← Quay lại trang sách

- V -

Trên con đường thuộc địa số năm, vào quãng quá ga Phú Thụy, độ hơn sáu giờ chiều, một chiếc ô-tô hàng chạy về Hà Nội, đến đấy thì hỏng máy. Trong xe, chỉ còn hai hành khách, một người con gái và một bà già. Hai người mới làm quen nhau từ lúc người tài xế và các người phụ xuống chữa máy. Vì người con gái ngồi ghế trước, bà lão ngồi ghế sau, vả trước kia hành khách còn đông, mới lảng tảng xuống cả chợ Đường Cái, Đình Dù, và Phú Thụy.

Mãi xe không chạy được, tuy các người làm xe cố sức thử thách và kỳ cạch các máy, mất đã lắm mồ hôi.

Bỗng một cơn giông nổi lên. Gió làm bạt hơi, bụi bay, mây đen kéo ngang trời u ám.

Chớp dậy loáng nhoáng. Một trận mưa trút nước dậm dọa chỉ độ mươi phút nữa sẽ làm ràn rụa các ruộng nương.

- Liệu xe chữa có được không?

- Bà đừng nóng ruột mới được.

Người tài xế trà lời bà già, nhưng có vẻ lo ngại:

- Thôi chết mưa đến nơi rồi, nếu có xe khác chúng tôi vẫy lại cho các bà lên, chứ chờ xe này thì biết bao giờ.

Vừa nói đoạn, thì độp độp mưa xuống.

Mọi người thất vọng, thở dài, rồi mưa rào càng to, gió thổi ù ù. Bốn bên tối đen, chớp nhoáng làm hiện những đám mây nhăn nhó.

Trời tối xập, mưa gió càng dữ, chiếc xe đứng chết gí ở giữa chỗ bát ngát mà nước dội xuống như thác. Trong xe dột tứ tung, tối như hũ nút. Người con gái sợ hãi trèo vào phía trong, ngồi bên cạnh bà cụ bạn. Bà này ngồi bó giò ở chỗ kín gió, gục mặt xuống hai đầu gối, lẩm bẩm một mình. Bốn người làm xe ngồi tiu nghỉu đằng trước. Ánh sáng chớp nhoáng thỉnh thoảng lọt vào khe, lòe thẳng vào mặt người con gái.

Lão tài quay mặt vào tựa cằm lên thành ghế, nhí nhảnh nói:

- Thế này mấy thú, bà già ngủ đấy à?

Bà cụ ngẩng mặt lên đáp:

- Các ông chữa xe cho chúng tôi về chứ.

- Ngủ ở giữa đồng càng hay, bà sợ gì.

Lão “xơ-vơ” nói:

- Mấy khi đã có dịp may trời cho.

Rồi bốn người cười ha hả, trèo lổm nhổm vào góc trong.

- Ngoài này hắt quá, ta vào đây nói chuyện cho vui.

Mưa vẫn như đổ nước xuống, chớp lòe sáng. Nước cống bên đường chảy như thác. Người con gái biết tất có sự chẳng hay sắp xảy ra, ngồi thẳng lại, nghiêm nét mặt thở dài nói:

- Các ông không chữa xe đi à?

- Mưa thế này thì cô bảo chữa thế nào được. Cô này hẳn không biết cầm máy ô-tô.

Một dịp cười ròn, dưới ánh sáng một luồng chớp, hiện ra bốn nét mặt ranh mãnh, chăm chăm nhìn cô con gái.

- Cô em ở phố nào?

- Các ông hỏi làm gì?

- Để biết chứ làm gì, cô còn phải hỏi?

- Nhưng các ông hãy nên tự hỏi các ông xem tôi có phải hạng người để trả lời các ông những câu ấy hay không?

- Cô này lý sự quá.

Bà lão nói:

- Cô ấy là người tử tế, các ông chớ coi ai cũng như ai.

- Thì ai bảo cô ấy không là người tử tế!

Một người phụng phịu nhìn bà già:

- Nhà tôi đấy bà còn phải dạy tôi.

Tiếng cười đắc chí xen vào tiếng vỗ tay ten tét. Người con gái hầm hầm đáp:

- Chủ các ông dặn các ông đối với hành khách thế à?

- Phải.

- Chủ tôi còn bằng mười ấy.

Nghe câu nói hỗn xược, người con gái đứng phắt dậy, chẳng ngờ đâu đụng vào nóc xe đánh đốp, khiến lũ kia lại được dịp cười già.

- Đó, trời phạt cô đấy nhé.

Bà cụ giữ tay cô ta lại:

- Thôi làm gái cho người ta đùa, hơi đâu giận dữ.

- Nhưng sơn ăn từng mặt chứ!

- Sơn chả chừa mặt nào cả, nhất là mặt cô.

Câu nói của họ nói không ngoa, vì buổi chiều lúc cô lên xe, họ đã trông rõ cô.

Cô đội khăn nhung, mặc áo the trơn, đi đôi giày nhung tím đã cũ, mặt cô hiền lành, nhất là đôi mắt ngây thơ, làm cho người khác lầm là ngớ ngẩn, ít lịch duyêt. Cứ bề ngoài mà đoán thì cô là một cô con gái nhà quê, ra tỉnh có việc, ai có ngờ đâu cô ấy lại là người chôn nhau cắt rốn tại Hà thành, đã học chữ tây và đỗ bằng Cao đẳng tiểu học, nghĩa là có ngờ đâu cô ấy là Lệ Dung.

Lệ Dung ở Cao Xá về Hà Nội. Nàng đang có mối đau thương trong lòng: Bà Cử mới tạ thế. Mà bà lại bị bệnh thời khí mà qua đời.

Nguyên từ ngày Liêm Khê dặn bà Cử ra Hà Nội nói dối là mình mất, thì bà không năng lên thăm ông bà Tú nữa. Chính bà đã nhiều lần thể lời Liêm Khê mà khuyên Lệ Dung chớ chung tình với chàng. Song nàng không nghe. Vì vậy, bà phải buộc lòng làm ra vẻ lãnh đạm, để Lệ Dung chán nản, biết bực mình về thái độ bà mà đi lấy chồng.

Song ngờ đâu, nàng càng kiên nhẫn. Nàng thương Liêm Khê bao nhiêu, càng nghĩ đến bà bấy nhiêu: mà càng nghĩ đến bà bao nhiêu, nàng càng không đổi ý định bấy nhiêu. Nàng về thăm bà luôn, và lần nào cũng quà cáp hậu hĩ. Nàng lại giao thiệp cả với người trong họ chàng, nên ai cũng có bụng quý và thương nàng.

Lần này nàng về thăm bà, giữa lúc làng bà đương phát ra bệnh thời khí dữ dội.

Thấy nàng về bà lo sợ cho nàng, nên giục nàng đi quầy quầy. Nhưng nàng nói:

- Ở nhà nguy hiểm, vậy con mời đẻ ra Hà Nội với thầy me con.

Bà đáp:

- Tôi sống đã đủ, dù có chết cũng đành tâm. Nhưng chị còn trẻ, nên nghĩ đến ông bà.

Lệ Dung mỉm cười:

- Con mới về thăm đẻ, con còn ở chơi vài ngày nữa. Con chắc trời không phụ kẻ hảo tâm. Mà dù có làm sao, thì con sớm được gặp anh Liêm Khê.

Bà Cử cảm động, rơm rớm nước mắt.

Đến buổi tối hôm đó, bà thấy lâm râm đau bụng. Nhưng bà gan, không nói ra.

Mãi gần đến sáng, Lệ Dung cựa dậy, không thấy bà nằm cạnh, nàng lấy làm ngạc nhiên quá.

Nàng lên tiếng gọi, thấy bà thưa ở phía vưỡn.

Nàng bèn vùng dậy, mở cửa ra sân, hỏi bà, mới biết bà đau bụng, và phải dậy lần này là lần thứ tư.

Nàng giật mình, biết là bà mắt phải bệnh đi tả.

Chờ bà vào trong nhà, nàng đắp cho bà rồi mới cầm gậy mở cổng ra đi. Nàng đến nhà những người họ Liêm Khê, gọi cổng để xin thuốc.

Nhưng không ai có thuốc, và ai cũng sợ, lại thăm

bà không dám ngồi lâu.

Thành thử chỉ có một mình Lệ Dung loanh quanh cạnh bà Cử.

Bệnh bà Cử mỗi lúc một nặng, song Lệ Dung không hề tỏ vẻ sợ sệt, ghê tởm. Nàng nâng giấc bà, và cố ép bà uống những thứ thuốc mà nàng vừa gửi mua được.

Đến lúc biết là thất vọng nàng mới rưng rưng nước mắt, nhờ người đi Hà Nội mời cha mẹ nàng về ngay Cao Xá.

Chính nàng đã có mặt lúc bà Cử thở hơi cuối cùng, chính nàng đã vuốt mắt bà Cử, nàng đã lo liệu việc ma chay cho bà Cử.

Ông bà Tú phúng viếng bà Cử xong về Hà Nội, còn Lệ Dung ở đến hôm ba ngày mới từ giã mộ bà. Vì còn đi chào họ hàng bà, và mọi người đều giữ lại nói dăm ba câu chuyện để tỏ lời quý mến con người tử tế ít có, nên nàng phải lỡ tầu, vì vậy nàng phải đáp xe ô-tô, nên mới xảy ra câu chuyện lôi thôi lúc cơn giông mà ta vừa biết.

Bọn người làm xe giở thói trêu hoa ghẹo nguyệt mà Lệ Dung đang đau đớn về nỗi niềm riêng, nên sinh ra cáu và liều. Họ phải mắng nên tức lắm. Anh tài xế nói:

- Cô phải biết, ở giữa đồng này, một mình cô không thể địch được bốn chúng tôi. Tôi bảo gì cô phải nghe. Còn bà già kia chúng tôi bỏ rọ.

Lệ Dung căm tức điên ruột, đáp:

- Các ông định làm gì tôi? Các ông hèn nhát thế à?

Ngoài vẫn mưa, vẫn gió, vẫn chớp. Lệ Dung định liều xuống đất, đi về ga Phú Thụy chờ xe lửa đêm. Nàng muốn kêu rầm lên nhưng làng xóm ở xa. Nàng nhìn chẳng có xe ô-tô nào chạy xuống. Từ nãy đến giờ không ai nói. Một người thấy Lệ Dung nhăn nhở nói:

- Này em, nghe chúng anh thì được sung sướng.

Lệ Dung thấy thân cô thế cô, biết là nguy, bèn liều nhảy tót xuống đường thì bị bốn người kéo tay co lại.

- À, chúng bay định giở thói côn đồ phải không?

- Không, cô ơi, cô đi xe tôi, tự nhiên cô xuống, chúng tôi sợ mất khách phải níu cô lại đấy chứ.

- Buông ngay ra, tao nhớ số xe chúng mày rồi.

- Tội vạ gì thế. Kia, bà cụ bảo cô ấy hộ tôi với.

Mưa như tát vào mặt. Lệ Dung ướt như chuột lột, rét run. Nàng cố co được tuột tay ra, lùi xa mấy bước, nhưng bốn con dê dại nhảy xổ cả xuống, định ôm thốc lấy nàng. Nàng nhanh tay vớ được hòn đá, ném mạnh một cái: “Bốp” Một đứa kêu:

- Ối trời ơi!

- À, con này sống với chúng ông!

Nói đoạn, họ hô:

- Anh em không xé tan nó ra được à!

Ba đứa sấn lại. Lệ Dung kêu rầm lên chửi và rủa. Nàng nhanh thoăn thoắt, khi vừa bị chúng nắm, lại gỡ được ra ngay. Nhưng nàng sức vóc được mấy hơi, nên độ năm phút, chúng đã ôm chầm được, và đấm vào mạng mỡ một cái. Nàng ngã vật xuống. Chiếc áo the bị xé rách soàn soạt, khăn tuột, tóc xổ, rối lung tung. Đương vào lúc nguy hiểm thì may đâu, đằng xa, hai ngọn đèn pha chiếu nhoáng những giọt nước mưa, một chiếc ô-tô cuốn đường đi lại. Bọn làm xe sợ cuống, bỏ chạy. Lệ Dung mừng rỡ, quên đau đớn, gượng đứng dậy vẫy. Lập tức chiếc xe đỗ. Một người thiếu niên nhảy tót xuống, hỏi duyên cớ.

Lệ Dung vừa lên tiếng để kể đầu đuôi câu chuyện thì bỗng người thiếu niên hỏi:

- Có phải cô giáo Dung đó không?

- Vâng, chính tôi, ngài là ai, tôi không được biết.

- Hải Ngọc, cô có nhớ tôi không?

- À, vậy thì may tôi được gặp bác. Nhờ bác cứu tôi.

Hải Ngọc nghe Lệ Dung kể tội bọn người làm xe ô-tô hàng thì giận lắm. Chàng nhảy xổ lại, định ra tay trị cho bọn côn đồ một trận. Ngờ đâu bọn họ đông hơn, lại dự bị sẵn khí giới, bèn xông lại đánh Hải Ngọc. Hải Ngọc bị thương xoàng, rồi lên xe cùng Lệ Dung về Hà Nội.

Hôm sau, ông Tú sai Lệ Dung mua lê, táo và nho, rồi cùng nàng đến nhà Hải Ngọc.

Hải Ngọc thấy Lệ Dung, tự nhiên trong lòng

- Thưa cụ, hôm nay, sở dĩ con giúp cô giáo là sự tình cờ, ví dụ người bị bọn làm xe họ hỗn không phải cô giáo nhà, con cũng phải can thiệp. Vậy sự hành động ấy là vì bổn phận của con, chứ không phải vì cô giáo. Xin cụ đừng kể là cái ơn.

Ông Tú cười:

- Ngài nói chí phải, chúng tôi không thể viện lý gì để cãi. Nhưng xin ngài nhận chút quà này cho tôi yên tâm, một là theo tục ta, người chịu ơn phải tỏ rằng mình biết ơn, hai là nếu ngài không nhận là cái ơn thì để chúng tôi được yên tâm là được mới quen một người...

Lệ Dung mỉm cười, đỡ lời cha:

- Vâng, mới quen một người cũ. Bác là bạn thân của anh Liêm Khê tôi. Từ ngày anh Liêm Khê tôi bị nạn, các bạn bè xa lánh hết. Nay tình cờ tôi được gặp bác cứu, thật tôi lấy làm thâm cảm.

- Thưa, tôi vừa thưa với cụ là tôi can thiệp vì bổn phận của một người đàn ông, chứ không phải vì cô hoặc vì anh Liêm Khê. Anh Liêm Khê với tôi là đôi bạn chí thân. Từ ngày anh đi xa, các bạn bè đều thương xót cả. Sở dĩ cô tưởng chúng tôi xa lánh, là do không biết hỏi thăm chỗ nào cho tiện. Vì quê anh ở Cao Xá thì xa, mà lại đằng hai cụ nhà càng bất tiện. Một người thông minh, hòa nhã, vui vẻ như vậy, ai không mến phục. Cho nên tôi tưởng cô nên chiếu tình mà miễn trách cho chúng tôi.

Lệ Dung ngậm ngùi, thở dài:

- Là tôi nói chuyện thế, nào dám trách ai.

Ông Tú tiếp:

- Thật vậy, vả các ngài có hỏi thăm, chẳng qua chỉ thêm buồn cho các ngài và gợi mối thương cho chúng tôi.

Sực thấy câu truyện xa đầu đề quá, ông vội vàng

nói:

- Cho nên chúng tôi thấy ngài là người cũ thì thật rất quý, nhân dịp này, chúng tôi mới dám lại hầu ngài.

- Thưa cụ, cụ lại chơi là đủ, mà chẳng lại chơi, tôi cũng rất bằng lòng, vì tôi đã làm một việc hợp với lương tâm. Cụ là bậc trên, tôi đâu đám nghĩ xa xôi, mà cụ phải bày vẽ.

Ông Tú từ tốn đáp:

- Không dám.

Rồi ông nhìn Lệ Dung gật đầu làm hiệu cho nàng đứng dậy.

Hải Ngọc từ chối thế nào cũng không được, bất đắc dĩ phải nhận quà và nói:

- Người trên đã cho, kẻ dưới từ chối là vô lễ.

Ông Tú mỉm cười:

- Không dám.

Đoạn, ông cùng Lệ Dung ra về, Hải Ngọc tiễn đến tận cửa.

Để cho hai người lên xe, Hải Ngọc mới nhìn theo Lệ Dung mà thở dài. Sau năm năm không gặp Lệ Dung, chàng thấy nàng già đi nhiều. Ở người con gái ấy, chỉ còn nét buồn man mác, và sự lo nghĩ vẩn vơ. Tự nhiên, chàng muốn gần Lệ Dung hơn, để được nói chuyện nhiều lần với người chung tình một cách đáng phục ấy.

Hải Ngọc, chính chàng cũng chưa lập gia đình. Chàng muốn được trẻ lâu. Chàng muốn hưởng tuổi thanh niên để học, học ở sách vở và ở trường đời. Chàng đã có thể là một công chức, với lương tháng hơn trăm bạc để sung sướng với một cô vợ trẻ con nhà giàu. Nhưng chàng còn hoài bão một chí lớn. Chàng muốn có một sự nghiệp cho ra một sự nghiệp.

Cha mẹ chàng có của, nên từ khi tốt nghiệp ban Cao đẳng y học, chàng đi du lịch khắp đó đây ở trong nước, và đã sang Pháp vài năm.

Đến bây giờ, chí chàng được rèn luyện, chàng định cùng dăm ba anh em mở một tòa báo và nhà xuất bản.

Bởi vậy, chàng mới có tư tưởng lập gia đình. Chàng muốn tìm một người vợ xứng đáng với hai chữ nội tướng. Một người vợ, theo ý chàng, phải là một người chỉ ở trong gia đình, để giúp chồng làm việc ngoài xã hội. Chàng không muốn có người vợ để làm cảnh. Chàng còn văng vẳng nhớ những lời chuyện trò cùng Liêm Khê, những khi thanh vắng ở trong trường.

Liêm Khê nói:

- Bạn gái của tôi là Lệ Dung, mà bạn trai của tôi là anh. Đời tôi có hai người ấy là đủ.

Thì Hải Ngọc ngậm ngùi đáp:

- Tôi ước ao anh cùng Lệ Dung được kết hôn cùng nhau. Nhưng Lệ Dung là người làm cho tôi khó lấy được vợ, vì tôi xét nhiều người, chưa có ai hoàn toàn như Lệ Dung. Tôi đã thấy nhiều gia đình, được vợ thì hỏng chồng, mà được chồng thì hỏng vợ. Đó là cái luật thừa trừ của Tạo hóa, song tôi cũng lấy làm khó chịu. Nếu vợ chồng lấy nhau, muốn ở được với nhau mãn đời, mà tinh thần lẫn vật chất phải khác hẳn nhau thì thật đáng buồn!

Hôm sau, Hải Ngọc đến đáp lễ ông Tú, nhưng cả hai ông bà đi vắng.

Lệ Dung phải ra tiếp.

Mấy năm nay, bây giờ nàng mới lại ngồi một mình, nói chuyện với một người đàn ông lạ. Bởi vậy, nàng thấy ngượng nghịu và hồi hộp.

Song, câu chuyện không, có vẻ khách sáo. Bởi vì Lệ Dung đã tìm ngay được câu hỏi:

- Thưa bác, vậy ra bác không có chí đi làm với nhà nước?

Hải Ngọc mỉm cười:

- Vâng, giá anh Liêm Khê còn nhà, quyết bây giờ hai chúng tôi đã cộng tác với nhau để làm cái công cuộc mà chúng tôi vẫn hoài bão.

Lệ Dung hỏi:

- Thưa làm báo ạ?

- Vâng. Anh Liêm Khê cũng chỉ định đi làm có vài năm, rồi xin thôi.

Lệ Dung thở dài:

- Vâng, người định nhưng trời không cho. Số thế, biết làm sao được.

Nói đoạn, nàng đăm đăm đôi mắt, vẻ mặt man mác buồn.

Hải Ngọc nói:

- Thành thử chỉ còn một mình tôi lo công tính việc, tìm kiếm người đồng chí, nhưng khó quá.

- Vâng, thật khó.

- Anh Liêm Khê xưa kia có nói với tôi là cô cũng sẽ là người giúp việc đắc lực của anh.

Lệ Dung mỉm cười:

- Anh ấy nói vậy. Vả nghề làm báo, có phải ai cũng làm được đâu. Phải là người có tài, có học, có đức, có lịch duyệt. Đàn bà chúng tôi nông nổi, làm báo sao được. Có họa tôi giúp trong gia đình, để anh ấy được vui vẻ mà làm việc, có vậy thôi.

- Vâng, thế đủ là đắc lực rồi.

- Tôi mong như thế, nhưng đã thực hành ngày nào đâu.

Hải Ngọc cười. Chàng đứng dậy, cáo từ xin về. Lệ Dung tiễn ra cửa. Chàng hẹn:

- Để hôm nào tôi rảnh việc, mà hai cụ có nhà, tôi xin lại hầu và ngồi chơi lâu. Tôi rất ước mong được gần các cụ thâm nho.

- Vâng, xin đến ngày mai, hoặc ngày kia.

Hai người chào nhau. Hải Ngọc quay gót đi. Lệ Dung nhìn theo. Nàng bâng khuâng nhớ đến Liêm Khê. Hình ảnh người cũ, và cuốn phim việc cũ lại diễn ra trong óc nàng, khiến nàng thở dài. Nàng đóng cửa ngoài, vào trong nhà, nhìn tấm ảnh Liêm Khê lồng trong khung treo trên tường. Nàng lấy khăn lau bụi và ngắm nghía. Cái con người rắn rỏi, vui vẻ, nay đã hóa ra người thiên cổ, vùi nắm xương khô nơi góc biển chân trời. Bỗng hai hàng nước mắt chạy quanh, nàng tủi thân khi chợt nghĩ đến cảnh mình. Nàng chẳng góa cũng như góa. Nàng chán ngán những sự vui thú khác.

Đã nhiều lần, cha mẹ và họ hàng khuyên nàng lấy chồng, và giới thiệu những người có địa vị và có nhân cách. Nhưng nàng đều từ chối. Chị em bạn nàng, họ ngổ hơn, họ công kích nàng đã hủy hoại đời một cách rất vô ích, vì nàng hy sinh không để làm lợi cho ai, giữ trinh tiết không phải đường. Như vậy là gàn, là phạm tội.

Nàng đều không cãi, và cứ lẳng lặng nghe. Nhưng tấm lòng sắt đá ấy, không có sức nào rung chuyển nổi.

Vậy mà Hải Ngọc làm nàng gợi lại chuyện xưa.

Nàng muốn biết công việc làm báo của Hải Ngọc tổ chức ra sao và mong cho tòa báo chóng thành lập, tờ báo được hoan nghênh. Như vậy, dù Liêm Khê không có một tí công nào, nhưng chàng đã là người giúp chủ nó rất nhiều.

Cho nên nàng có cảm tình với Hải Ngọc, và rất mong chàng đến chơi với cha nàng.

Độ này Hải Ngọc hay lại nhà ông Tú. Là vì ông Tú thấy chàng là người rất đứng đắn, ham học, nên có lòng yêu. Thường chàng đến hỏi ông các nghĩa sách, vì bắt đầu học chữ nho.

Bởi vậy, Hải Ngọc với Lệ Dung có dịp gặp nhau luôn. Ngoài sự được nghe giảng những tinh hoa của nền học cũ, nàng lại mong chàng đến chơi để đàm đạo về việc đời, việc làm ăn. Hải Ngọc coi ông Tú như bậc cha chú, có việc gì cũng hỏi ý kiến. Một vài lần, vì nghe ông khuyên bảo, chàng thấy công việc có kết quả, nên rất phục sự lịch duyệt và cách xử sự của ông.

Đối với Lệ Dung, chàng một niềm kính trọng, coi như con thầy học. Chàng rất tiếc Lệ Dung đã tự đọa đày tấm thân, như vậy tức là làm mất của đất nước một người vợ hiền, một người dâu thảo.

Chàng chưa hiểu Lệ Dung đối với chàng ra sao song có thể đoán được là nàng trọng chàng và thiện cảm với chàng.

Chàng có tư tưởng lập gia đình ngay, và tự nhiên ước ao được kết hôn với Lệ Dung! Chàng đã phải luẩn quẩn mấy đêm để suy nghĩ. Lệ Dung chỉ là vị hôn thê của Liêm Khê, bạn chàng. Chẳng qua vì muốn chung tình với một người bạn từ tấm bé nên nàng đã hy sinh một cách vô ích, nếu đánh đổ được tư tưởng ấy, ắt nàng bằng lòng lấy chồng. Nhưng đánh đổ bằng cách nào? Thực khó. Mấy năm nay, há chẳng có bao nhiêu người đến hỏi nàng và bao nhiêu người khuyên dỗ nàng hay sao. Song vì lòng nàng như sắt đá, nên không chịu nghe ai cả. Lệ Dung lấy chồng, cố nhiên không phải lỗi, và chàng giá có lấy Lệ Dung cũng không phải là phạm tội. Chàng không cướp vợ bạn. Liêm Khê mới là đính hôn với nàng, và bây giờ đã là người thiên cổ. Chính Liêm Khê khuyên nàng nên lấy chồng. Nếu Liêm Khê có khôn thiêng ở dưới suối vàng, thấy Lệ Dung vẫn chăn đơn gối chiếc, hẳn không khỏi không hậm hực. Nếu nay chàng cảm được Lệ Dung và lấy được Lệ Dung, ắt Liêm Khê không lấy làm tủi vong linh, mà đạt ý nguyện, hẳn được ngậm cười. Liêm Khê vốn quân tử, không bao giờ lại giả dối với Lệ Dung. Vậy Liêm Khê thực bụng muốn nàng lập gia đình để gây hạnh phúc mới. Cho nên bây giờ nếu được kết hôn với Lệ Dung, tức là chàng giúp một người bạn ở nơi chín suối.

Bỗng bẵng đi đến mười hôm, Hải Ngọc không đến nhà ông Tú.

Ông Tú nhắc nhỏm luôn, mà Lệ Dung thì không hiểu vì lẽ gì. Nàng không dám nói ra miệng nhưng rất mong. Bởi vì một độ Hải Ngọc thường lại chơi, nhà nàng như có một thói quen tiếp chàng. Cho nên thấy một hôm vào giờ mà Hải Ngọc hay đến, ông Tú khăn áo đi chơi, thì Lệ Dung có ý băn khoăn và buột miệng nói:

- Thầy lại đi chơi vào lúc này!

Ông Tú đáp:

- Thầy thử lên nhà ông Hải Ngọc, xem độ này ông ta bận gì mà thưa đến chơi.

Tự nhiên Lệ Dung thấy sung sướng, nói:

- Có lẽ ông ta ốm.

Ông Tú lắc đầu:

- Chắc ông ta bận.

Bà Tú hỏi:

- Vậy ông ta không nói với ông là bận việc gì?

- Không, nhưng dễ giấy phép mở báo của ông ta sắp hết hạn, nên ông ta bận cho báo ra.

Lệ Dung gật đầu:

- Thầy nói có lý.

Bà Tú Khen:

- Xem ông ta là người tốt, mà ra cũng chưa có vợ con gì cả nhỉ.

Tự nhiên Lệ Dung thấy ngượng nghịu.

Ông Tú đáp:

- Bây giờ thanh niên họ nghĩ khác ta ngày xưa.

Bà Tú chép miệng:

- Có con bé nhà này gàn dở thì thế, chứ thanh niên nào chả mong sớm có vợ có chồng. Có họa ông Hải Ngọc này còn kén chọn, hoặc vì muốn làm những việc to lớn khác, nên chưa nghĩ đến vợ con.

Ông Tú đáp:

- Dù thế nào cũng là gàn.

Bà Tú nói:

- Thật đấy, làm gì thì làm, chứ không có người quán xuyến việc nhà cũng không được. Trời sinh ra đàn bà để giúp đàn ông chứ có phải là thừa đâu.

Lệ Dung thở dài. Ông Tú cắp ô ra phố.

Bà Tú thấy con gái có vẻ rầu rầu, nên nói:

- Thầy me ít lâu nay buồn, chỉ vì con không nghe lời. Thầy me được một mình con, giá con như người ta, bây giờ thầy me đã có cháu bế. Trong nhà có tiếng trẻ khóc vẫn vui hơn.

Lệ Dung mỉm cười và lại thở dài. Bà Tú tiếp:

- Mà me ghét nhất là phải nghe thiên hạ họ nói là con mình ế chồng.

Lệ Dung bật ra tiếng cười to, rồi đáp:

- Con mà đi lấy chồng thì thầy me buồn hơn, vì còn ai ở nhà nữa.

- Không ai ở nhà, thầy me không cần. Thầy me chỉ mong con không ở nhà này mà thôi.

Không dám đùa nữa, Lệ Dung im lặng. Bà Tú nói bằng giọng chán nản:

- Cao kỳ lắm, người ta cũng sợ.

Lệ Dung cũng nghiêm trang đáp:

- Nào con có dám cao kỳ. Khi nào con xét có thể lấy chồng thì con lấy, me đừng giục.

Bà Tú phì cười. Bà không nói nữa, bèn vào trong nhà.

Một lát, ông Tú đi chơi về nói:

- Ra ông ta đi vắng đâu xa ấy, nhà khóa cửa. Hỏi hàng xóm, họ nói đã đến mười hôm nay không thấy ông ta đi về.

Tự nhiên Lệ Dung thấy bâng khuâng. Nàng có cảm tưởng trong tâm hồn có một chỗ trống trải. Nàng thở dài khẽ.

Nàng biết nàng đã nghĩ đến Hải Ngọc nhiều quá. Nàng mong Hải Ngọc cứ đi vắng lâu, và từ nay đừng lại nhà nàng. Nàng sợ yêu. Cái tình yêu nó chiếm lòng người ta một cách rất lặng lẽ, êm đềm, không có cách gì đề phòng nổi.

Nhưng nửa tháng sau, Hải Ngọc bỗng đến chơi ông Tú. Chàng rất vui vẻ. Mà ông Tú thấy chàng, cũng mừng rỡ. Chàng nói đã vào Sàigòn mới ra. Ông Tú mời chàng ở lại ăn cơm để nói chuyện lâu, nhưng chàng chối từ, hẹn đến khi khác.

Từ hôm sau, chàng lại biệt tăm hơi, thì ở gia đình ông Tú xảy ra một việc buồn: ông Tú ốm. Ông phải bệnh sốt thương hàn.

Trước hết, bà Tú thấy ông kêu trong người hâm hấp nóng, thì ngờ ông phải cảm. Bà coi thường, theo những cách chữa mà bà vẫn biết. Bà luộc quả trứng, đánh gió cho ông. Nhưng thấy ông không khỏi, bà bèn ra hiệu bào chế, mua gói chè giải cảm pha cho ông uống. Nhưng trán ông vẫn không mát.

Qua đêm hôm ấy, sáng ông trở dậy, vẫn thấy còn sốt, bèn không ăn uống gì, song cũng không thuốc thang nữa.

Bất ngờ, ông sốt hơn lên. Người ông nóng như cái lò. Bà Tú sai người nhà mời thầy lang. Ông thầy bắt mạch kê đơn, nhưng thuốc uống đã ba chén, mà bệnh tình không giảm.

Lệ Dung lo lắm, nhưng không dám nói với mẹ. Nàng bàn nên mời ông lang khác. Nhưng ông lang khác đến cũng không khiến được bệnh lui.

Ông Tú nhiều lúc sốt quá, rên ầm ầm.

Lệ Dung đã mấy đêm ngủ rất ít. Lúc nào nàng cũng loanh quanh ở cạnh cha. Vì ông lang dặn nàng nghe bệnh, nên lắm bận thấy cha ngủ yên, nàng lẳng lặng đứng ở đầu giường hàng mấy giờ, để ý từ tiếng thở cho đến lúc cựa. Nhưng khi ông Tú mở mắt, nàng lại phải vờ như vẫn nằm ở chiếc ghế vải kê cạnh đấy. Ông có gọi thì nàng thưa, song làm như thể đuơng ngái ngủ vậy.

Những đêm khuya, nàng thường nghĩ đến bà Cử và Liêm Khê, nàng lẩm bẩm khấn hai người đã khuất ấy phù hộ cho cha nàng chóng được bình phục. Nàng chợt nghĩ đến bà Cử và cái chết nhanh chóng của bà. Nàng nhớ lại nét mặt đầy nhẫn nại của bà, trước khi bà vĩnh biệt dương thế. Nàng văng vẳng bên tại những lời bà từ giã nàng. Những lời đầy nước mắt ấy, không khi nào nàng quên được. Nàng nghĩ nếu Liêm Khê không bị tai nạn, và nàng đã là vợ chàng, hẳn hiện nay, những ngày mà chính cha nàng đương bị con ma bệnh nó dằn vật, nàng không được phụng dưỡng, và mẹ nàng riêng chịu nỗi vất vã. Người con gái lấy chồng, là người của gia đình khác. Cảm tình đối với gia đình mình kém đằm thắm. Thậm chí có người coi công việc nhà cha mẹ đẻ hững hờ như người dưng. Có người chỉ còn liên lạc với nơi chôn nhau cắt rốn vì món gia tài chưa chia đứt.

Nàng lại nhớ đến những lần cha mẹ nàng cứ khuyên dỗ nàng đi lấy chồng. Giá bây giờ nàng đã là vợ người ta thì dù nàng có ở gần, tất nàng không thể luôn luôn nâng giấc cha mẹ, mỗi khi ông bà trái gió trở trời. Bổn phận làm vợ nó cướp cả bổn phận làm con. Cho nên nàng tự nhiên thấy sung sướng về cái đời tự do của nàng.

Chợt nàng nghĩ tới Hải Ngọc, cái con người quân từ và rất kỳ dị kia. Nàng thấy chàng đối với gia đình nàng có một cảm tình rất đậm đà. Nàng không hiểu vì lẽ gì. Hay chàng muốn cầu thân?

Cầu thân! Hai tiếng ấy làm nàng băn khoăn thì chợt ông Tú cựa dậy, rên lên một tiếng kinh khủng, khiến nàng giật mình.

Nàng rón rén hé lá màn ra nhìn. Ông Tú mở mắt dậy, hỏi:

- Con vẫn thức à?

Lệ Dung khẽ đáp:

- Vâng, thầy đã ngủ được nhiều đấy, chắc thấy dễ chịu.

Ông Tú đặt cánh tay xuống chiếu, nói:

- Quái, lần này thầy sốt lâu quá. Thuốc uống không khỏi.

Lệ Dung an ủi:

- Vâng, nhưng ông lang bảo thầy xơi thêm chén nữa, rồi hãy đổi đơn.

Ông Tú yên lặng, một lát, ông phàn nàn:

- Đến nay là năm hôm rồi, thầy lo lắm.

- Không lo, thầy ạ.

- Con cứ nghe ông lang, ông nào không khuyên nhà bệnh nhân như thế, nhưng tự người ốm phải biết chứ. Thầy muốn thay thuốc.

Lệ Dung thở dài. Ông Tú hỏi:

- Sáng mai, con bàn với me xem, hay thầy mời đốc-tờ tây.

Chợt Lệ Dung nghĩ ngay đến Hải Ngọc. Chàng đã tốt nghiệp trường thuốc, ông Tú hỏi:

- Con có biết ông đốc-tờ nào giỏi không?

- Bẩm thầy không.

Ông Tú yên lặng một lát rồi nói:

- Con ạ, mai nhé, con hay me con thử đến ông Hải Ngọc xem ông ta có nhà hay không, hỏi ông ta chắc ông ta biết, nên mời ông bác sĩ nào?

- Vâng, nhưng sợ ông ta đi vắng. Nếu ông ta có nhà, tất đến chơi rồi.

Ông Tú thất vọng:

- Ừ, thầy cũng nghĩ thế.

Nhưng sáng hôm sau, tự nhiên Hải Ngọc đến thăm ông Tú. Thấy nói ông sốt, chàng sửng sốt, vội vàng vào buồng ông nằm để hỏi bệnh.

Ông Tú nghe nói có Hải Ngọc đến chơi, bỗng như nhẹ nhõm hẳn một phần người. Ông sai bắc ghế cho chàng ngồi cạnh giường, rồi nói:

- Tôi vừa cho mời ông, ông đã đến ngay, ông nhanh nhảu quá.

Hải Ngọc đáp:

- Thưa cụ, tự nhiên con đến đây.

- Thế à? Thật may quá!

Bà Tú đứng đó, nói:

- Vâng, ông tôi muốn dùng thuốc tây, nên bảo tôi đến mời ông. Nhưng chưa kịp đi, ông đã lại chơi.

Ông Tú cố mỉm cười:

- Thế là điềm tôi khỏi, ông ạ. Từ lúc nghe tiếng ông ở ngoài, tự nhiên tôi thấy dễ chịu.

Hải Ngọc sung sướng, đáp:

- Vâng, nếu cụ có lòng tin con, thì thuốc thang mới dễ công hiệu được.

- Ông mách tôi một ông đốc-tờ hay.

- Vâng.

Bả Tủ bèn kể bệnh cho Hải Ngọc nghe. Lệ Dung nói tỉ mỉ thêm cho chàng hiểu rõ hơn.

Nghĩ ngợi một lát, Hải Ngọc thất vọng, nói:

- Không khéo xoay ra thương hàn.

Ông Tú lo ngại, hỏi:

- Nhưng liệu có khỏi được không?

- Bệnh nào chẳng có thuốc. Cụ cứ yên lòng.

Rồi chàng tiếp:

- Thành thử con hối hận hết sức, là độ này con lại thưa đến thăm cụ.

Ông Tú hỏi:

- Ông đi vắng đâu?

Hải Ngọc nhăn nhó:

- Con ở nhà mới khổ chứ! Giá con không quá bận bịu, thì ngày nào cũng đến đây, ắt là bệnh cụ không đến nỗi nặng. Bệnh thương hàn có khi chỉ là sốt thường sinh ra.

Nói đoạn chàng lấy đầu chiếc kim khâu, đánh diêm đốt lên, để chờ cho nguội, rồi chọc mạnh vào đầu ngón tay ông Tú để trích lấy ít máu.

Chàng cáo từ ông Tú, nói rằng phải đi độ một giờ.

Quả vậy, khi trở lại, chàng đã mang theo một hộp trong đựng các khí cụ của một bác sĩ chuyên môn.

Chàng nói:

- Xin cụ hoàn toàn giao cho con được săn sóc bệnh cụ. Con đã học thuốc, nên việc chữa người ốm, con không đến nỗi bỡ ngỡ.

Chàng luộc ống tiêm, tiêm cho ông Tú một phát lại sức, rồi mới cho thuốc.

Chàng dặn bà Tú và Lệ Dung cách trông nom nuôi nấng ông thế nào, rồi nói với bà:

- Nhất là cụ, cụ đừng thấy cụ ông không được xơi cơm mà lấy làm thương. Cụ nên theo đúng lời con dặn, nếu sai, ngộ có xảy ra điều gì, con không chịu trách nhiệm đâu.

Lệ Dung đáp:

- Vâng, xin bác yên lòng, tôi không dám trái lời bác.

Hải Ngọc vì mắc bận việc riêng nên phải xin về, hẹn rằng trưa lại đến.

Buổi trưa chàng đến thật. Và buổi tối chàng cũng đến, ở cho đến khuya.

Lệ Dung nhận thấy chàng rất hết lòng với cha. Rồi ngày hôm sau, ngày hôm sau nữa, chàng luôn luôn ở gần ông Tú, và bệnh ông đã thuyên giảm nhiều.

Được dịp gần Hải Ngọc, nàng thấy ở chàng rất nhiều đức tính. Tuy hai người không có câu chuyện nào gọi là để đi sâu vào nỗi lòng nhau nhưng những cử chỉ con con cũng có thể làm cho hai người hiểu nhau nhiều lắm.

Hải Ngọc càng kính Lệ Dung bao nhiêu, càng yêu nàng bấy nhiêu. Mà Lệ Dung càng phục Hải Ngọc bao nhiêu, càng thiện cảm với chàng bấy nhiêu.

Và sau mười hôm thuốc thang, ông Tú khỏi.

Khi đã ngồi dậy được, ông mới nắm tay Hải Ngọc và thân mật nói:

- Không có ông, tôi cứ theo thuốc nhảm không khéo không còn đến ngày nay. Ông thật chẳng kém gì đốc-tờ.

Hải Ngọc nhũn nhặn.

- Xin cụ để lời khen ấy cho người nghĩ ra thứ thuốc chữa bệnh, và người săn sóc đến bệnh nhân. Hai hạng người ấy có công nhất.

Lệ Dung mỉm cười, nhìn Hải Ngọc.

Ông Tú hẹn:

- Hôm nào tôi thực mạnh, thể nào cũng mời ông đến xơi bữa cơm thường với tôi.

Hải Ngọc gạt đi:

- Xin cụ tha cho, con bận nhiều việc, không dám hứa trước.

Lệ Dung đỡ lời:

- Bác đã làm ơn giúp tôi, nay lại giúp thầy tôi.

Hải Ngọc nhăn mặt:

- Cô đừng nói thế.

Ông Tú cười:

- Không, tôi không làm tiệc để cảm ơn ông đâu. Tôi chỉ sửa bữa cơm xoàng để mừng tôi tai qua nạn khỏi mà thôi. Vậy thế nào cũng mời ông lại chơi, nhân thể đã lâu chưa được nói chuyện cùng ông.

Hải Ngọc vui vẻ:

- Nếu để mừng cụ, nếu để có dịp nói chuyện, thì con không dám chối từ.

Tự nhiên Lệ Dung thấy trong bụng mừng rỡ.