập mạnh lắm. Giá chúng ta đưa nhau lăn xuống, hẳn ngày mai các báo đã được mấy cột đầy, thu hồ cho họ khép án anh em ta nhỉ.

Ngồi nghỉ dăm phút cho hoàn hồn, chúng ta đứng trên mõm núi cao. Gió to như thổi bạt cả linh hồn, tôi bảo dù chẳng là cảnh tiên cũng là cảnh mộng; cho nên chúng ta rủ nhau ngồi bệt xuống cỏ ướt mà chuyện trò.

Tiếng còi sở mỏ rúc, Lệ Dung giật mình nói:

- Một giờ rưỡi rồi, ta phải ăn chứ!

Bữa cơm hôm ấy thích quá nhỉ. Gạo trắng nắm cơm thật mịn, ăn với thịt chim nhồi cốm và gà rán thì còn gì bằng. Thành ra Lệ Dung và tôi cứ ép nhau ăn, và chúng mình ăn gấp rưỡi bữa thường đấy. Chưa có bữa nào tôi thấy ngon miệng bằng bữa ãy, ngon chẳng phải ở vật chất mà ở tinh thần. Tôi tiếc bữa cơm ấy, muốn cho nó còn mới mãi, nên về đây, tôi không ăn bữa chiều. Trong khi ăn, tôi nói:

- Tôi chưa được sung sướng như thế này bao giờ.

- Em cũng vậy.

- Tại làm sao, Lệ Dung có hiểu không?

- Em không biết.

- Tại chúng ta chưa phải là vợ chồng.

Lệ Dung mỉm cười, gật đầu. Tôi tiếp:

- Nghĩa là chúng ta âu yếm nhau như anh em ruột.

Mà thực đấy, Lệ Dung ạ. Đã là vợ chồng thì đi chơi như thế, không thấy hứng thú nữa. Ở xã hội ta, vợ chồng là hai người đỡ đần lẫn nhau vì công việc, chứ không phải đôi bạn. Mà dù trước có là đôi tri kỷ chăng nữa, nhưng khi đã lấy nhau, cũng mất hết cả cái vẻ êm đềm khi còn là bạn; bởi vì lúc đó, chữ nghĩa nặng hơn chữ tình. Nếu Lệ Dung là vợ tôi, có lẽ lúc này, khi ăn xong thì tự Lệ Dung phải té nước lấy rửa mặt, chứ tôi chẳng vục bát vào bể múc ra giội cho Lệ Dung đâu! Lệ Dung còn nhớ hôm nào chúng mình đi tầu không? Lệ Dung và tôi thì chuyện trò mãi không dứt, mà gần đó, có hai vợ chồng người thanh niên ngồi cạnh nhau trông buồn tẻ quá chừng. Vợ thì xem báo, chồng thì ngẩn mặt ra nghĩ, chứ chằng ai nói với ai một câu. Tôi có trỏ cho Lệ Dung bật cười và giảng cho Lệ Dung biết khi là vợ chồng thì mất hết vui thú. Những cái lo ăn lo mặc, lo gánh vác gia đình, nó làm cùn cả ái tình đi, đến nỗi lâu rồi ái tình không còn nghĩa lý gì nữa.

Lệ Dung ạ, tôi ước chỉ là bạn của Lệ Dung mãi mãi, chứ không mong kết hôn với Lê Dung vội. Vì tôi muốn yêu Lệ Dung suốt đời. Nhưng làm thế nào được? Con đường của người ta đi, ông trời đã vạch sẵn, ai theo lối khác được?

Tôi nói vậy, Lệ Dung có buồn không? Lệ Dung thử nghĩ lại, khi ăn cơm xong, chúng mình đứng cạnh tam quan. Một cử chỉ đầu tiên tôi tỏ lòng âu yếm Lệ Dung, có lẽ suốt đời tôi không quên. Bây giờ nhớ lại tôi vẫn còn thổn thức. Thật đấy, cái hiện tại nó chỉ bền được trong chớp mắt, rồi nó đi, nó đi, mà ác làm sao, nó để lại cho người ta mấy mươi năm nhớ tiếc!

Rồi sau đây, chắc chúng ta đi chơi với nhau còn nhiều, song hẳn không bao giờ êm ái được bằng lần đầu này nữa.

Trời khuya lắm rồi, xin phép Lệ Dung cho tôi dừng bút. Bao giờ Lệ Dung về, cho tôi biết trước. Trả lời để tôi khỏi mong.

LIÊM KHÊ

Tiếp được thư, Lệ Dung trả lời:

Anh Liêm Khê,

Hôm qua về, sau một lúc nghỉ ngơi ăn tí cháo, rồi em anh đi nằm ngay, mình hơi mỏi mệt.

Tuy mắt nhắm nghiền, mà cái phim ảnh qua đèo trước gió của anh em mình nó vẫn từ từ quay trong óc, chiếu sáng lá trướng rủ trước mặt rõ rệt. Nào những lúc xe đi lắc la lắc lư, bước cao bước thấp, lúc lên lúc xuống, vất vả mãi mới tới chân đồi, tiếp những lúc bọn anh em xa sườn núi, leo trèo, khi dừng chân trò chuyện, ngắm cảnh, chiếu ống dòm nom xa, núi non thăm thẳm, ruộng nước bao la.

Đứng trên cao nhìn xuống mà bỗng dưng xác thịt tựa thấy nhẹ nhàng khoan khoái, tâm trí hình như tha thướt trên ngọn núi lờ mờ, theo làn gió thổi, rồi cùng nhau như bay như cuốn lên mấy tầng mây, mà riêng phần em quên hẳn cái sầu vơ vẩn không mối, ngày thường em vẫn phàn nàn ấy mà, và quên hết cả sự thực ở đời vậy.

Anh ơi! Anh còn nhớ bữa cơm ư? Em cũng vậy. Ăn tuy không đũa mun bát kiểu mà sao ngon lạ ngon lùng. Rửa mặt té nhào vài bát nước, sao cũng xong sạch, mà sao lại đượm lắm vẻ thú vui. Thế mới hay cho người đời thích nhiễu sự, rườm rà vô ích, và tiếc cho lắm kẻ không biết tìm những cái vui tao cái nhã thú thanh cao, mà tạo hóa có để riêng phần cho ai đâu, rồi cứ tìm những cái thú vui trong hang sâu vực thẳm.

Nhắc tới lúc ngã, anh trống ngực thì em cũng rùng mình hú vía, nhìn kẽ chân vết xước còn đó mà em phải mỉm miệng cười, cười cái vô ý của anh em ta. Bận sau chúng ta làm gì nên có ý một tí mới được.

Thôi, tóm tắt vài lời, anh khỏi mong tin. Chúc anh về đừng vồ ếch đấy. À, cái ảnh hôm nọ anh mất, nay bỗng em thấy trong một quyển sách, xin gởi trả lại anh.

D. N. là cái biệt hiệu có gì là lạ đâu!

EM ANH LIÊM KHÊ

Trong tháng Chạp tây năm 1929, Lệ Dung có hai tin mừng. Mồng mười, Lệ Dung tiếp thư Liêm Khê báo tin được bổ giáo sư, dạy trường Trung học Bảo hộ; ngày 17, lại tiếp tin nhà cho biết đến 25 này, bà Cử xin làm lễ ăn hỏi, mà vì hôm ấy là thứ Năm, Lệ Dung nên về cho gia đình thêm đông đúc vui vẻ.

Song, tuy mừng mà Lệ Dung cũng không khỏi lo, cái lo ngổn ngang, cái lo êm đềm của người thiếu nữ sắp đổi cảnh ngộ.

Thường những lúc canh khuya đêm vắng, Lệ Dung vắt tay lên trán mà trằn trọc thở dài, có khi buổi học, lúc giờ chơi, Lệ Dung tựa khuỷu lên bàn, mà ứa nước mắt.

Nhưng hôm 24 tháng Chạp tất thế nào cũng đến, tuy Lệ Dung ước cho ngày tháng đi chậm như sên. Tan học chiều, Lệ Dung sắm sửa về Hà Nội.

Đứng chờ xe lửa ở trước ga, Lệ Dung thấy phong cảnh lúc đó đẹp hơn các chiều khác. Mây trời đã nổi lên một màu phơn phớt, lơ lửng theo chiều gió xô giạt vào nhau. Ánh nắng nhạt của mùa đông vẽ lờ mờ những bóng người dài tha thướt trên sân trị, lá cây ẻo lả đùa với gió lả lơi, gục vào nhau.

Được một lúc, Lệ Dung quên bẵng đời người con gái sắp lấy chồng, thì một tiếng hét làm cho nàng giật mình. Con tầu xình xịch đến, cảnh huyên náo tấp nập lại làm cho nàng nhớ đến nỗi riêng mà vẩn vơ buồn nghĩ.

Đến Hà Nội, Lệ Dung thấy đèn sáng trưng, người đi lại các phố rầm rậm; về tới nhà thấy đồ đạc trang hoàng, Lệ Dung càng lo tới cái cảnh đời sau này, tức là cái đời gánh vác, cái đời thêm biết bao nhiêu bổn phận mới.

Ngày 25 là ngày làm cho Lệ Dung xiết bao hồi hộp. Chín giờ sáng, nàng trang điểm xong, ngồi trong buồng, thừ người ra nghĩ ngợi. Bỗng một tràng pháo nổ, làm nàng bàng hoàng như mê như mộng, nửa vui nửa buồn.

Vốn hai họ không phải xa lạ, nên ông bà Tú cho phép Lệ Dung ra tiếp khách đàn bà họ nhà trai.

Nàng thấy Liêm Khê mặc quần áo ta. Ngồi cạnh chàng có Hải Ngọc, là bạn thân. Nhìn chàng tươi tỉnh như hoa thì bao nhiêu nỗi buồn của nàng tiêu tan đi hết. Hai người mỉm cười cúi chào nhau, Lệ Dung mời khách, chuyện trò tự nhiên như người vẫn quen thuộc.

Bà Cử xưa nay vẫn yêu quý Lệ Dung, nên ngồi ngay cạnh, vồn vã hỏi:

- Thế nào? Cô giáo xin phép mấy hôm?

- Thưa bác, con được phép nghỉ hôm nay, không phải xin phép.

Một bà nghe câu trà lời, pha trò ngay:

- Đẻ chứ lại bác, thôi cứ gọi là đẻ sẵn cũng được.

Lệ Dung tuy bạo dạn, nhưng hai gò má cũng đỏ ửng. Ngượng ngập, nàng nhìn chung quanh, thấy Liêm Khê ngồi đằng xa, cũng đương để mắt vào mình mà tủm tỉm chế giễu. Bà Cử nói:

- Sao độ này chị hốc hác thế? Có ăn được không?

Bà Tú đáp:

- Cháu nó lo đấy, bác ạ.

- Chà! Nghĩ ngợi làm gì, làm con gái ai chả phải thế?

Rồi mỗi người nói thêm một câu, làm cho Lệ Dung thẹn quýnh.

Nước pha vài chén xong, Liêm Khê lễ bàn thờ. Gần mười giờ thì cỗ bưng ra.

Bữa ăn hôm ấy, vui vẻ lạ thường. Lệ Dung cũng thấy nhiều người trêu, càng thẹn thò, và càng thẹn thò, càng tỏ vẻ đẹp. Hai má lúc nào cũng phơn phớt hồng, hai hàm răng đều đặn lúc nào cũng lộ ra ở dưới cặp môi thắm để đón lấy những câu nói đùa của các bà họ nhà chồng.

Trái lại Liêm Khê ngồi ở bàn trong không nói năng vui vẻ như mọi bận. Có lẽ chàng sung sướng quá hóa mất vui. Một đôi khi cũng làm ta nao lòng như cái đau đớn.

Ông Tú biết Liêm Khê cảm động, bèn kiếm chuyện hỏi cho chàng rể vui lòng.

- Thế nào, cái nhà mới thuê ở phố trên ấy anh ở hiện có vừa không?

- Bẩm bác kể ra thì cũng không được rộng lắm. Nhưng cháu cũng định ở đó mãi, vì chỗ ấy mát mẻ và sạch sẽ chứ bác bảo còn ở đâu nữa.

- Tôi chỉ ưa nó có nhiều cửa về phía Hồ Tây, ở đó ít người hơn trong các phố huyên náo.

- À, anh được bổ đã viết thư cho em Dung biết chưa nhỉ? Hôm qua líu tíu thành ra tôi quên mất, không nói chuyện mà cũng không hỏi nó.

- Bầm đã ạ

- Ừ, rồi sau này, anh làm thế nào vận động để hai vợ chồng được ở một nơi cho tiện nhé.

- Bẩm có thể được. Về ngạch học chính người ta vẫn cho cái đặc ân ấy.

- À, giá chị ấy được dạy trường Hàng Cót thì buồn cười đấy nhỉ?

Liêm Khê mỉm cười sực nhớ lại ngày lên tám lên chín ngây thơ. Trước mắt Liêm Khê hiện ra cái xe nhà trên có hai đứa học trò bé xíu ngồi, cùng nhau thỏ thẻ nhỏ to, bẻ chia nhau miếng ô-mai. Một cuốn phim ảnh mấy năm trời đương quay trong óc chàng, thấm thoắt đã mười mấy năm, người bạn thơ ngây thủa xưa nay đã trở nên người, để đỡ đần công việc ở gia đình.

Người đông chật trong nhà ăn uống, chuyện trò thân mật.

Nhưng 11 giờ vừa thong thả điểm, bỗng tiếng ồn ào ở trong nhà, người ta nhận thấy tiếng xình xịch xe ô-tô ở ngoài đường, đến trước cửa thì đỗ.

Tiếng giầy tây nện cồm cộp trên vỉa hè và tiếng gõ cửa cành cạch.

Mọi người nhìn nhau ngơ ngác.

Ông Tú gọi người nhà bảo:

- Mày xem ai hỏi gì.

Tên đầy tớ vừa mở cái lỗ con ở cánh cửa, bỗng quay lại, tái mét mặt, tiếng gõ cửa càng dồn.

Ông Tú chưa hiểu sao nhưng cũng ngờ là quái gở, liền thân hành ra xem việc gì.

- Mở cửa mau!

Sau tiếng giục rất có vẻ quyền hành, thì ông Tú thò tay ra đẩy then. Hai cánh cửa mở toang mọi người quay mặt ra nhìn. Thì chao ôi! Một bọn người vừa tây vừa ta độ năm, sáu người đã đứng lố nhố ở bậu cửa. Một cái im lặng ngạc nhiên, ai nấy đứng dậy, ngơ ngác chú ý vào bọn người tự nhiên đến quấy rối cuộc vui êm đềm trong gia đình.

Liêm Khê muốn ai nấy im lặng, bèn nói khẽ:

- Họ lầm.

Rồi mạnh bạo tiến ra cửa hỏi:

- Các ông muốn gì?

- Tôi có lệnh bắt một người trong bọn các ngài.

Cả nhà ngơ ngác nhìn nhau, như muốn xem ai là kẻ có tội.

Liêm Khê nghe câu nói như sét đánh ngang tai, bàng hoàng chưa hiểu cái lưới kia giăng ra để chụp ai, bèn hỏi:

- Một người trong bọn chúng tôi?

- Phải, xin lỗi các ngài, các ngài cho chúng tôi biết trong các ngài, ai tên là....

Một phút im lặng. Mọi người sợ hãi, trống ngực thình thình. Song ai cũng đinh ninh là mình vô tội.

Liêm Khê hỏi:

- Tên là....

- Tên là Nguyễn Liêm Khê.

Bao nhiêu mắt đều đổ đồn vào người thiếu niên anh tuấn đang đối đáp cứng cỏi. Liêm Khê vẫn điềm nhiên, tiến lên một bước, đáp:

- Thưa ông, tôi đây, Nguyễn Liêm Khê đây.

- Vậy thì tôi phiền ông đang ăn tiệc vui vẻ, thay mặt pháp luật, tôi có lịnh bắt ông.

Liêm Khê mỉm cười, vẫn không tỏ ra nao núng, hỏi:

- Về việc gì?

- Về việc gì quan tòa sẽ trả lời ông, mời ông đi.

- Vâng.

Ai nấy im bần bật, Liêm Khê quay lại an ủi:

- Xin ở nhà đừng lo, con đi một lát, con lại về ngay.

Rồi chàng tiến lên, đi trước mọi người.

Chiẽc ô-tô mở máy, Lệ Dung bỗng bật lên một tiếng khóc...