← Quay lại trang sách

- IV -

Nhưng sáu tháng qua, Lệ Dung không hề được tin tức Liêm Khê. Ông Tú đã hết sức kiếm cách thông tin với chàng để hỏi xem chàng mắc tội gì, nhưng không được.

Hôm Liêm Khê bị giải đi, cả nhà rụng rời chân tay, bà Cử và Lệ Dung ôm nhau khóc lóc thảm thiết, nhưng chỉ là thương con, thương chồng chưa cưới, đương cuộc vui gặp điều không may. Song, trong bụng đều tin là chàng bị oan, và rồi pháp luật công minh, thì ngày một ngày hai, sẽ lại được về. Ai nấy mong chiều rồi mong sáng, mong sáng rồi lại mong chiều.

Rồi đến dăm bảy hôm, không thấy Liêm Khê về, thì cả nhà mới lo lắng. Ông Tú ở nhà thì an ủi bà Cử, ra ngoài thì đến nhà bạn Liêm Khê để hỏi xem họ có biết vì đâu chàng bị nạn hay không. Nhưng không ai rõ. Cực nhất là Lệ Dung, nàng phải về trường một mình. Nàng không biết than thở cùng ai nơi đất khách ấy được. Người ta thấy lạ là cô giáo về Hà Nội thì vui vẻ, tươi như hoa mà khi trở lại trường thì ủ rũ như lá liễu. Nàng đã mất trọn mấy đêm chỉ chợp ngủ, hơi có tiếng động là giật mình sực dậy rồi nghĩ tới Liêm Khê mà ruột gan như nóng như cào. Nhiều lúc nàng tưởng chừng như nghe rõ Liêm Khê gọi giật, nhưng chồm dậy lắng tai thì ra không phải tiếng người quen. Nàng mong có thư của cha, cho nàng tin tức. Nàng mong có thư của Liêm Khê báo tin mừng chàng đã được về. Nhưng hết ngày này sang ngày khác, và đến hôm nghỉ, nàng về Hà Nội.

Bà Tú và bà Cử thấy nàng mắt quầng đen, lúc nào cũng ngơ ngác, và gầy đi, hai bà rất thương.

Đến khi cả nhà không thể mong là Liêm Khê bị oan nữa, Lệ Dung mới xin ông Tú thuê trạng sư bào chữa cho chàng. Chỉ trạng sư mới có thể rõ tội trạng của chàng, và lập lý bênh chàng được.

Nàng bèn đi vay các bạn, người năm chục, người ba chục, để đưa tiền cho cha.

Ông Tú thấy nàng bỗng dưng bị đau đớn, nên phải chiều ý. Tuy ông không tin trạng sư lắm, nhưng ông cho là thà mất ít tiền mà Lệ Dung được yên tâm, còn hơn để nàng lo lắng quá, lỡ ốm yếu, thì rồi mất tiền thuốc thang cũng vậy. Thầy cãi hay thầy lang, tuy là hạng thầy cả, nhưng không kém nhau về khoa nói dối. Thì trước sau, ông cũng bị lừa một lần, nhưng bị trước có lợi hơn là dò được bệnh tật, có khi nguy đến tính mệnh.

Lệ Dung không ngày nghỉ nào là không về Hà Nội. Nhưng nàng chẳng biết gì hơn là theo lời trạng sư, Liêm Khê phạm việc quốc sự. Nàng mong chóng đến ngày xử án để được biết kết quả. Nàng định ngày hôm đó sẽ đi xem, để được nhìn thấy Liêm Khê. Nàng chán nản công việc nhà trường, nhưng được ông thanh tra hiểu rõ tâm sự, nên vẫn lấy lời lẽ ngọt ngào an ủi nàng.

Nhưng rồi vì không thể chịu một mình cảnh khổ não ở nơi tứ cố vô thân, nàng xin từ chức giáo học.

Sau hết, Lê Dung tìm được cách thông tin với Liêm Khê. Nàng gởi cho chàng quần áo, khăn mặt, xà-phòng, và một vài tờ giấy trắng cùng một mẩu bút chì. Nàng viết cho chàng bức thư dài, kể lể tâm sự, và cho chàng biết tin nhà.

Thì hôm sau nàng nhận được thư trả lời của Liêm Khê:

Lệ Dung,

Nỗi đau đớn của hai bác, của đẻ, cùng của Lệ Dung thế nào, tôi đã tưởng tượng ra được cả. Bây giờ, lúc nào tôi cũng còn văng vẳng bên tai như được nghe tiếng khóc xé ruột của Lệ Dung lúc tôi bước chân lên xe ô-tô. Nhưng tôi xin mọi người ở nhà không nên thất vọng, mà tin ở tấm lòng thành thực của tôi. Tôi vô tội chẳng chóng thì chầy, một ngày kia sẽ được tha về. Tôi ở trong này đã chịu quen nỗi kham khổ. Không ai cười ai về sự rách rưới cả. Vậy đừng gởi gì vào nữa nhất là đừng thư từ, lỡ có hại cho tôi và liên lụy đến người giúp mình. Lệ Dung chớ nên buồn, Lệ Dung nên vì tôi mà an ủi hai bác, an ủi đẻ. Tôi nói vậy chứ chắc Lệ Dung đã làm cái việc về bổn phận ấy từ hôm tôi bước chân ra đi rồi. Lệ Dung nên kiếm sách vở báo chí, hoặc vui với phong cảnh, bạn bè. Đàn bà hay nghĩ vơ vẩn, và chịu để nỗi thống khổ nó làm cho yếu cho ốm. Lệ Dung vốn có nghị lực, chớ nên thế. Lệ Dung không nên mau nước mắt như người ta. Chính tôi đây, bây giờ đã tìm cách khuây buồn, và chờ và hy vọng. Ở ngoài Lệ Dung vui là vui cho tôi, ăn là ăn cho tôi, ngủ là ngủ cho tôi. Bởi vì sự thực, tôi có làm gì cho Lệ Dung kém vui, mất ăn mất ngủ đâu. Chẳng qua tôi bị cái hạn, hết hạn, tôi lại về, sống vui vẻ bên cạnh Lệ Dung. Tôi biết là vô tội, nên không cần đến ai bênh vực, vì pháp luật rất công minh.

LIÊM KHÊ

Lệ Dung đọc thư cho cả nhà nghe, rồi giữ tờ giấy như một bảo vật. Nàng lồng bức thư vào khung ảnh Liêm Khê, treo ở đầu giường.

Nàng dằn lòng chờ đợi phiên tòa, không thông tin tức gì cho Liêm Khê nữa.

Một hôm, trạng sư cho ông Tú biết là thứ Ba sau, tòa sẽ đăng đường xử Liêm Khê, cùng ngót trăm người khác.

Đến ngày ấy, ông bà Tú, bà Cử và Lệ Dung dậy thực sớm, để đến tòa án. Nhưng ở các ngã tư, sự canh phòng rất nghiêm ngặt, không ai được tới xem.

Lệ Dung bực mình, nhưng không thể trái lệnh. Nàng chỉ còn mong được đọc tin ở các báo. Hôm sau, báo nào cũng đăng bài tường thuật ngay từ trang đầu, mà chưa thấy đến lời cung của Liêm Khê. Lệ Dung thấy nhiều bị cáo đối đáp với quan tòa một cách cứng cỏi quá, thì thầm mong Liêm Khê đừng bắt chước họ, cứ ôn tồn lễ phép, mới mong lượng trên soi xét bụng con người hiền lành.

Số báo hôm sau, báo mới viết về Liêm Khê.

Bài của trạng sư cãi cho Liêm Khê rất dài. Lệ Dung đọc kỹ để suy nghĩ.

Liêm Khê mồ côi cha từ năm lên chín, được bạn của cha nuôi cho ăn học từ lớp đồng ấu đến lúc thành tài. Hắn là một người đã nếm nhiều vị cay đắng chua chát .ở đời, thì hắn rất thèm cảnh vinh hoa phú quý. Hắn vừa được bổ giáo sư, lại sắp cưới vợ. Bao nhiêu sự vui sướng của đời hắn dồn dập đến với hắn vào quãng tháng Chạp năm ngoái. Hắn sắp được mãn nguyện, lẽ nào lại tự gây lấy cái họa, trái với điều sở ước bao giờ. Vậy xin tòa xét cái lý lịch hắn khi còn là một cậu học trò được thầy yêu bạn quý, xét đến cái tâm lý hắn, mà tha cho hắn lại được về làm ăn như trước. Biết đâu chính phủ không lợi được một người giúp việc trung thành.

Đọc xong, Lệ Dung rất thất vọng. Trạng sư đã không tìm cho ra lẽ để cãi, mà chỉ xin tòa vì cảm tình mà tha cho Liêm Khê. Vì số báo hôm ấy hẹn hôm sau sẽ đăng bản tuyên án của tòa, nên Lệ Dung lo lắm. Song, nàng vẫn hy vọng Liêm Khê được tha về. Nếu Liêm Khê được tha về nàng sẽ mừng chảy nước mắt.

Nàng cùng bà Cử đi xem bói. Tuy không tin bói toán nhảm nhí, nhưng đến lúc quẫn, nàng cũng luẩn quẩn như người thường. Nàng thấy thầy bói nói dựa dẫm, thì chán nản. Bà Cử và bà Tú sửa lễ vật kêu cầu các đền thiên.

Lệ Dung về đến nhà, tự nhiên thấy một con nhện trên trần sa xuống trước mặt, nàng cho là một điềm lành. Nàng bắt lấy, để vào gang bàn tay. Con nhện nhảy một cái lòng thòng xuống, rồi rút tơ, lại lên tay nàng. Nàng đem triệu ấy hỏi ông Tú. Ông chỉ thở dài. Bà Cử và bà Tú tán hết ra thế nọ lại ra thế kia.

Sáng hôm sau, nàng dậy sớm hơn mọi ngày để mong cho chóng tới giờ mua báo.

Tờ báo đến. Nàng vội vàng mở ra. Cả nhà xúm quanh, yên lặng để nghe.

Lệ Dung nhìn ngay cuối cột, để đăng những người được trắng án. Nhưng không thấy tên Liêm Khê. Nàng tái mặt đưa mắt lên dòng đăng bọn phải án hai năm, và năm năm. Nàng run run. Đưa mắt lên tí nữa, chỗ án mười năm. Nàng thất vọng, thổn thức. Đưa mắt lên chỗ án hai mươi năm, nàng toát cả người. Đưa mắt lên tí nữa, bỗng nàng rú lên:

- Chung thân, trời ơi!

Rồi nàng khóc, bà Cử khóc, bà Tú khóc. Ông Tú thở dài, chấm đôi con mắt đỏ ngầu ngầu.

Trong khi chờ ngày phát vãng, Lệ Dung được vào thăm Liêm Khê một lần. Nàng mang quà bánh, đồ ăn rất nhiều. Thấy cảnh ngục tù nghiêm ngặt, nàng rùng rợn, nhưng khi trông thấy Liêm Khê, nàng khóc sướt mướt như mưa, đến nỗi người canh ngục phải ái ngại, và cho được tự do trò chuyện cùng nhau.

- Anh có đi đâu cho em đi với.

- Chết! Chớ nói gở mồm. Lệ Dung phải ở nhà. Còn cái bổn phận làm vợ, làm mẹ nó chờ Lệ Dung đó!

- Làm vợ ai, anh nói? Anh tưởng em còn thương yêu ai được nữa hay sao? Em thề rằng em chờ anh.

Liêm Khê đau đớn, lắc đau:

- Em đừng nghĩ quẩn, em chưa kết hôn cùng anh, thì em có thể đi lấy chồng. Em nên coi anh như đã chết! Mà em chờ anh đến ngày nào?

- Khốn nạn! Anh phụ bụng em đến thế nữa ư? Thà anh chết thật, em không đến nỗi rầu lòng như anh phải chết dở thế này. Em chỉ biết yêu một mình anh, em thề rằng em không lấy ai cả.

- Không được! Lời anh đến thế này là tuyệt vọng. Nhưng em không làm gì nên tội thì hơi đâu hứng lấy cái khổ vào mình.

- Anh gọi là khổ thì không đúng. Em chỉ thờ một tấm ái tình của chúng ta mà thôi.

- Vậy Lệ Dung thật yêu thương tôi à?

- Sao anh còn phải hỏi.

- Thế thì anh yêu cầu một điều, Lệ Dung nên nghe; mà nên nghe một người bạn vắng mặt tức là an ủi người ấy đó.

- Anh yêu câu điều gì?

- Nếu Lệ Dung thật thương yêu tôi thì Lệ Dung nên đi lấy chồng.

Lệ Dung cau mặt, tỏ ý tức tối:

- Thế thì anh khinh em quá. Bụng em như đá, không thể làm chuyển được điều em đã định.

Liêm Khê nhăn nhó:

- Lệ Dung không lấy chồng, tức là làm tôi khổ. Rồi đây, đất khách quê người, tôi thui thủi một mình một bóng, Lệ Dung còn muốn tôi bận lòng về Lệ Dung nữa hay sao?

- Anh cứ yên tâm. Lệ Dung này muốn đau khổ suốt đời vì mất anh, chứ không muốn nhận hạnh phúc của một người khác thay anh được. Chẳng có em chờ anh vậy.

- Chờ đến đời nào? Lệ Dung nói dở quá. Chưa biết trước ngày nào ly biệt, nhưng sự ly biệt vĩnh viễn thì không hồ nghi nữa. Vậy mà Lệ Dung bảo chờ, thì không còn nghĩa lý gì cả.

- Cái lý ở trong lòng mà ra. Chờ anh đến hết kiếp, nếu em chẳng được gặp, thì đến kiếp sau.

- Tôi lạy Lệ Dung, Lệ Dung nên đi lấy chồng cho tôi được yên dạ.

Lệ Dung khóc:

- Anh nói thế, em không bằng lòng tí nào.

- Tôi đi, tôi không muốn đem theo một tí gì trong bụng. Nếu Lệ Dung còn bắt tôi vì Lệ Dung mà ân hận suốt đời, ấy là Lệ Dung bắt tôi đeo một tội nữa, mà cái tội về tinh thần còn dằn vật tôi bằng mấy cái tội về vật chất, bởi vì tự nhiên tôi đày đọa một đời Lệ Dung.

- Tự em đày đọa em, anh không nên nghĩ. Anh mặc em.

- Lệ Dung có thương yêu tôi thì nên đi lấy chồng.

- Nếu anh còn nói câu ấy, thì em liều thân ngay đêm nay cho anh coi. Em cấm anh nói câu ấy.

- Anh cũng cấm em chờ anh, nếu em cứ đinh ninh như thế, thì anh cũng cắn lưỡi chết quách đi cho em khỏi lụy một đời.

Nói xong, hai người cùng khóc.

* * * * *

Một hôm bà Cử tự nhiên sốt ruột như cào. Bà nói với bà Tú:

- Không biết cháu Khê có mạnh khỏe không, mà từ sáng đến giờ, trong bụng tôi cứ thấy thế nào ấy.

Bà Tú nói:

- Thầy bói nói bản mệnh vững, bác chớ nên lo.

Rồi bà sai Lệ Dung sắm sửa vàng hương để hai bà đi lễ, kêu cầu cho Liêm Khê được mạnh khỏe.

Bỗng Hải Ngọc hớt hơ hớt hải đến bảo cho ông Tú biết một tin rất quan hệ, là bọn Liêm Khê vừa bi giải ra ga, lên tàu Hải Phòng.

Lập tức, ông Tú thuê ô-tô cùng cả nhà xuống Hải Phòng. Vì xe đến trước tầu, nên Lệ Dung còn được trông thấy Liêm Khê lần cuối cùng, nhưng chỉ nhìn ở đằng xa, chứ không đươc đến gần.

Liêm Khê cùng một bọn bốn người díu tay vào một xích, lững thững bước lên thang tầu thủy, vẻ mặt lạnh lùng nhưng đau đớn. Trước khi vào trong lối đi tối, Liêm Khê quay lại nhìn lên bờ. Chính chỗ này, biết bao nhiêu người thân yêu chàng đương vật vã mà tru lăn tréo lộn thì chàng lại không để mắt tới.

Một tháng sau, bà Cử tiếp thư Liêm Khê, bèn gởi về Hà Nội cho ông Tú. Thư rằng:

Thưa đẻ,

Con đã đến nơi, được bình yên.

Con chẳng may đến nỗi này, con đành chịu thất hiếu cùng đẻ, xin đẻ kể như không có con từ ngày còn bé dại, hoặc như con hư đốn, mà đẻ đã từ con.

Con ở ngoài này, tuy xa xôi, nhưng loanh quanh vẫn nước non nhà, bạn bè nhiều người quen thuộc sẵn, nên vui vẻ lắm. Sau này, thỉnh thoảng con gởi thư về hầu đẻ.

Con đi, có một điều ân hận là con chắc chị Lệ Dung sẽ không kết hôn với ai cả. Đã có một lần chị ấy ngỏ ý ấy với con, con đã hết lời giảng giải, nhưng xem ra chị ấy không nghe.

Đành rằng chị ấy thân yêu con, nhưng con đi không trở lại thì chị ấy còn hy vọng gì mà tự hủy hoại một đời? Vậy đẻ nên thương con mà khuyên dỗ chị ấy đi lấy chồng. Sau này chị ấy có gia đình vui vẻ, ấy là con mừng, mà chị ấy cũng làm được yên tâm người đi vắng. Chị ấy thương yêu con, nhưng con tưởng có thương yêu con thì nên đi lấy chồng.

Xin đẻ năng đi lại trên bác Tú để tỏ lòng biết ơn của mình. Sau này chị ấy kết hôn cùng ai, xin đẻ cũng coi chị ấy như bây giờ vậy.

Những quyển sách của con để ở trong tủ, ai xin thì đẻ cứ cho, vì mua đắt tiền lắm, đẻ giúp cho người thiếu thốn.

Ở ngoài này, hiện nay con chưa cần gì cả.

Xin đẻ cứ yên tâm về phần con.

Con bái chúc đẻ mạnh khỏe, cả họ, cả làng bình yên.

Bái thư

LIÊM KHÊ

Lệ Dung đọc thư, nước mắt ràn rụa, cầm bút trả lời như sau này:

Anh Liêm Khê,

Em tiếp thư anh gởi về bác, em đã tạm được yên tâm, vì biết đích chỗ ở của anh. Sau này, cứ mỗi tuần, em viết cho anh một bức thư.

Em từ giáo học rồi, anh ạ. Mà anh tính em còn đi làm làm gì nữa? Trời đã chẳng cho em được sung sướng, thì thôi, bao nhiêu những cái may mắn mà số phận em được hưởng, em xin trả lại trời, không nhận nữa.

Còn như cái ý của em đã định, em không khi nào đổi, vì em không muốn quên anh. Lúc nào em cũng phải nhắc cho anh biết rằng đời em thiếu anh là thiếu tất cả. Anh cứ coi như em đã lấy chồng, tự khắc anh được yên dạ. Bây giờ em không hay khóc nữa. Em quen đi rồi. Khóc là còn hy vọng, chứ em đã tuyệt vọng thì còn đâu là nước mắt.

Nếu anh thiếu các thứ dùng, hay cần gì, xin cứ bảo, em sẽ gởi ra. Anh chớ ngại chi cả. Phải xa anh, em khổ, nhưng chỉ còn được vui ở chỗ săn sóc đến anh mà thôi. Em đã coi anh là chồng, xin anh nhận em là vợ. Tình nghĩa của đôi ta, chỉ còn, một tí ấy là tỏ được tấm lòng của nhau thôi! Nếu anh vẫn coi em như trước, thì em được chút an ủi, mà em cảm tạ ơn trời. Nếu anh coi em ghẻ lạnh như người qua đường, em cũng đành tâm, dám nào trách anh. Ở ngoài ấy xin anh cứ lấy phong cảnh, bè bạn làm khuây đừng nghĩ gì đến gia đình nữa.

Em sẽ thay anh, phụng dưỡng mẹ già. Anh nên yên chí rằng vắng anh nhưng có em, thì cảnh gia đình không đến nỗi khác trước. Thiếu anh là thiếu người, chứ không thiếu bụng.

Vậy từ nay, xin anh đừng đả động đến việc khuyên em đi lấy chồng, mà em tủi thân.

Vợ anh: LỆ DUNG

Lệ Dung,

Tôi cảm ơn Lệ Dung đã gửi sách vở, tiền nong và thức ăn ra cho tôi.

Đọc thư Lệ Dung, tôi cảm động quá: thành ra tôi không ngờ làm hại một đời Lệ Dung.

Nhưng mà Lệ Dung ơi! Thế thì Lệ Dung ác quá, Lệ Dung vẫn bắt tôi có thêm một mối nghĩ ngợi nữa. Vậy ra Lệ Dung chỉ biết yêu tôi mà không biết thương tôi. Nếu thương tôi, không bao giờ Lệ Dung nỡ bắt tôi phải khổ thêm, cho nên tôi vẫn nói: Lệ Dung có thương yêu tôi thì nên đi lấy chồng.

Từ xưa đến nay, Lệ Dung với tôi có một chỗ giống nhau, là coi cái gì vô lý thì không làm, dù thế nào cũng không làm. Nay Lệ Dung nhất định làm một việc vô lý. Lệ Dung thử nghĩ lại, hoặc đi hỏi từng người xem, tôi nói có phải không?

Vậy Lệ Dung nghe lời tức là làm cho hai người cùng được bớt khổ, mà trái lại, là Lệ Dung làm một điều vô lý hại cả hai người. Đã đành rằng đời tôi là đời bỏ đi. Nhưng Lệ Dung còn ở xã hội theo khuôn phép, khuôn phép của gia đình, khuôn phép của tạo hóa, thì Lệ Dung nên nghĩ lại.

Tôi ở ngoài này có nhiều người quen, nên khuây sự nhớ nhà, những không lúc nào tôi không mong cho Lệ Dung quên tôi.

Đời Lệ Dung, tôi quyết sao cũng gặp được người gấp trăm gấp nghìn tôi, cho nên Lệ Dung không nên tự phi. Lệ Dung lấy được chồng như ý, ấy là tôi mừng. Lệ Dung với tôi nếu không được làm vợ chồng, thì làm anh em cũng thế. Vả cứ như đôi ta bây giờ, thì nên bớt chữ yêu đi, ta nên quý nhau, thương nhau mà thôi.

Tôi hy vọng ở Lệ Dung.

LIÊM KHÊ

Ngót một năm trời, Lệ Dung và Liêm Khê thư từ đi lại như vậy. Lần nào chàng cũng khuyên nàng nên lấy chồng, mà nàng nhất định không nghe. Nhưng từ đầu tháng thứ bảy, nàng không tiếp được thư chàng nữa. Nàng lấy làm nóng ruột quá.

Nàng viết ra mấy lần, trong mấy tháng sau nữa, và vẫn không có thư trả lời. Nàng lo lẳng hết sức, có lẽ chàng bị ốm hay bị mang đi chỗ khác rồi chăng.

Lại đến tháng sau này, ngân phiếu và bưu kiện Lệ Dung gởi ra, thì nhà Dây Thép lại trả. Nàng không hiểu tại làm sao. Nàng không biết hỏi ai được. Nàng càng nghĩ ngợi, càng thêm thương Liêm Khê lủi thủi một mình. Những khi ốm đau, biết ai trông nom săn sóc cho? Lần sau cùng, nàng gởi thư bảo đảm, nhưng nhà Dây Thép cũng lại trả.

Cả nhà lo sợ, riêng Lệ Dung đau đớn bội phần. Một hôm, bà Cử ở nhà quê ra, vừa xuống xe, bà đã hớt hơ hớt hải vào. Lệ Dung biết ngay tin dữ dội, vội vã hỏi, bà Cử nói:

- Nó chết rồi!

Cà nhà tái mét mặt, Lệ Dung òa lên khóc lóc. Bà Cử đưa ông Tú xem bức thư của người bạn Liêm Khê:

Thưa bà,

Tôi ở cùng trại với anh Liêm Khê, đau đớn mà báo để bà biết rằng anh Liêm Khê thụ bệnh bốn tháng nay, đã từ trần hôm qua.

Anh là người đáng quý đáng phục; mất một người bạn thân, chúng tôi thương xót lắm.

Việc chay ma, chúng ta đã làm xong mà rất trọng thể. Vậy tôi báo tin này để bà biết. Trước khi anh nhắm mắt, chúng tôi có hỏi anh muốn nhắn gì về nhà, song anh lắc dầu.

Vậy xin bà cứ yên tâm. Chúng tôi xin trông coi phần mộ anh, như anh em ruột thịt vậy.

Nay kính thư

CHÍNH